Câu 1: Trình bày bối cảnh lịch sử trước khi có Đảng cộng sản và hậu quả của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với XH Việt Nam
Tình hình thế giới:
Cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 CNTB phương tây chuyển sang thời đại ĐQCN. Nền kinh tế tư bản phát triển nhanh, chúng đi xâm lược các nước nhỏ yếu vơ vét tài nguyên, bốc lột nhân công rẻ mạt và tiêu thụ hàng hóa thừa ế. Cuộc đầu tư khai thác thuộc địa đem lại những lợi nhuận kếch xù, bốc lột thuộc địa làm giàu cho chính quốc.
Chiến tranh phong kiến cũ được thay thế bằng chiến tranh ĐQ (Đại chiến thế giới thứ I và sau đó là đại chiến thế giới thứ hai xuất hiện, mức độ tàn phá của chiến tranh nặng nề hơn.
Mâu thuẫn thời đại mới xuất hiện: Mâu thuẫn giữa CNĐQ, CNTB và các dân tộc thuộc địa. Mâu thuẫn giữa đế quốc với đế quốc. Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động. Mâu thuẫn giữa phong trào dân tộc có tính cách mạng – XHCN (dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản theo hệ tư tưởng Mac Lênin) với các thế lực phản động đen tối của thời đại.
Thắng lợi của các cuộc CM dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản ở các nước và nhất là thắng lợi của CM tháng 10 nga 1917 mở ra một thời đại CM mới cho sự thức tỉnh của châu á, phong trào dân chủ của nhân dân ở châu âu, châu mỹ.
Tháng 3/1919 Quốc tế thứ 3 thành lập mở ra phong trào cộng sản và công nhân quốc tế rộng lớn.. bản sơ thảo lần thứ I “luận cương về dân tộc thuộc địa” của Lênin mở ra phong trào giải phóng dân tộc cho các nước thuộc địa và phụ thuộc tường lối CM mới phù hợp với xu thế thời đại.
Tình hình Việt Nam:
Triều đình phong kiến cuối cùng của nước ta (với 5 đời vua Nguyễn) sau khi đoạt ngôi của Quang Trung – Nguyễn Huệ tính chất suy tàn của chế độ phong kiến đã thể hiện rõ. Họ không canh tân được đất nước theo tiến bộ của thời đại, họ chỉ lo xây dựng đền đài lăng mộ và bốc lột nhân dân, cho nên sức mạnh của dân tộc yếu đi, không còn sức chống lại giặc ngoại xâm đến từ phương tây
Thực dân pháp xâm chiếm nước ta năm 1858, bắt đầu bằng cuộc tấn công quân sự vào đà nẳng. Quân và dân ta đã chiên đấu oanh liệt nhưng triều đình huế nhu nhược đã ký “hòa ước” dâng đất nước cho giặc.
Sau hơn 20 năm bình định chúng đã chia Đông Dương ra làm 5 phần: Bắc kì, Trung kì, Nam kì, Ai lao và Cao miên. Chúng tiến hành 2 cuộc khai thác (lần thứ nhất 1887-1918, lần thứ hai 1919-1945) với quy mô lớn
Chúng áp dụng chế độ thực dân chuyên chế về chính trị quân sự, bốc lột nặng nề nền kinh tế và nô dịch về căn hóa.
Hậu quả của CN thực dân pháp đối với xã hội ta qua 80 năm thống trị của chúng là:
Về chính trị: Chế độ thuộc địa hà khắc với các quan toàn quyền: Toàn quyền Đông dương, công xứ ở các kỳ và đạo quân viễn chinh trang bị vũ khí hiện đại đã tước bỏ quyền tực quyền của nhà nước phong kiến. biến nhà nước này trở thành “bù nhìn” tay sai của Pháp. Chúng đàn áp dã man các phong trào yêu nước, giết hại và bắt tù đày những người có tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc.
