Tóm tắt
Trong tín ngưỡng Tứ phủ, ông Hoàng Mười được biết đến thông qua giá đồng là vị quan Hoàng trấn
giữ đất Nghệ An có phong cách hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú, hay ban tài phát lộc, nhất là lộc học
hành. Bài viết khảo sát các đối tượng thờ phụng và đặc điểm lễ hội tại đền ông Hoàng Mười ở làng Xuân
Am, từ đó chỉ ra tính địa phương, tính lịch sử cũng như sự tích hợp văn hóa thông qua tục thờ ông Hoàng
Mười ở Nghệ An. Trên cơ sở đó, bài viết tập trung làm rõ sự mô hình hóa, biểu tượng hóa nhân vật ông
Hoàng Mười trong điện thần tín ngưỡng Tứ phủ cũng như qua ghế của các thanh đồng. Ông Hoàng Mười
là một biểu tượng văn hóa đa nghĩa mang tính lịch sử; sự xuất hiện “Ông Hoàng Mười ở Nghệ An” trong
điện thần Tứ phủ chính là kết quả của quá trình địa phương hóa các đối tượng thờ phụng của điện thần
Tứ phủ nói chung và các vị thần thuộc hàng Ông Hoàng nói riêng.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 424 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ông Hoàng Mười Nghệ An: Từ ngôi đền thờ ở làng Xuân Am đến điện thần Tứ Phủ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
41Số 29 (Tháng 9 - 2019)
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
ÔNG HOÀNG MƯỜI NGHỆ AN:
TỪ NGÔI ĐỀN THỜ Ở LÀNG XUÂN AM
ĐẾN ĐIỆN THẦN TỨ PHỦ1
NGUYỄN THỊ YÊN
Tóm tắt
Trong tín ngưỡng Tứ phủ, ông Hoàng Mười được biết đến thông qua giá đồng là vị quan Hoàng trấn
giữ đất Nghệ An có phong cách hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú, hay ban tài phát lộc, nhất là lộc học
hành. Bài viết khảo sát các đối tượng thờ phụng và đặc điểm lễ hội tại đền ông Hoàng Mười ở làng Xuân
Am, từ đó chỉ ra tính địa phương, tính lịch sử cũng như sự tích hợp văn hóa thông qua tục thờ ông Hoàng
Mười ở Nghệ An. Trên cơ sở đó, bài viết tập trung làm rõ sự mô hình hóa, biểu tượng hóa nhân vật ông
Hoàng Mười trong điện thần tín ngưỡng Tứ phủ cũng như qua ghế của các thanh đồng. Ông Hoàng Mười
là một biểu tượng văn hóa đa nghĩa mang tính lịch sử; sự xuất hiện “Ông Hoàng Mười ở Nghệ An” trong
điện thần Tứ phủ chính là kết quả của quá trình địa phương hóa các đối tượng thờ phụng của điện thần
Tứ phủ nói chung và các vị thần thuộc hàng Ông Hoàng nói riêng.
Từ khóa: Thần Reahu, tín ngưỡng dân gian, người Khmer Nam Bộ
Abstract
In the faith of Four Realms worship, Hoang Muoi is known through the “go into a trance” ritual as
the mandarin guarding Nghe An area, who has a gallant style, being good at poetry and always gives
a gift of fortune, especially education fortunes. The article examines the objects of worship and the
characteristics of festivals at temple of the great Hoang Muoi in Xuan Am village, thereby showing the
locality, the historical characteristics as well as the cultural integration through the worship of the great
Hoang Muoi in Nghe An. Based on that, the article focuses on clarifying the modeling and symbolizing
the great Hoang Muoi in the temple of Four Realms belief worship as well as through the aspect of
ritual leader. The great Hoang Muoi is a multi-layer cultural symbol carrying historical significance; the
appearance of “the great Hoang Muoi in Nghe An” in the temple of the Four Realms is the result of the
localizing worship objects in the temples of Four Realms in general and the gods of the Hoang family
in particular.
Keywords: Reahu Spirit, folk belief, Khmer people in the South
Trong tín ngưỡng Tứ phủ của người Việt, ông Hoàng Mười thường xuyên xuất hiện qua các giá đồng với hình
ảnh là vị quan Hoàng trấn giữ đất Nghệ An có
phong cách hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú.
