Câu hỏi: Trình bày quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện quyết định quản lý.
Phân tích một quyết định tại địa phương ?
BÀI LÀM
Thời điểm quan trọng nhất của quá trình quản lý là việc ra quyết định quản lý. Quyết định
quản lý được coi là sản phẩm lao động của người lãnh đạo quản lý nói chung. Đây là sản phẩm
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi nếu có quyết định đúng đắn và kịp thời thì tổ chức sẽ phát
triển, nếu quyết định sai lầm, không đúng lúc thì sẽ gây tai họa, thậm chí dẫn đến sự phá
sản.
Một trong những chức năng của quản lý là ra quyết định quản lý. Quyết định quản lý liên
quan đến thành bại, đến hiệu quả cao thấp của toàn bộ quá trình quản lý. Quyết định quản lý
được coi là sản phẩm của người lãnh đạo quản lý, người lãnh đạo thể hiện tài năng của mình là
ở khâu ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định quản lý. Vì vậy, để có quyết định chính
xác, đúng đắn, khả thi và hiệu quả, người quản lý phải nắm vững các đặc điểm, vài trò và yêu
cầu của quyết định quản lý, phương pháp xây dựng và tổ chức thực hiện quyết định một cách
khoa học. Bằng những kiến thức về khoa học quản lý, chúng ta hãy phân tích làm rõ các nội
dung trên.
7 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1595 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ôn tập môn khoa học quản lý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu hỏi: Trình bày quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện quyết định quản lý.
Phân tích một quyết định tại địa phương ?
BÀI LÀM
Thời điểm quan trọng nhất của quá trình quản lý là việc ra quyết định quản lý. Quyết định
quản lý được coi là sản phẩm lao động của người lãnh đạo quản lý nói chung. Đây là sản phẩm
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi nếu có quyết định đúng đắn và kịp thời thì tổ chức sẽ phát
triển, nếu quyết định sai lầm, không đúng lúc thì sẽ gây tai họa, thậm chí dẫn đến sự phá
sản.
Một trong những chức năng của quản lý là ra quyết định quản lý. Quyết định quản lý liên
quan đến thành bại, đến hiệu quả cao thấp của toàn bộ quá trình quản lý. Quyết định quản lý
được coi là sản phẩm của người lãnh đạo quản lý, người lãnh đạo thể hiện tài năng của mình là
ở khâu ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định quản lý. Vì vậy, để có quyết định chính
xác, đúng đắn, khả thi và hiệu quả, người quản lý phải nắm vững các đặc điểm, vài trò và yêu
cầu của quyết định quản lý, phương pháp xây dựng và tổ chức thực hiện quyết định một cách
khoa học. Bằng những kiến thức về khoa học quản lý, chúng ta hãy phân tích làm rõ các nội
dung trên.
Quyết định quản lý là hành vi có tính chất chỉ thị do một cơ quan hay một người đưa ra
nhằm định hướng, tổ chức hoạt động của tập thể lao động thực hiện mục tiêu quản lý. Ra quyết
định là việc lựa chọn các mục tiêu cũng như nguồn lực và đề ra các phương pháp thực hiện để
đạt được mục tiêu đó.
Quyết định quản lý ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản lý bởi vì một quyết định đúng đắn,
kịp thời sẽ đem lại sự giàu có, phát triển ngược lại nếu quyết định sai và không đúng lúc có thể
gây trì trệ, ách tắt và nhiều khi dẫn đến phá sản. Mặt khác chu kỳ sống của một quyết định quản
lý thường trải qua 5 giai đoạn, để phát huy tối đa hiệu quả của quyết định, người lãnh đạo quản
lý phải lựa chọn và ra quyết định kịp thời ngay tại điểm quyết định phát huy tác dụng ở mức
cao nhất và phải thay đổi quyết định khi quyết định thể hiện sự trì trệ, kìm hãm sự phát triển.