Về kinh tế: chúng đầu tư lớn để xây dựng đường giao thông, bến cảng, đồn điền trồng cao su và khai thác mỏ. chúng thực hiện: vơ vét tài nguyên thiên nhiên, bốc lột nhân công rẻ mạt, và tiêu thụ hàng ế. Đất nước chậm phát triển suốt 80 năm, đói rách lầm than, chìm trong u tối
Về văn hóa: chúng thi hành chính sách nô dịch, tạo nên sự vong bản. văn hóa dân tộc bị vùi dập, dốt nát kéo dài để dễ bề cho chúng cai trị. Nền văn hóa “Hán – Nôm” suy tàn
Về xã hội: xã hội bị phân hóa sâu sắc theo hướng thuộc địa:
Giai cấp quý tộc phong kiến mất hết thực quyền, phần lớn làm tay sai cho giặc, chỉ lo vơ vét bốc lột dân ta, một số tinh thần dân tộc cùng nhân dân chống giặc.
Giai cấp tư sản dân tộc hình thành nhỏ bé chậm chạp, bị chèn ép phải làm tay sai, dịch vụ cho khai thác thuộc địa của thực dân, một số có tinh thần dân tộc tham gia chống giặc.
Giai cấp nông dân chiếm 90% dân số đói khổ bởi sưu cao thuế nặng , bắt lính, bắt phu. Dưới áp bức bốc lột của Đế quốc, phong kiến, nông thôn thôn xơ xát tiêu điều.
Giai cấp công nhân hình thành dần trên các đồn điền, hầm mỏ và các đô thị bến cảng bị bốc lột sức lao động thậm tệ, đồng lương rẻ mạt.
Tầng lớp trí thức dân tộc phát triển chậm chạp và phân hóa sâu sắc. Một số làm tay sai cho giặc, phần lớn theo phong trào yêu nước, khi có Đảng hăng hái tham gia CM.
Xã hội VN nổi lên mâu thuẫn gay gắt giữa dân tộc và kẻ xâm lược, giữa người bị bốc lột và kẻ bốc lột (thực dân, phong kiến)
14 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2171 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ôn tập lịch sử Đảng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÔN TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG
Câu 1: Trình bày bối cảnh lịch sử trước khi có Đảng cộng sản và hậu quả của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với XH Việt Nam
Tình hình thế giới:
Cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 CNTB phương tây chuyển sang thời đại ĐQCN. Nền kinh tế tư bản phát triển nhanh, chúng đi xâm lược các nước nhỏ yếu vơ vét tài nguyên, bốc lột nhân công rẻ mạt và tiêu thụ hàng hóa thừa ế. Cuộc đầu tư khai thác thuộc địa đem lại những lợi nhuận kếch xù, bốc lột thuộc địa làm giàu cho chính quốc.
Chiến tranh phong kiến cũ được thay thế bằng chiến tranh ĐQ (Đại chiến thế giới thứ I và sau đó là đại chiến thế giới thứ hai xuất hiện, mức độ tàn phá của chiến tranh nặng nề hơn.
Mâu thuẫn thời đại mới xuất hiện: Mâu thuẫn giữa CNĐQ, CNTB và các dân tộc thuộc địa. Mâu thuẫn giữa đế quốc với đế quốc. Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động. Mâu thuẫn giữa phong trào dân tộc có tính cách mạng – XHCN (dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản theo hệ tư tưởng Mac Lênin) với các thế lực phản động đen tối của thời đại.
Thắng lợi của các cuộc CM dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản ở các nước và nhất là thắng lợi của CM tháng 10 nga 1917 mở ra một thời đại CM mới cho sự thức tỉnh của châu á, phong trào dân chủ của nhân dân ở châu âu, châu mỹ.
Tháng 3/1919 Quốc tế thứ 3 thành lập mở ra phong trào cộng sản và công nhân quốc tế rộng lớn.. bản sơ thảo lần thứ I “luận cương về dân tộc thuộc địa” của Lênin mở ra phong trào giải phóng dân tộc cho các nước thuộc địa và phụ thuộc tường lối CM mới phù hợp với xu thế thời đại.
Tình hình Việt Nam:
Triều đình phong kiến cuối cùng của nước ta (với 5 đời vua Nguyễn) sau khi đoạt ngôi của Quang Trung – Nguyễn Huệ tính chất suy tàn của chế độ phong kiến đã thể hiện rõ. Họ không canh tân được đất nước theo tiến bộ của thời đại, họ chỉ lo xây dựng đền đài lăng mộ và bốc lột nhân dân, cho nên sức mạnh của dân tộc yếu đi, không còn sức chống lại giặc ngoại xâm đến từ phương tây
Thực dân pháp xâm chiếm nước ta năm 1858, bắt đầu bằng cuộc tấn công quân sự vào đà nẳng. Quân và dân ta đã chiên đấu oanh liệt nhưng triều đình huế nhu nhược đã ký “hòa ước” dâng đất nước cho giặc.
