Sử dụng nguồn lực bên ngoài (Outsourcing) không phải là giải
pháp tạm thời, mà là định hướng chiến lược phát triển của nhiều
doanh nghiệp trong hiện đại và tương lai. Nó giúp doanh nghiệp
không chỉ hạ thấp chi phí, mà còn nâng cao năng lực lõi, chất
lượng sản phẩm, giảm thiểu rủi ro
9 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1911 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Outsourcing – Định hướng chiến lược, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Outsourcing – Định hướng chiến
lược
Sử dụng nguồn lực bên ngoài (Outsourcing) không phải là giải
pháp tạm thời, mà là định hướng chiến lược phát triển của nhiều
doanh nghiệp trong hiện đại và tương lai. Nó giúp doanh nghiệp
không chỉ hạ thấp chi phí, mà còn nâng cao năng lực lõi, chất
lượng sản phẩm, giảm thiểu rủi ro…
Tiến trình tác nghiệp
Dựa trên giá trị tạo ra của doanh nghiệp, chúng ta thấy hai tiến
trình đan kết nhau: tiến trình tác nghiệp (Business Process), tiến
trình hỗ trợ (Support Process).
Tiến trình tác nghiệp bắt đầu từ khâu tiếp cận thị trường và khách
hàng để tìm hiểu những giá trị đòi hỏi, điều tra, nghiên cứu các
phương án và tổ chức việc sản xuất, phân phối, cung ứng, và
phục vụ. Đây là tiến trình trực tiếp tạo nên giá trị gia tăng cho
khách hàng và thị trường. Tiến trình hỗ trợ có nhiệm vụ hỗ trợ
tích cực và nhanh chóng trên các lĩnh vực nhân lực, tài lực vật
lực thông tin, quan hệ và định chế.
Trong tiến trình tác nghiệp (tiến trình hỗ trợ, sẽ được giới thiệu số
báo tiếp theo), doanh nghiệp có thể chọn:
- Hoặc thực hiện toàn bộ (từ khâu tiếp cận thị trường đến khâu
phục vụ). Không sử dụng nguồn lực bên ngoài (outsourcing).
- Hoặc lúc đầu thực hiện một số khâu, và dần dần thực hiện toàn
bộ. Outsourcing chỉ là tạm thời.
- Hoặc ngay từ đầu, thực hiện một số khâu, các khâu còn lại sử
dụng outsourcing. Outsourcing là chiến lược phát triển dài hạn.
- Hoặc lúc đầu thực hiện toàn bộ, sau một thời gian, chuyển từ
quản lý cơ sở sản xuất (Facilities Management) sang
outsourcing. Outsourcing là chiến lược phát triển dài hạn. Doanh
nghiệp hướng đến việc liên kết để mang đến giá trị gia tăng lớn
nhất cho khách hàng và thị trường.
Xu hướng chung của thế giới
Vào đầu thập niên 1990, mô hình quản lý của doanh nghiệp xây
dựng theo hướng “nhanh chóng và uyển chuyển", được khởi đầu
từ Mỹ, lan sang châu Âu vào cuối 1995 và bành trướng sang
Nhật vào đầu 1998. Để thực hiện được điều này. quy trình
outsourcing được thực hiện bằng việc đưa hoàn toàn các công
việc sản xuất ra khỏi doanh nghiệp và chỉ giữ lại các khâu chủ
yếu là nghiên cứu (research & development), thiết kế (design) và
marketing.
Sự thay đổi liên tục về mẫu mã và tính năng của các sản phẩm
như trong lĩnh vực công nghệ thông tin hay thời trang, doanh
nghiệp không thể cùng lúc "bao sân" tất cả các khâu từ nghiên
cứu đến sản xuất, đến tung ra thị trường. Vì thế, để tăng thêm
"sự nhanh chóng" thì cần có sự uyển chuyển". Như vậy, việc
quản lý sản xuất được giao cho doanh nghiệp khác phụ trách.
Khác với việc gia công (Subcontracting) trước đây, doanh nghiệp
đảm nhận việc sản xuất nằm trong khuôn khổ của “Co-
Contracting" (cùng tiến hành hợp đồng). Có nghĩa là doanh
nghiệp ấy phải có một trình độ năng lực lõi và tay nghề rất cao
trong việc sản xuất. Những ví dụ dưới đây chứng minh cho điều
này.
Solectron được thành lập năm 1977 bởi một người Mỹ gốc Nhật
tại Silicon Valley (Mỹ), khởi đầu bằng nghiên cứu về năng lượng
mặt trời. Vào cuối thập niên 1980, họ đã biến thành một EMS
(Electronics Manufacturing Services), chuyên đảm trách việc sản
xuất các phần cứng (hàm) cho các hãng nổi tiếng như IBM, Sony,
Nortel, Alcatel... Quy trình hợp tác với các hãng vừa nói như sau:
Solectron mua lại một số nhà máy của hãng đó và nhận
outsourcing tất cả những sản phẩm yêu cầu theo đúng các tiêu
chuẩn kỹ thuật và chất lượng đề ra cho chính các hãng đã bán
nhà máy. Hiện nay, Solectron là EMS hạng nhất thế giới với
doanh số năm 2000 là 23 tỷ USD, với 60 nhà máy đặt ở nhiều
nước trên thế giới (11 nhà máy tại châu Á).
Tương tự, Flextronics là EMS hạng nhì thế giới, thành lập năm
1993, gốc Mỹ nhưng lại đặt văn phòng trung ương tại Singapore.
Doanh số của Flextronics năm 2001 là 14.5 tỉ USD với 81 nhà
máy đặt tại 28 nước. Flextronics đã mua lại toàn bộ nhà máy sản
xuất điện thoại di động của Ericsson, và nhận đảm trách quản lý
về cơ sở sản xuất (facilities management) cho tập đoàn ấy.