Trong điện thần Tứ phủ, tượng ông Hoàng
Mười cùng hàng với các ông Hoàng Bảy, ông
Hoàng Bơ, có mặt ở hầu khắp các đền, phủ
hoặc điện thờ thuộc hệ thống Tứ phủ. Tuy
nhiên, nơi thờ tự chính của ông được biết đến
là ở Nghệ An và Hà Tĩnh với hai ngôi đền nổi
tiếng nằm đối diện qua con sông Lam. Đó là
ngôi đền ông Hoàng Mười (tên chữ là “Mỏ
Hạc linh từ”) ở làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh,
huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An và đền Củi
(tên chữ là “Khu Độc linh từ”) ở xã Xuân Hồng,
Số 29 (Tháng 9 - 2019)42
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ngoài ra còn
có đền Cả - Dinh đô quan Hoàng Mười (cũng là
“Mỏ Hạc linh từ”) nằm ở phường Trung Lương,
thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Truyền thuyết
dân gian Nghệ An cho rằng, ông Hoàng Mười
là con của Đức vua cha Bát Hải Động Đình hóa
thân thành các vị tướng từng cai quản vùng
đất này như Uy Minh Vương Lý Nhật Quang -
con trai của Lý Công Uẩn, cai quản châu Nghệ
An và Nguyễn Xí - là một bậc quan khai quốc
công thần, sau khi đánh tan giặc Minh xâm
lược được Lê Lợi phân công cai quản đất Nghệ
An, Hà Tĩnh. Ngoài ra, ông Hoàng Mười còn
được gắn với tướng Lê Khôi - người đã giúp Lê
Lợi đánh tan giặc Minh, khi đất nước thái bình,
ông phụng mệnh vua làm Tổng trấn châu
Hoan, cai quản vùng đất Nghệ An, Hà Tĩnh.
Ông hóa thân về trời ở cửa Sót và được người
dân lập đền thờ gọi là “Đức thánh minh”.
Vậy ông Hoàng Mười là ai, tại sao có tên gọi
ông Hoàng Mười ở Nghệ An? Trong bài viết
này chúng tôi sẽ tập trung tìm hiểu ông Hoàng
Mười ở đền làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh,
huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An (gọi tắt là
đền Xuân Am) để qua đó làm rõ biểu tượng
ông Hoàng Mười trong tục thờ của địa phương
này qua mối liên hệ với ông Hoàng Mười của
điện thần Tứ phủ.
1. Ông Hoàng Mười đền Xuân Am - từ đối
tượng thờ phụng đến điện thần
Trước hết, có thể thấy, cả ba ngôi đền lớn
thờ ông Hoàng Mười ở Nghệ An, Hà Tĩnh đều
nằm ở vị trí sông nước, trong đó hai ngôi đền
là đền Cả - Dinh đô quan Hoàng Mười (thị xã
Hồng Lĩnh) và đền Xuân Am đều có tên chữ là
“Mỏ Hạc linh từ”. Sở dĩ có tên gọi này là vì cả hai
ngôi đền đều tọa lạc ở vị trí giao nhau của các
con sông lớn tạo hình thế phong thủy mỏ hạc.
Cụ thể, đền Cả nằm ở vị trí giao nhau của sông
Minh Giang, sông Lam và sông La, còn đền
ông Hoàng Mười (huyện Hưng Nguyên) nằm ở
địa thế trước mặt là sông Mộc, phía sau là sông
Vĩnh uốn khúc, tạo thành hình thế con chim
hạc. Điều đó cho thấy, có thể yếu tố sông nước
hay là tục thờ thủy thần là xuất phát điểm của
tục thờ ông Hoàng Mười.