Sau hơn 20 năm bình định chúng đã chia Đông Dương ra làm 5 phần: Bắc kì, Trung kì, Nam kì, Ai lao và Cao miên. Chúng tiến hành 2 cuộc khai thác (lần thứ nhất 1887-1918, lần thứ hai 1919-1945) với quy mô lớn
Chúng áp dụng chế độ thực dân chuyên chế về chính trị quân sự, bốc lột nặng nề nền kinh tế và nô dịch về căn hóa.
Hậu quả của CN thực dân pháp đối với xã hội ta qua 80 năm thống trị của chúng là:
Về chính trị: Chế độ thuộc địa hà khắc với các quan toàn quyền: Toàn quyền Đông dương, công xứ ở các kỳ và đạo quân viễn chinh trang bị vũ khí hiện đại đã tước bỏ quyền tực quyền của nhà nước phong kiến. biến nhà nước này trở thành “bù nhìn” tay sai của Pháp. Chúng đàn áp dã man các phong trào yêu nước, giết hại và bắt tù đày những người có tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc.
Về kinh tế: chúng đầu tư lớn để xây dựng đường giao thông, bến cảng, đồn điền trồng cao su và khai thác mỏ. chúng thực hiện: vơ vét tài nguyên thiên nhiên, bốc lột nhân công rẻ mạt, và tiêu thụ hàng ế. Đất nước chậm phát triển suốt 80 năm, đói rách lầm than, chìm trong u tối
Về văn hóa: chúng thi hành chính sách nô dịch, tạo nên sự vong bản. văn hóa dân tộc bị vùi dập, dốt nát kéo dài để dễ bề cho chúng cai trị. Nền văn hóa “Hán – Nôm” suy tàn
Về xã hội: xã hội bị phân hóa sâu sắc theo hướng thuộc địa:
Giai cấp quý tộc phong kiến mất hết thực quyền, phần lớn làm tay sai cho giặc, chỉ lo vơ vét bốc lột dân ta, một số tinh thần dân tộc cùng nhân dân chống giặc.
Giai cấp tư sản dân tộc hình thành nhỏ bé chậm chạp, bị chèn ép phải làm tay sai, dịch vụ cho khai thác thuộc địa của thực dân, một số có tinh thần dân tộc tham gia chống giặc.
Giai cấp nông dân chiếm 90% dân số đói khổ bởi sưu cao thuế nặng , bắt lính, bắt phu. Dưới áp bức bốc lột của Đế quốc, phong kiến, nông thôn thôn xơ xát tiêu điều.
Giai cấp công nhân hình thành dần trên các đồn điền, hầm mỏ và các đô thị bến cảng bị bốc lột sức lao động thậm tệ, đồng lương rẻ mạt.
Tầng lớp trí thức dân tộc phát triển chậm chạp và phân hóa sâu sắc. Một số làm tay sai cho giặc, phần lớn theo phong trào yêu nước, khi có Đảng hăng hái tham gia CM.
Xã hội VN nổi lên mâu thuẫn gay gắt giữa dân tộc và kẻ xâm lược, giữa người bị bốc lột và kẻ bốc lột (thực dân, phong kiến)
Câu 2: Phân tích chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng ở các hội nghị trung ương 6,7,8 khóa I.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ cho cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta là: Đánh đổ bọn đế quốc Pháp và bọn phong kiến cùng giai cấp tư sản phản cách mạng, làm cho nước Việt Nam, dân giàu nước mạnh. Hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là chống đế quốc và chống phong kiến quan hệ khăng khít với nhau
Trước những biến chuyển mới của tình hình thế giới và trong nước, khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đảng đã chỉ đạo các lực lượng cách mạng kịp thời rút vào bí mật. Tháng 11-1939, Đảng họp hội nghị trung ương lần thứ 6. Phân tích tình hình, tính chất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, phân tích chính sách của thực dân pháp và nhận định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là thực dân pháp; chúng đang đẩy mạnh và đàn áp CM, bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ của nhân dân, mâu thuẩn dân tộc đang nổi lên hàng đầu, yêu cầu cứu nước, giải phóng dân tộc được đặt ra cấp thiết. Vì vậy Đảng đề ra chủ trương: + Đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên làm nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách của cách mạng Đông Dương. + Tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” để phân hoá giai cấp địa chủ yêu nước đi với CM. Hội nghị chủ trương chỉ tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và bọn Việt gian phản động làm của công hoặc tạm giao cho dân cày nghèo cày cấy. Như vậy, nhiệm vụ dân chủ vẫn thực hiện nhưng chỉ được tiến hành từng bước để phục vụ cho nhiệm vụ dân tộc. + Xúc tiến chuẩn bị mọi mặt để tiến tới một cuộc khởi nghĩa vũ trang khi có thời cơ. + Tập hợp lực lượng yêu nước ở Đông Dương để thành lập mặt trận chung lấy tên là: “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương” thay cho “Mặt trận dân chủ”. + Phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh với nhiều hình thức để thực hiện nhiệm vụ cứu nước giải phóng dân tộc.