Do quyết định quản lý là sản phẩm của chủ thể quản lý nên nội dung của nó thường chứa
đựng ý chí chủ quan của người quản lý chi phối như : cá tính, quan điểm, trình độ năng lực
2
nhận thức và vận dụng quy luật của người lãnh đạo quản lý. Cho nên, để đảm bảo cho các
quyết định quản lý có chất lượng thì khi đề ra các quyết định phải dựa trên các cơ sở khách
quan. Đó là : yêu cầu của quy luật khách quan tác động tới đối tượng quản lý; đặc điểm và xu
thế phát triển của đối tượng quản lý và điều kiện vật chất và thời gian có thể thực hiện quyết
định. Quyết định quản lý cũng mang những đặc điểm khác như : do chủ thể quản lý ban hành
và chỉ đề ra khi các vận đề đã chín muồi, quyết định hướng trực tiếp vào tổ chức, hoạt động của
đối tượng quản lý và có liên quan trực tiếp tới quá trình thu nhận, xứ lý thông tin, lựa chọn
phương tiện hoạt động và cuối cùng là phải được hình thành trên cơ sở hiểu biết quy luật và sự
vận động của hệ thống quản lý, ra quyết định.
Vì tính chất quan trọng của quyết định quản lý nên nội dung của quyết định quản lý phải
đảm bảo các yêu cầu như phải mang : tính khoa học, tính toàn diện, tính khả thi, tính thống
nhất, tính kịp thời, tính hiệu quả, tính linh hoạt và tính hợp pháp. Một quyết định khoa học là
quyết định phù hợp với định hướng, mục tiêu của tổ chức, phù hợp với quy luật, nguyên tắc,
nguyên lý khoa học và xu thế khách quan, phù hợp với điều kiện cụ thể, với tình huống cần đưa
ra quyết định và được xây dựng dựa trên cơ sở vận dụng các phương pháp khoa học. Một quyết
định toàn diện là quyết định có nội dung bao quát được nhiều vấn đề, thỏa mãn cao các mục
tiêu, phù hợp với những ràng buộc nhất định, được sự ủng hộ của số đông. Quyết định có tính
thống nhất cao là quyết định được ban hành bởi các cấp, các bộ phận chức năng phải thống
nhất theo cùng một hướng do mục tiêu chung xác định và các quyết định được ban hành tại các
thời điểm khác nhau thì không được mâu thuẩn, trái ngược và phủ định (những quyết định nào
hết hiệu lực phải được bãi bỏ). Một quyết định của tính kịp thời là quyết định ban hành vào
thời điểm quyết định có hiệu quả cao nhất, đáp ứng được sự mong đợi của đối tượng quản lý.
Một quyết định linh hoạt là quyết định phản ánh được mọi nhân tố mới trong lựa chọn quyết
định, phản ánh được tính thời đại, đáp ứng được sự biến đổi môi trường mà quyết định ra đời
và thực hiện. Quyết định hợp pháp, hiệu quả và khả thi là quyết định đúng thẩm quyền ban
hành, thủ tục, thể thức, không trái với pháp luật quy định; mang lại hiệu quả kinh tế và có khả
năng thực hiện được trong thực tế
Để tổ chức xây dựng và thực hiện một quyết định, nhà quản lý phải tuân thủ chặt chẽ những
bước trong quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định
Quá trình ra quyết định bao gồm 2 giai đoạn, mỗi giai đoạn thực hiện nhiều bước.
3
Giai đoạn chuẩn bị : giai đoạn này nhà quản lý thực hiện việc phát hiện những vấn đề mà
yêu cầu của tổ chức hoặc yêu cầu từ thực tiễn đặt ra, những vấn đề này phải thuộc phạm vi
mình quản lý và thuộc thẩm quyền mình ban hành. Trên cơ sở xác định những vấn đề cần ra
quyết định nhà quản lý sẽ đánh giá tình huống, xác định những mục tiêu nhiệm vụ phải làm và
tìm hiểu những thông tin có liên quan, tác động đến vấn đề đặt ra. Căn cứ trên việc xác định
những thông tin có liên quan cần phải thu thập và các mục tiêu phải đạt được, nhà quản lý sẽ
dự đoán kết quả, lựa chọn các chỉ tiêu, các tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả của các phương án
và xác định mức độ ưu tiên (trọng số) cho từng tiêu chí đã đặt ra.