Theo tác giả Thái Huy Bích, người trực tiếp
dịch và chú giải các sắc phong của đền Xuân
Am, thì hiện còn 12 đạo sắc phong cho các
vị thần của làng được lưu giữ ở nhà thờ họ
Nguyễn (là dòng họ của ông Nguyễn Duy Lạc,
vốn là một trong bốn vị thần được sắc phong
của làng). Sắp xếp các thần theo thứ tự trên
dưới theo sắc phong như sau:
1/ Khâm sai Tiết chế Nghệ An, Quảng Nam,
Thuận Hoá đẳng xứ, kiêm thuỷ bộ chư doanh,
Bình chương quân quốc trọng sự, Thái uý, Vị
Quốc công, (Trung đẳng thần) - thần Lê Khôi.
2/ Thái bảo Phúc Quận công, (tôn thần).
3/ Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân
Cẩm y vệ Thần Vũ, (tôn thần) - thần Nguyễn
Duy Lạc.
4/ Song đồng Ngọc Nữ, (tôn thần) [2].
Đền thờ ông Hoàng Mười tại làng Xuân Am,
xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên được xây
dựng vào thời Hậu Lê [4, tr.7], bị bốc dỡ vào
năm 1961, đến năm 1995 mới được tôn tạo
lại. Theo kết quả khảo sát hồi cố của Nguyễn
Thị Thanh Giang, trước năm 1961 đền thờ ông
Hoàng Mười ở làng Xuân Am được bài trí như
trong Sơ đồ 1.
Tuy nhiên, sau khi tôn tạo lại vào năm 1995,
đền lại có bài trí điện thần như trong Sơ đồ 2.
So sánh Sơ đồ 1 và 2 cho thấy, sự thay đổi
lớn nhất của điện thờ hiện nay là việc hoán
đổi vị trí thờ Đức Thánh Hai thành ông Hoàng
Mười ở cung cấm; thêm bàn thờ và bài vị ông
Hoàng Mười ở Thượng điện; đồng thời bổ
sung thêm các ban thờ của điện thần Tứ phủ
như bàn thờ Tứ phủ Quan Hoàng ở Trung điện;
bàn thờ chính giữa gian Hạ điện được thay đổi
43Số 29 (Tháng 9 - 2019)
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
là Vua cha Ngọc Hoàng Thượng đế, tiếp phía
trước là Ngũ vị Tôn quan, bên trái có thêm bàn
thờ Thập nhị Tiên Cô, bên phải thêm Tứ phủ
Trần triều
Như vậy, cho đến sau năm 1995 đền thờ
làng Xuân Am mới chính thức đặt tượng và
bàn thờ cùng bài vị ông Hoàng Mười. Nếu căn
cứ vào thứ tự các vị thần được sắc phong của
làng thì “Đức Thánh Hai” tương ứng với thần Lê
Khôi, “Đức Thánh Tư” là ông Nguyễn Duy Lạc.
Như vậy “Đức Thánh Hai” chính là thần Lê Khôi
và là ông Hoàng Mười.
Một câu hỏi đặt ra là nếu theo thứ tự
sắc phong thì Song đồng Ngọc Nữ phải là
vị thánh thứ tư, tuy nhiên ở đây ngôi vị này
lại thuộc về ông Nguyễn Duy Lạc, đồng thời
thiếu ngôi vị “Đức Thánh Cả”. Vậy phải chăng
ngôi vị Thánh Cả là của Song đồng Ngọc Nữ?
Để làm rõ điều này, dưới đây chúng tôi lần lượt
tập trung phân tích về lai lịch của từng vị thần
Sơ đồ 1. Sơ đồ bài trí điện thờ đền Ông Hoàng Mười ở làng Xuân Am trước năm 1961 (Nguồn: [6])
Sơ đồ 2. Sơ đồ bài trí điện thờ đền Ông Hoàng Mười ở làng Xuân Am năm 1995 (Nguồn: [6])
Số 29 (Tháng 9 - 2019)44
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
được thờ ở làng Xuân Am trong mối liên hệ
với ông Hoàng Mười.