Nghị quyết 6 của Trung ương Đảng đã đề ra chủ trương đúng chuyển hướng cơ bản về chỉ đạo chiến lược và phương pháp CM của Đảng.
Tháng 11-1940, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 khẳng định sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Hội nghị Trung ương 6 là đúng đắn, quyết định phát triển ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và đình chỉ cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ, nhấn mạnh nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến là “hai bộ phận khăng khít của CM tư sản dân quyền”
Mùa thu 1940, phát xít Nhật vào Đông Dương, mâu thuẫn dân tộc ngày càng thêm gay gắt. Trong tình hình ấy, Nguyễn Ái Quốc về nước (2-1941). Người triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (từ ngày 10 đến 19-5/1941) tại Pác Bó (Cao Bằng). Hội nghị đã phân tích tình hình thế giới và trong nước và đến chủ trương: + Tán thành nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên nhiệm vụ hàng đầu. Xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là phát xít Pháp - Nhật và tay sai. + Tạm gác khẩu hiệu “ruộng đất dân cày”, chỉ tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và bọn Việt gian phản động, chia lại ruộng đất, giảm địa tô. + Xúc tiến chuẩn bị mọi mặt để tiến tới một cuộc khởi nghĩa vũ trang khi có điều kiện. Hội nghị còn nhấn mạnh rằng, việc tiến hành khởi nghĩa vũ trang phải chuẩn bị lâu dài, phải đấu tranh từ hình thức đến hình thức cao, phải kịp thời phát động quần chúng đứng lên tiến hành khởi nghĩa khi có tình thế CM. Hội nghị dự kiến tình thế CM sẽ xuất hiện, khi phong trào chống nhật ở Trung Quốc phát triển mạnh có ảnh hưởng tới CM Việt Nam, hoặc khi quân đồng minh đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật. Lúc bấy giờ với một lực lượng đã được chuẩn bị có thể đúng lên phát động quần chúng đứng lên tiến hành cuộc khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận, để rồi tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc. Hội nghị nhấn mạnh phải coi việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là một nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân ta lúc này. + Phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh dưói nhiều hình thức phù hợp với tình hình mới. + Ngoài ra, Hội nghị còn chỉ rõ phải tổ chức việc lãnh đạo CM trong phạm vi từng nước, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước ở Đông Dương. Vì vậy, cần thành lập một mặt trận dân tộc riêng ở mỗi nước: “Ai – Lao độc lập đồng minh hội” ở Lào, “Khơ Me độc lập đồng minh hội ở Campuchia. Ở Việt Nam, mọi lực lượng yêu nước tập hợp trong “Việt Nam độc lập đồng minh hội” (gọi tắt là Việt Minh). Chủ trên trên vừa chống xuyên tạc của kẻ thù về “Liên bang Đông Dương”, vừa làm cho mỗi dân tộc ở Đông Dương thấy hết trách nhiệm của mình trong việc đứng lên tự giải phóng, khong ỷ lại, trông chờ vào người khác. Tuy nhiên CM của các nước anh em trên bán đảo Đông Dương vẫn có mối liên quan mật thiết và ủng hộ lẫn nhau.