Giai đoạn chủ yếu : bước đầu tiên của giai đoạn này thực hiện thu thập thông tin để làm rõ
nhiệm vụ cần giải quyết (bao gồm những thông tin về môi trường, thị trường, công nghệ, thông
tin về các yếu tố mang tính chính trị :áp lực của nhóm lợi ích, nghiệp đoàn, nhà nước...). Trên
cơ sở các thông tin đã thu thập, nhà quản lý sẽ chọn và mời những chuyên gia, những nhà
chuyên môn sâu cùng tham gia xây dựng chính thức các nhiệm vụ và các phương án giải quyết
vấn đề, thực hiện việc phân tích, so sánh, đánh giá hiệu quả và khả năng đáp ứng của các
phương án đối với các mục tiêu mong đợi nhằm chọn ra phương án tối ưu và cuối cùng là ban
hành quyết định quản lý. Để chọn lựa phương án tối ưu, trước khi đưa ra quyết định cuối cùng,
người lãnh đạo quản lý cần thiết phải tham khảo ý kiến tập thể và các chuyên gia, bảo đảm tinh
thần dân chủ thực sự và tập trung đúng nghĩa. Mặt khác, trong thực tế khi ban hành một quyết
định quản lý, ít khi gặp những trường hợp vấn đề đặt ra hoàn toàn mới, do đó, người lãnh đạo
trước khi ra quyết định mới cần phải đánh giá lại nội dung và kết quả thực hiện của các quyết
định cũ trên cả 2 mặt : cái được và cái chưa được, phân tích nguyên nhân và những kinh
nghiệm rút ra từ đó, những yếu tố hợp lý nào cần phải được giữ lại. Kinh nghiệm thực tế cũng
cho thấy rằng một quyết định đúng đắn là quyết định có căn cứ và sự phân tích tình hình một
cách cụ thể, không chỉ phân tích tình huống mà còn phân tích xu hướng phát triển của vấn đề.
Đối với những quyết định mà đối tượng thực hiện và chịu sự tác động là lực lượng đông đảo
trong xã hội thì khi chuẩn bị ra quyết định quản lý, nhà quản lý phải quan tâm tới nhân tố xã
hội ảnh hưởng tới quá trình tổ chức thực hiện quyết định như: điều kiện thực hiện, trình độ
nhận thức và phản ứng, thái độ của người thực hiện, chính sách của Nhà nước, phát triển công
nghệ, mục tiêu, thị trường Trong trường hợp ở phạm vi nhỏ, tính chất công việc đơn giản có
thể cho phép người lãnh đạo bỏ qua một số bước nào đó trong các bước kể trên.
4
Quá trình tổ chức thực hiện quyết định được bắt đầu kể từ khi quyết định được cấp thẩm
quyền phê duyệt. Bước đầu tiên trong quá trình này là lập kế hoạch triển khai thực hiện quyết
định, sau đó tổ chức tuyên truyền giải thích nội dung, mục đích, ý nghĩa của quyết định đến
những đối tượng thực hiện quyết định. Quá trình triển khai nội dung quyết định cần làm rõ các
vấn đề : thực hiện cái gì ? tại sao thực hiện ? ai thực hiện ? Thực hiện ở đâu ? thời gian thực
hiện ? và thực hiện bằng cách nào ? Việc tuyên truyền giải thích phải được thực hiện sâu rộng
và hướng dẫn thực hiện thống nhất, nhất là đối với những quyết định bao hàm nhiều nội dung
và phức tạp. Tiếp theo đó là khâu tổ chức thực hiện quyết định, kiểm tra thực hiện quyết định.
Việc kiểm tra việc thực hiện quyết định phải được thường xuyên để kịp thời điều chỉnh quyết
định cho phù hợp với tình hình thực tế nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Khâu cuối cùng là việc tiến
hành tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện quyết định : tìm ra những sai lệch, nguyên nhân sai
lệch ấy, phát hiện những nguồn lực chưa khai thác, sử dụng hiệu quả để rút ra bài học kinh
nghiệm cho công tác quản lý ngày càng tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Tóm lại, vấn đề ra quyết định quản lý và tổ chức thực hiện quyết định là một quá trình không
hề đơn giản, nó bao gồm nhiều bước phức tạp và gắn với nó là sự sáng tạo, nhạy bén của tư
duy nhà lãnh đạo quản lý trên cơ sở thực tiển kết hợp với các phương pháp khoa học và các
quy luật khách quan
* Liên hệ phân tích một quyết định cụ thể .