* Thần Song đồng Ngọc Nữ
Có nhiều cách giải thích khác nhau về Song
đồng Ngọc Nữ. Theo Thái Huy Bích, căn cứ vào
cuốn Bách thần sự tích (?) thì Song đồng Ngọc
Nữ là con gái Cao Biền (giữ chức An Nam đô
hộ sứ, thời nhà Đường, Trung Quốc). Ở Hưng
Nguyên có nhiều nơi thờ Cao Sơn Cao Các và
Song đồng Ngọc Nữ. Tương tự, trong sách Tục
thờ thần và thần tích ở Nghệ An, tác giả Ninh
Viết Giao cũng cho biết Song đồng Ngọc Nữ
là con của thần Cao Sơn, thường lấy của riêng
giúp người nghèo đói, mồ côi, đau ốm [7,
tr.260].
Ở xã Nghĩa Hợp, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ
An còn có một ngôi đền mang tên là Song
đồng Ngọc Nữ nằm bên dòng sông Con nổi
tiếng linh thiêng. Tương truyền, mỗi khi có
người chết đuối khó tìm xác, nếu người thân
đến đền cầu khẩn “hai Bà” thì xác sẽ trôi về, nổi
lên ở khúc sông dưới chân đền Sự tích của
ngôi đền này gắn với câu chuyện hai chị em họ
Trần bị chết đuối được hổ vùi xác dưới gốc cây
thị thuộc vị trí ngôi đền hiện nay [11].
Theo cuốn Lý lịch di tích đền Ông Hoàng Mười
lưu tại đền, trong tín ngưỡng dân gian, Song
đồng Ngọc Nữ là con của Ngọc Hoàng Thượng
đế, luôn được hầu hạ bên cạnh Thượng đế, khi
đầu thai xuống trần gian thường được gửi vào
nhà quyền quý để làm vua, làm tướng hoặc làm
công chúa, dân làng nhiều nơi tin rằng làng
mình có được Kim đồng (cậu bé Vàng), Ngọc
nữ (cô bé Ngọc) và tôn làm Thành hoàng. Làng
Xuân Am có nhiều con sông chảy qua, nhân
dân từng phải chống chọi với mưa bão, lũ lụt,
họ tôn Song đồng Ngọc Nữ làm đương cảnh
Thành hoàng, làm bà chúa bản đền như Mẫu
Thoải để cứu giúp nhân dân qua những trận
cuồng phong. Đồng thời, Song đồng Ngọc Nữ
còn đại diện cho tương lai, mầm mống của sự
sinh sôi, nảy nở [6].
Tư liệu thực địa của Nguyễn Thị Thanh Giang
còn cho biết: theo ông Trương Văn Thìn (người
trước đây từng làm ông từ ở đền), Song đồng
Ngọc Nữ có biệt tài chữa bệnh giúp dân [9].
Như vậy, theo quan niệm của địa phương
này thì Song đồng Ngọc Nữ có nguồn gốc
thiên thần, là con gái Vua cha Ngọc Hoàng
được đầu thai ở trần gian, sinh ở vùng sông
nước nên được tôn làm Mẫu Thoải với ngôi vị
là Thành hoàng làng và là bà chúa bản đền,
có công năng chống chọi cuồng phong, chữa
bệnh giúp dân và đại diện cho sự sinh sôi nảy
nở Xét về tổng thể, lai lịch này có nhiều điểm
tương đồng với lai lịch của Mẫu Liễu Hạnh ở
Phủ Dày (Nam Định).
Từ đây có thể đoán định, Song đồng Ngọc
Nữ với tư cách là con của thần Cao Sơn có thể
là lớp tín ngưỡng có trước của ngôi đền, được
xây dựng theo phong thủy ở vị trí “mỏ hạc” của
làng Xuân Am. Trong quá trình tồn tại, Song
đồng Ngọc Nữ đã được địa phương hóa thành
Mẫu Thoải với tư cách là bà chúa bản đền. Và
vì là bà chúa bản đền nên Song đồng Ngọc
Nữ chính là vị Thánh Cả với danh nghĩa là vị
thần có trước, về sau mới lần lượt kết tập thêm
các vị thần khác như Lê Khôi (Đức Thánh Hai),
Đức Thánh Ba và Nguyễn Duy Lạc (Đức Thánh
Tư), giống như là sự kết tập các vị thần trong
Tứ phủ vào điện thần của Mẫu Liễu Hạnh. Và
như vậy, nếu xét về vị thế trong Tứ phủ thì
Song đồng Ngọc Nữ thuộc hàng Mẫu còn ông
Hoàng Mười thuộc hàng Ông Hoàng.