Nghị quyết của hội nghị trung ương lần thứ 8 (1941) đánh dấu một bước tiến so với nghị quyết 6, vì đã hoàn chỉnh được chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cho CM. Nghị quyết đã có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của CMT8 ở Việt Nam và ghi nhận sự đóng góp của Nguyễn Ái Quốc trong buổi đầu về nước, trực tiếp lãnh đạo CM trong nước.
Câu 3: Trình bày nguyên nhân thành công, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của cách mạng tháng 8-1945
CMT8 là một cuộc CM dân tộc dân chủ nhân dân, làm hai nhiệm vụ: dân tộc và dân chủ. CMT8 đã đánh đuổi được bọn đế quốc Pháp, quân phiệt Nhật, lật đổ được chế độ phong kiến, giải phóng được dân tộc, tịch thu được một phần ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian phản động chia cho dân cày nghèo, ban bố các quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Song trước hết, CMT8 làm nhiệm vụ giải phóng dân tộc, hoàn thành một nhiệm vụ cơ bản nhất của CM dân tộc dân chủ nhân dân để tiếp tục tiến lên hoàn thành những nhiệm vụ khác của cuộc CM này.
Ý nghĩa lịch sử: Đối với trong nước, CMT8 đã đánh đuổi được bọn đế quốc để giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - một nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở miền Đông Nam Á. Sự kiện này đã đưa nước ta từ một nước thuộc đại, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, dân chủ cộng hoà, đưa dân ta từ người nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, đưa đảng ta từ một đảng hoạt động bất hợp pháp trở thành một đảng cầm quyền trong cả nước. CMT8 đã mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc ta - kỷ nguyên độc lập tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội, ghi thêm một trang oanh liệt nữa vào truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm anh hùng bất khuất của dân tộc ta. Đối với thế giới, cuộc đấu tranh chống nhật, tiếp đó cuộc CMT8 đã góp phần đánh bại chủ nghĩa phát xít thế giới, trong đó có phát xít nhật ở Đông Dương. CM thành công đã đưa nước ta vào hàng ngũ dân chủ nhân dân và chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Thắng lợi này cũng là một thắng lợi lớn, chung của phong trào giải phóng dân tộc thế giới, có sức cổ vũ rất lớn lao đối với nhân dân các nước thuộc đại và phụ thuộc, nhất là các nước thuộc địa của pháp đang nổi dậy đấu tranh giải phóng cho mình. Thắng lợi này còn góp phần củng cố hoà bình ở khu vực Đông Nam Ánói riêng và trên toàn thế giới nói chung.
Nguyên nhân dẫn đến thành công của cuộc CM là do dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa vốn có truyền thống yêu nước kiên cường, bất khuất. Vì thế, khi thực dân Pháp và phát xít Nhật xiết chặt ách áp bức bốc lột tàn bạo, nhân dân ta đã vùng dậy quyết liệt, đập tan mọi xiềng xích nô lệ, giành lấy độc lập tự do. Nhân dân ta đã nhất tề hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Minh đứng dậy giành chính quyền khi thời cơ chín muồi đã xuất hiện. Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta, tổ chức quần chúng đấu tranh qua các cuộc diễn tập 1930 – 1931 và 1936 -1939. Đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, vấn đề giải phóng dân tộc đã được đặt ra một cách cấp bách, Đảng đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và phương pháp CM, ra sức xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, đẩy mạnh phong trào quần chúng ở cả nông thôn và đô thị, tiến lên chớp thời cơ lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa, đập tan toàn bộ bộ máy thống trị của đế quốc và tay sai, lập chính quyền cách mạng trong cả nước. Chúng ta đã vùng dậy giành độc lập tự do trong hoàn cảnh khách quan vo cùng thuận lợi: Quân đội Hồng quân liên xô và lực lượng Đồng minh đánh bại trên chiến trường châu Á – Thái Bình Dương. Ở Đông Dương, quân đội Nhật hoang mang tan rã cực độ, “thời cơ ngàn năm có” một xuất hiện.