Trong thực tiễn cho thấy có những quyết định quản lý khi ban hành được triển khai rộng rãi
và được rất nhiều người đồng tình ủng hộ, tham gia thực hiện nhưng cũng có những quyết định
quản lý rất khó tổ chức triển khai thực hiện. Đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, vốn là những
vấn đề rất nhạy cảm trong quần chúng nhân dân. Pháp luật nói chung và pháp luật đất đai nói
riêng đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, quá trình này cũng là quá trình đổi mới, quá trình hoàn
thiện pháp luật để thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Sự phát triển của pháp luật
với sự phát triển của thực tế trong giai đoạn này không phải lúc nào cũng đạt được sự đồng bộ
nhất nhất mà có lúc, có nơi còn có những khoảng cách mà Nhà nước đã và đang cố gắng khắc
phục tình trạng này.
Lấy ví dụ như việc ban hành Nghị định 60/NĐ-CP của Chính phủ ngày 5/7/1994 về việc
Quyền sử dụng nhà ở và Quyền sử dụng đất ở tại đô thị. Nội dung chính của Nghị định này là
5
nhà nước quy định đối với nhà và đất ở thuộc khu vực đô thị thì chủ sở hữu nhà và chủ sử dụng
đất sẽ được cấp 1 giấy chứng nhận trên đó có cả 2 quyền : quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở. Đây là một quyết định hợp pháp do được ban hành đúng thẩm quyền, đúng thể
thức. Tuy nhiên, về tính khoa học, tính linh hoạt, tính hiệu quả, tính toàn diện và tính khả thi
của quyết định có rất nhiều vấn đề cần phải xem xét
Về tính khoa học và tính thống nhất, quyết định này có nhiều yếu tố phù hợp với mục tiêu
mà chính phủ và cả người dân mong muốn : đó là nhằm quản lý chặt chẽ hơn tình hình đất đai
- nhà ở tại đô thị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chính sách đền bù, giải toả, quy
hoạch, chỉnh trang đô thị cũng như các quan hệ giao dịch khác của người dân (thế chấp, chuyển
nhượng ...). Rõ ràng việc gắn cả 2 quyền này vào cùng một giấy chứng nhận sẽ thuận tiện hơn
cho người dân khi thực hiện các quyền (chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn
...) và cũng phù hợp xu thế hình thành một thị trường bất động sản ở nước ta. Tuy nhiên bản
thân của 2 quyền này có những điểm khác nhau rất cơ bản : đó là đối với quyền sở hữu nhà thì
người chủ sở hữu có thể toàn quyền định đoạt tài sản của mình, họ có thể thế chấp, chuyển
nhượng, thừa kế phần tài sản này cho bất cứ đối tượng nào mà pháp luật không cấm, tuy nhiên
về quyền sử dụng đất đai thì khác, quyền của người sử dụng đất sẽ có những giới hạn nhất
định, do đó có những trường hợp có thể pháp luật về nhà ở, dân sự không cấm nhưng đối với
pháp luật đất đai thì không được phép chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp... Mặt khác, nội dung
của Nghị định còn giao cho cả 2 ngành Xây dựng và Địa chính trong phạm vi chức năng của
mình tổ chức thực hiện, mỗi ngành với nhân lực và nội dung quản lý riêng nên ban hành hướng
dẫn lại chưa thống nhất. Do đó, Nghị định này còn hạn chế về tính khoa học và tính thống nhất.