Trong tôn giáo Trung Hoa ta thấy có cặp
Kim Đồng và Ngọc Nữ hầu cận bên cạnh Ngọc
Hoàng Thượng đế và có thể tiếp biến của nó
là cặp Thiện Tài và Long Nữ xuất hiện cùng với
Quán Thế Âm [14]. Như vậy, Song đồng Ngọc
Nữ (phổ biến ở Nghệ An) có thể cũng là một
biến thể của Ngọc Nữ và Long Nữ của văn hóa
Trung Hoa rồi được bản địa hóa, địa phương
hóa ở Nghệ An của Việt Nam.
45Số 29 (Tháng 9 - 2019)
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
* Thần Lê Khôi
Lê Khôi là vị thần có lai lịch khá rõ ràng. Ông
có tên thụy là Vũ Mục, công thần khai quốc nhà
Lê sơ, là cháu của Lê Lợi, tham gia khởi nghĩa
Lam Sơn, lập nhiều công lao được Lê Thái Tổ lên
ngôi phong cho là Kỳ Lân Hổ Vệ tướng quân,
hàm Nhập nội thiếu úy, tước Đình Thượng hầu
và được điều làm trấn thủ Hóa châu (nay thuộc
Thừa Thiên Huế). Năm 1446, ông làm tiền quân
tiến đánh Chiêm Thành, đánh đến thành Đồ
Bàn, bắt được vua Chiêm là Bí Cai, lúc đem
quân trở về, ông mắc bệnh, mất ở chân núi
Long Ngâm, cửa biển Nam giới (tức cửa Sót),
thuộc địa phận Hà Tĩnh ngày nay [9]. Sau khi
ông mất, triều đình nhà Lê đã làm quốc tang
và an táng thi hài ông tại chóp núi Long Ngâm.
Đền thờ Lê Khôi được xây dựng năm Đinh Mão
(năm 1477), ngay sau khi ông mất một năm.
Hàng năm, lễ hội đền được tổ chức long trọng
vào ngày giỗ của ông (3 tháng Năm) [8].
Vậy Lê Khôi là nhân vật lịch sử có thật, từng
trấn thủ ở châu Hóa thuộc khu vực Thừa Thiên
Huế, có đền thờ và mộ táng tại chính nơi ông
mất ở cửa Sót thuộc tỉnh Hà Tĩnh ngày nay. Tại
đây ông được thờ phụng với tên gọi là Chiêu
Trưng Đại vương chứ không gắn với tên gọi
ông Hoàng Mười như ở làng Xuân Am.
Ta biết rằng nằm sát ngôi đền thờ ông
Hoàng Mười ở làng Xuân Am còn có một ngôi
mộ được xây cất bề thế gọi là “Lăng Đức Hoàng
Mười”. Truyền thuyết ở đây kể về sự tích ngôi
mộ theo một motip khá quen thuộc: Ông là
tướng đi đánh giặc bị thương, đầu đứt gần lìa
khỏi cổ, trên đường về quê rẽ vào hàng nước
hỏi bà bán hàng “Tôi có về được quê không?”,
bà bán hàng nước nói: “Nếu uống được nước
thì về được quê”. Ông xuống ngựa uống được
nước và tiếp tục phi ngựa về quê thì mất. Ngựa
còn cất tiếng hí vang, dân làng nghe tin xuống
đến nơi thì mối đã vùi ông thành mộ ở vị trí
ngôi mộ ông Hoàng Mười hiện nay. Theo đó,
ngôi mộ ông Hoàng Mười đã có từ xa xưa,
dạng hình tròn bằng đất. Khu lăng mộ bề thế
như hiện nay được xây dựng từ năm 1997 và
đến năm 2000 được nâng cấp lại [6].