CMT8 đã để lại những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về CM thuộc địa đó là: Trên cơ sở nắm vững tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã chỉ đạo chiến lược cách mạng đúng đắn và sáng tạo, biết giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, đưa nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai lên hàng đầu, nhằm tập trung mọi lực lượng để thực hiện cho kì được yêu cầu nóng bỏng của CM là giải phóng dân tộc, giành lấy chính quyền về tay nhân dân lao động. Đánh giá đúng vị trí và thái độ chính trị của các giai cấp và tầng lớp nhân dân, trong đó công nông là hai động lực chính, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ trong Mặt Trận Việt Minh, cô lập cao độ kẻ thù chủ yếu và tiến đến đánh đổ chúng. Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm bạo lực CM và khởi nghĩa vũ trang, kết hợp xây dựng lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết hợp phong trào ở nông thôn, miền núi với đô thị, đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, kết hợp chuẩn bị lực lượng lâu dài và đón đúng thời cuộc, chớp lấy thời cơ thuận lợi, phát động toàn dân tiến hành tổng khởi nghĩa trong cả nước.
Câu 4: Trình bày bối cảnh lịch sử, chủ trương biện pháp của đảng cộng sản VN trong việc xây dựng và bảo vệ chính quyền non trẻ sau cách mạng tháng 8/1945
Sau khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa thành lập đứng trước vô vàn khó khăn với tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”
+ Đối ngoại: Từ vĩ tuyến 16 ra Bắc 20 vạn quân Tưởng ồ ạt kéo vào dưới danh nghĩa giải giáp quân Nhật. Quân Tưởng tìm mọi cách lật đổ chính quyền cách mạng, tiêu diệt Đảng Cộng Sản, lập chính quyền tay sai. Từ vĩ tuyến 16 ra Nam 2 vạn quân Anh kéo vào dọn đường cho việc Pháp quay lại tái chiếm Việt Nam.
+ Trong nước: ở miền Bắc bọn “Việt Quốc”, “Việt Cách” núp bóng quân Tưởng nổi dậy chống phá chính quyền cách mạng. Ở miền Nam, các lực lượng phản cách mạng: Đảng “Đại Việt”, bọn phản động trong các giáo phái ra sức chống phá cách mạng.
+ Kinh tế nền nông nghiệp lạc hậu bị chiến tranh tàn phá, hậu quả nặng nề của nạn đói 1944 – 1945 chưa khắc phục được, nguy cơ nạn đói mới đang đe dọa với 50% diện tích bị bỏ hoang
+ Tài chính: ngân khố trên 1.200.000 đồng trong đó phân nửa bị rách nát không thể sử dụng được, cùng với đó đồng tiền “quan kim”, quốc tệ” mất giá làm cho tình hình hình tài chính càng rối loạn
+ Xã hội: hơn 90% dân số mù chữ, các tệ nạn xã hội còn phổ biến
Bên cạnh đó ta có những thuận lợi cơ bản:
+ Nhân dân ta đã giành chính quyền và làm chủ chính quyền, được hưởng quyền lợi từ chính quyền mới, do đó gắn bó và tin tưởng vào chế độ mới
+ Có sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng và chính phủ đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã chèo chống “con thuyền cách mạng” qua những ghềnh thác
+ Hệ thống XHCN hình thành, phong trào giải phóng dân tộc đang phát triển là nguồn ủng hộ và cổ vũ vô cùng to lớn
Trứơc những khó khăn thách thức đối với cách mạng Việt Nam sau cách mạng tháng Tám Đảng và chính phủ đã có 1 số biện pháp để từng bước thoát ra khỏi những khó khăn, để bảo vệ thành quả cách mạng tháng Tám.
Củng cố chính quyền cách mạng:
+ 7/9/1945 chính phủ cách mạng lâm thời công bố lệnh Tổng tuyển cử trong cả nứơc, đến 20/9 lập ủy ban dự thảo Hiến pháp
+ 6/1/1946 cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong cả nước, vượt qua những hành động chống phá của kẻ thù 90% cử tri đi bầu cử bầu được 333 đại biểu Quốc hội.