Về tính khả thi, tính toàn diện và tính linh hoạt thì thực tế cho thấy rằng phương án tổ chức
thực hiện mà Nghị định đưa ra là phải có sự phối hợp của cả hai cơ quan xây dựng và địa chính
cùng thực hiện, quản lý hồ sơ lưu và bản lưu giấy chứng nhận cũng ở cả hai đơn vị, điều này
trên thực tế gây rất nhiều phiền hà cho người dân vì khi có thay đổi nội dung trên giấy chứng
nhận thì phải đến cả 2 cơ quan để xác nhận. Mặt khác, do mỗi cơ quan chức năng quản lý khác
nhau nên cơ quan nào cũng muốn giấy chứng nhận phải thể hiện đầy đủ những thông tin mình
cần quản lý, điều đó càng làm cho quy trình thực hiện khó khăn hơn nhiều. Lực lượng thực
hiện của 2 bên cũng không đồng nhất nên cùng một nhà và đất ấy phải đo vẽ nhà đất 2 lần.
Ngoài ra, có rất nhiều hồ sơ nhà đất chưa đủ điều kiện cấp giấy nên để được hợp thức hóa cấp
6
giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở thì người dân phải cùng một lúc
phải nộp một khoản tiền khá lớn vừa nhà, vừa đất. Bên cạnh đó, trong quá trình sử dụng có khi
chủ nhà hợp pháp về đất nhưng do nhà xây dựng lấn chiếm không gian hoặc xây dựng trái phép
và không phù hợp với quy hoạch nên không được cấp quyền sở hữu nhà, do đó người chủ nhà
này cũng không được cấp GCN. Từ những vướng mắc trên cho thấy rằng tính khả thi và tính
toàn diện của Nghị định là rất thấp và sau 10 năm ban hành cả nước cũng chỉ mới cấp được
không quá 50% số trường hợp phải cấp, không thỏa mãn những mục tiêu đã đề ra cũng như
không đáp ứng được những vấn đề mà thực tế diễn ra.
Ví dụ thứ 2 là việc ban hành Quyết định 19/2000/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ngày
03/02/2000 về việc bãi bỏ các loại giấy phép trái quy định của Luật doanh nghiệp. Nội dung
chính của quyết định là bãi bỏ các loại giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện
kinh doanh, giấy phép hành nghề, chứng chỉ hành nghề và giấy phép dưới hình thức khác trái
với Luật doanh nghiệp, kể cả những loại giấy phép kinh doanh khác do các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
ban hành mà không căn cứ vào luật, pháp lệnh, nghị định, nhưng chưa được liệt kê vào Danh
mục kèm theo Quyết định 19. Đối với điều kiện kinh doanh xét thấy cần thiết phải có giấy phép
thì các cơ quan hữu quan phải trình Chính phủ ban hành nghị định để thực hiện đúng quy định
tại Điều 6 Luật Doanh nghiệp.
Đây là quyết định ban hành hợp pháp do được ban hành đúng thẩm quyền, đúng thể thức.
Quyết định này cũng mang tính khoa học và mang tính hiệu quả cao bởi vì nó phù hợp với xu
hướng cải cách hành chính, giảm bớt những thủ tục phiền hà và gây trở ngại cho doanh nghiệp,
nhờ đó có tác động tích cực thúc đẩy sự tăng trưởng phát triển kinh tế. Quyết định này mang
tính toàn diện vì những vấn đề mà quyết định nêu bao hàm rất nhiều ngành, (khoa học công
nghệ, môi trường, Thương mại, hải quan, Thủy sản, tài chính, công nghiệp, bưu điện, du lịch, y
tế, lao động – thương binh xã hội, văn hóa thông tin, giao thông vận tải, xây dựng, nông
nghiệp, kế hoạch đầu tư ...). Quyết định nàu cũng mang tính linh hoạt vì nội dung của quyết
định còn bao hàm cả những trường hợp mà quyết định chưa xác định kịp nhưng dự đoán sẽ có
xảy ra trong thực tế. Quyết định này cũng mang tính khả thi cao vì phù hợp với nguyện vọng
của đối tượng chịu tác động (các doanh nghiệp) cũng như của những nhà quản lý có đạo đức
7
nghề nghiệp. Quyết định này cũng thống nhất với nội dung của Luật doanh nghiệp và chủ
trương cải cách hành chính của Đảng và nhà nước ta.