Có thể thấy, ngày giỗ ông Hoàng Mười (10
tháng Mười) và ngôi mộ ông Hoàng Mười ở
làng Xuân Am không có liên quan đến ngày
giỗ cũng như ngôi mộ của Lê Khôi. Tuy nhiên,
điểm chung giữa Lê Khôi và “Ông Hoàng Mười”
trong truyền thuyết dân gian là cả hai đều là
tướng đi đánh giặc và chết trên đường trở về
quê. Phải chăng sự tồn tại ngôi mộ ông Hoàng
Mười cạnh ngôi đền chính là lý do khiến ngôi
đền “Mỏ Hạc linh từ” làng Xuân Am trở thành
đền ông Hoàng Mười?
* Thần Nguyễn Duy Lạc
Theo gia phả họ Nguyễn ở làng Xuân Am
và thần tích của làng, ông Nguyễn Duy Lạc
sinh năm1558, mất năm 1639, vốn là tướng
giúp vua Lê chúa Trịnh dẹp loạn, được triều
đình phong chức nhiều lần. Trước khi mất, ngài
cống cho làng 100 quan tiền và 2 mẫu ruộng,
nhân dân mến đức, phục uy, tôn làm hậu thần
và thờ phụng tại đền [6].
Theo đó, trong số 4 vị thần được thờ phụng
tại đền Ông Hoàng Mười hiện nay, ngoài Đức
Thánh Ba chưa rõ lai lịch thì Nguyễn Duy Lạc
là vị thần có nguồn gốc tại làng. Ông là tướng
đánh giặc nhưng sống thọ và chết tại làng,
trước khi mất có công đức cho làng. Có lẽ vì
ông là một trong 4 vị thần của làng nên các sắc
phong thần của đền được dòng họ Nguyễn
của ông cất giữ; trong lịch trình lễ hội của
đền hàng năm (10 tháng Mười) có tổ chức lễ
rước sắc rất long trọng từ nhà thờ họ Nguyễn
về đền, sau đó lại làm lễ rước sắc về nhà thờ
như cũ. Đặc biệt, trước đây còn có lễ khai điển
(15 tháng Ba) - là lễ kiểm tra bằng sắc, cũng có
nghi lễ rước sắc từ nhà thờ họ Nguyễn ra đền
với những hoạt động yết cáo, lễ đại lễ, lễ dâng
hương, lễ tạ và các hoạt động vui chơi thể
Số 29 (Tháng 9 - 2019)46
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
thao và văn nghệ, trò chơi dân gian (hát chầu
văn, thi chọi gà, đánh cờ người, đua thuyền
trên sông Mộc...) về cơ bản tương tự như hoạt
động lễ hội dịp 10 tháng Mười. Qua đây cho
thấy dòng họ Nguyễn đã cất giữ các sắc phong
của đền từ lâu đời, có thể là liên quan đến vị
trí quan trọng của thần Nguyễn Duy Lạc cũng
như dòng họ Nguyễn ở làng Xuân Am trong
quá khứ.
Như vậy, bài vị ông Hoàng Mười mới chính
thức có ở đền làng Xuân Am sau năm 1995,
còn trước đó, vị trí này thuộc về Đức Thánh Hai
gắn với sắc phong của ngài Lê Khôi. Được biết,
đền Củi (xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân, tỉnh
Hà Tĩnh) cũng là ngôi đền thờ Mẫu có từ lâu đời,
sau khi Lê Khôi mất người dân mới đặt bài vị Lê
Khôi để phối thờ [5]. Có lẽ việc phối thờ bài vị Lê
Khôi với tư cách ông Hoàng Mười ở làng Xuân
Am cũng tương tự như ở đền Củi, tuy nhiên, có
thể vì làng Xuân Am có thần Nguyễn Duy Lạc
là người làng, lại sở hữu nhiều đạo sắc phong,
trong đó có sắc phong cho thần Lê Khôi, nên
vai trò của nữ thần (Song đồng Ngọc Nữ) với tư
cách là Đức Thánh Cả mờ nhạt hơn so với các
vị nam thần? Có thể vì lý do này mà trong tâm
thức người dân làng Xuân Am thì ông Hoàng
Mười còn được đồng nhất với thần Nguyễn
Duy Lạc, vốn cũng là vị tướng của làng.