+ 2/3/1946 tại phiên họp đầu tiên của Quốc hội thông qua danh sách chính phủ chính thức do chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu
Dưới các địa phương ở miền Bắc và Trung, các hội đồng nhân dân được thành lập trên cơ sở phổ thông đầu phiếu
9/11/1946 thông qua bản Hiến Pháp đầu tiên của Việt Nam dân chủ cộng hòa
( Thắng lợi trong cuộc bầu cử Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, đập tan âm mưu chia rẽ và lật đổ của đế quốc, phát huy tinh thần yêu nước và ý thức làm chủ của mọi người dân, biểu hiện ý chí đoàn kết của mọi người dân
Diệt gặc đói, giặc dốt, và gải quyết các vần đề khó khăn về tài chính
Diệt giặc đói: đây là nhiệm vụ cấp bách, Đảng và chính phủ vận động toàn dân tham gia sản xuất, tiết kiệm lương thực, kêu gọi nhường cơm sẻ áo “hũ gạo tình thương”, “ngày đồng tâm”, với khẩu hiệu “không một tấc đất bỏ hoang” nhanh chóng gieo trồng cây lương thực, hoa mùa, tịch thu ruộng đất của bọn Việt gian chia cho nông dân, giảm tô thuế …Nhờ vậy sản xuất nông nghiệp được khôi phục nạn đói bị đẩy lùi.
Diệt giắc dốt:
+ 8/9 lập Nha Bình dân học vụ chuyên lo công tác cống nạn mù chữ
+ Đến tháng 3/1946 ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ có 3 vạn lớp học với 81 vạn học viên. Nội dung và phương pháp được đổi mới theo tinh thần dân tộc và dân chủ.
Khắc phụ khó khăn về tài chính:
+ Chính phủ kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân trong cả nứơc. Hưởng ứng xây dựng “quỹ độc lập”, “tuần lễ vàng” do chính phủ phát động, nhân dân ta tự nguyện đóng góp 370 kg vàng và 20 triệu đồng.
+ 31/1/1946 phát hành giấy bạc Việt Nam
Ý nghĩa: có ý nghĩa chính trị to lớn: làm nổi bật tính ưu việt của chế độ mới; xây dựng vững chắc khối liên minh công nông; giải quyết được những quyền lợi cơ bản cho người dân, nhân dân càng gắn bó và tin tưởng vào Đảng và chính phủ.
Đấu tranh với Tưởng và Pháp trên mặt trận ngoại giao
+ Từ 9/1946 đến 6/3/1946 ta chủ trương hòa hoãn với Tưởng để tránh đối phó với nhiều kẻ thù, tập trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam. Ta nhân nhượng cho Tưởng 1 số yêu sách về kinh tế và chính trị: chấp nhận dùng tiền “quan kim”, “quốc tệ”, cung cấp lương thực cho Tưởng, chấp nhận nhường 1 số ghế trong Quốc hội. Đối với bọn phản cách mạng và tay sai ta kiên quyết vạch trần bộ mặt bán nứơc hại dân của chúng.
+ 2/1930 Pháp ký với Tưởng hiệp định Hoa – Pháp để cho quân Pháp ra miền Bắc thế chân quân Tưởng. Trước tình thế mới Đảng và chính phủ buộc phải thay đổi chính sách kịp thời. Do vậy ta đã chủ động ký Hiệp định sơ bộ với Pháp (9/3/946) nhằm tranh thủ thời gian hòa bình để củng cố và xây dựng lực lượng.
Nội dung của Hiệp định sơ bộ
+ Chính phủ Pháp công nhân Việt Nam dân chủ cộng hòa là quốc gia tự do trong Liên hiệp Pháp có chính phủ riêng, nghị viện riêng, quân đội và tài chính riêng
+ Chính phủ Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân Tưởng và sẽ rút hết trong vòng 5 năm.
+ 2 bên ngừng bắn ở Nam bộ
31/5/1946 chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn ta sang Pháp tham dự đàm phán ở Phôngtennơblô từ tháng 7 đế tháng 9. Tuy nhiên cuối cung thất bại do hành động trì hoãn của phía Pháp. Để tỏ rõ thiện chí hòa bình và có thêm thời gian chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến sau này chủ tịch Hồ Chí Minh ký với đại diện Pháp tạm ước 14/9/1946. Theo đó ta nhượng thêm cho Pháp 1 số quyền lợi về kinh tế, văn hóa.
( Như vậy với ký kết hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9 ta đã đập tan âm mưu cấu kết giữa Tưởng và Pháp, quan trọng hơn ta có thời gian hòa bình vô cùng quý giá để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến sau này.
Tóm lại, đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” nhân dân ta dưới sự lãnh đọa của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã bảo vệ được thành quả của đã bảo vệ thành quả của cách mạng, xây dựng và củng cố lực lượng để chuẩn bị kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
Câu 5: Trình bày ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thắng lợi củ