2. Ông Hoàng Mười đền Xuân Am - nhìn từ
lễ hội
Trong 4 vị được thờ tại đền, ông Nguyễn
Duy Lạc có lễ kỵ vào ngày 10 tháng Hai; Đức
Thánh Ba không có; Song đồng Ngọc Nữ kỵ
ngày 26 tháng Chạp, còn ông Hoàng Mười
(Đức Thánh Hai - Lê Khôi) kỵ ngày 10 tháng
Mười gắn với lễ hội ông Hoàng Mười.
Một câu hỏi đặt ra là tại sao lễ hội ông
Hoàng Mười ở làng Xuân Am lại không được tổ
chức vào ngày 3 tháng Năm là ngày kỵ của Lê
Khôi như ở đền chính của Lê Khôi bên Hà Tĩnh
(đền Chiêu Trưng) mà lại tổ chức vào ngày 10
tháng Mười? Chúng tôi cho rằng mấu chốt của
vấn đề chính là ở cái tên “Ông Hoàng Mười”
gắn với việc tổ chức lễ hội vào ngày 10 tháng
Mười trùng với dịp tết Cơm mới vốn rất phổ
biến ở Việt Nam, còn được gọi là tết Song thập
(hay tết Trùng thập, hoặc tết Hạ nguyên).
Trước hết, tết Cơm mới không chỉ phổ biến ở
người Kinh (Việt) mà còn là một tết lớn ở các tộc
người thiểu số với ý nghĩa mừng mùa lúa mới
gắn với những nghi lễ riêng của từng tộc người.
Chẳng hạn, người Xơ Teng (một nhánh của
người Xơ Đăng) ở Tây Nguyên có hai nghi lễ liên
quan là nghi lễ ăn lúa mới tổ chức vào khoảng
tháng 9 dương lịch trước khi thu hoạch và nghi
lễ mừng mùa thu hoạch tổ chức vào khoảng
tháng 12 dương lịch) [16, tr.97-109]. Người Tày
có tết Cơm mới tương ứng với tết mừng Cốm
mới, gắn với nghi lễ thờ cúng tổ tiên.
Ở người Kinh, do tiếp thu văn hóa Trung
Hoa nên tết Cơm mới còn có các tên gọi khác là
tết Trùng thập, Song thập hoặc tết Hạ nguyên.
Tết Hạ nguyên vào rằm tháng Mười, được cho
là ngày vua Hạ Vũ giải tai ách cho nhân sinh,
nên còn gọi là “Hạ Nguyên Giải Ách Thuỷ Quan
Ðại Ðế Thắng Hội”, hay còn gọi là “Hạ Nguyên
Thuỷ Quan Thánh Ðản”, “Tết lúa mới” [3]. Hạ
Vũ là một vị vua huyền thoại cổ đại nổi tiếng
với việc chống lũ lụt và xác lập chế độ cha
truyền con nối bằng cách thành lập nhà Hạ
cùng nhân cách đạo đức ngay thẳng của mình.
Ông được Đạo giáo tôn là Thủy Quan Đại Đế,
thần đản là ngày Tết Hạ Nguyên [12]. Như vậy,
Hạ Vũ thuộc Thủy quan (Thoải phủ), có lẽ liên
quan tới truyền thuyết Hạ Vũ là vị vua trị thủy
sống ở vùng sông nước.
Phải chăng việc làng Xuân Am coi ngày 10
tháng Mười là ngày kỵ của ông Hoàng Mười
- một vị thần cũng có nguồn gốc thủy thần,
đối lập với ngày đản của Thủy Quan Đại Đế là
có hàm ý về mối liên hệ về cội nguồn văn hóa
giữa tục thờ ông Hoàng Mười ở đây với truyền
thuyết về vua Hạ Vũ?
47Số 29 (Tháng 9 - 2019)
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Ngoài ra, theo sách Dược lễ, ngày 10 tháng
Mười là ngày cây thuốc tụ được khí âm dương,
kết được sắc tứ thời (Xuân, Hạ, Thu, Đông) trở
nên tốt nhất, vì vậy các thầy thuốc rất coi trọng
ngày tết này [13]. Cũng như vậy, theo Phan Kế
Bính, tết Trùng thập “phần nhiều là của các nhà
đồng cốt và nhà thầy thuốc mới ăn thôi Các
nhà thầy thuốc thì