Khoảng 80% sản phẩm của Palm Pilot và 100% sản phẩm của
Handspring cũng do Flextronics đảm nhận quản lý sản xuất.
Một góc độ khác, chi phí cho việc hoàn thành từng công việc có
sự chênh lệch nhất định giữa các nước phát triển và các nước
đang phát triển, đặc biệt là chi phí nhân công. Những ngành nghề
sử dụng nhân công nhiều như ngành nay mặc, công nghệ lập
trình... outsourcing là chiến lược làm chi phí mà nhiều doanh
nghiệp sử dụng. Và để đảm bảo chất lượng như mong đợi,
doanh nghiệp thường đưa chuyên viên của mình đến tại đơn vị
cung cấp outsourcing đế kiểm soát. Bền vũng hơn, khi xác định
được đối tác lâu dài, họ hỗ trợ phương pháp quản lý, đào tạo con
người...cùng nhau chia sẻ những khó khăn, thuận lợi.
Các công ty trong lĩnh vực đề cập ở các nước phát triển chỉ tập
trung vào khâu tiếp cận thị trường và khách hàng để tìm hiểu
những giá trị đòi hỏi, điều tra, nghiên cứu các phương án, phân
phối, cung ứng; còn việc sản xuất, họ sử dụng dịch vụ
outsourcing để tận dụng chi phí nhân công tương đối thấp ở các
nước đang phát triển. Ví dụ, một cái áo sơ mi được sản xuất tại
Việt Nam với giá cung cấp cho các công ty của Mỹ từ 6 USD đến
15 USD (tùy theo chất lượng vải) Cũng chiếc áo này được sản
xuất tại các nước phát triển, chi phí cao hơn từ 2 đến 3 lần. Và
cái áo này được bán tại thị trường Mỹ với giá từ 60 USD đến 120
USD.
Lợi ích thật sự từ Outsourcing
Theo điều tra của một số cơ quan nghiên cứu thị trường quốc tế
85% các lãnh đạo của tập đoàn lớn trên thế giới chuyên về lĩnh
vực thông tin và điện tử dự trù sẽ chuyển các cơ sở sản xuất của
họ sang outsourcing. Nếu theo đúng chiều hướng ấy thì đến
2010, con số ấy có thể lên đến 555 tỉ USD. Lĩnh vực công nghệ
lập trình luôn dẫn đầu việc cung cấp outsourcing và trên thế giới
có hơn 2/3 doanh nghiệp đang sử dụng IT-outsourcing. Trong
ngành thời trang, tỉ lệ doanh nghiệp sử dụng outsourcing rất cao.
Và trong các ngành nghề khác, xu hướng thực hiện một chu trình
khép kín (thực hiện từ A đến Z) không được doanh nghiệp quan
tâm nhiều. Vì sao có trào lưu này?
Thứ nhất, sang nhượng việc quản lý cơ sở sản xuất (bao gồm
máy móc và nhân lực) cho một doanh nghiệp khác sẽ biến các
chi phí cố định (fixed cost) thành chi phí biến đổi (variable cost).
Nếu như ngay từ đầm giao việc quản lý cơ sở sản xuất cho bên
ngoài, doanh nghiệp sẽ tối thiểu hóa chi phí cố định, tạo nên sự
năng động và uyển chuyển thật sự của doanh nghiệp. Khi tình
hình tiêu thụ trên thị trường khó khăn, outsourcing là chính sách
doanh nghiệp chia sẻ rủi ro. Ví dụ, từ đầu năm 2008 đến nay, tình
hình lạm phát tăng, sức mua giảm mạnh, doanh nghiệp Việt Nam
gặp khó khăn. Doanh nghiệp nào sử dụng outsourcing, thời điểm
này, họ chia sẻ rủi ro cho đơn vị bên ngoài.
Thứ hai, doanh nghiệp nhận làm "co-contracting" cho doanh
nghiệp cũng nhận sản xuất cho các doanh nghiệp khác hoạt động
trong cùng lĩnh vua thì giá thành sẽ thấp hơn nhờ sự phát triển
của kinh tế qui mô (economy oà scale).
Thứ ba, doanh nghiệp nhận làm outsourcing sẽ phải chuyên môn
hóa trong lĩnh vực đó, chất lượng được đảm bảo đúng theo yêu
cầu, và doanh nghiệp sang nhượng cơ sở sản xuất sẽ đỡ tốn tài
lực vào khâu đào tạo nhân sự cho việc nói trên.
Thứ tư, doanh nghiệp sang nhượng việc quản lý sản xuất sẽ tiết
kiệm được tài lực và thời gian để dồn sức cho việc đi sâu, nâng
cao và mở rộng năng lực lõi, và tay nghề chuyên môn của mình ở
các lĩnh vực nghiên cứu, thiết kế và quảng bá thương hiệu.
Tóm lại, trong tình hình hiện nay tại Việt Nam, outsourcing là
chính sách doanh nghiệp nên ưu tiên, nó giúp doanh nghiệp uyển
chuyển và năng động hơn, chuyển chi phí cố định thành chi phí
biến đổi để tối thiểu hóa chi phí và rủi ro. Với trào lưu toàn cầu
hóa của kinh tế thị trường, chiến lược phát triển doanh nghiệp
cần tính kỹ đến các khâu cạnh tranh và liên kết để làm thế nào
mang đến giá trị gia tăng cao nhất cho khách hàng (trong bối
cảnh ấy, khách hàng trực tiếp sẽ là các tập đoàn chuyển từ việc
quản lý cơ sở sản xuất sang sử dụng nguồn lực bên ngoài -
outsourcing), tạo điều kiện cho quá trình đi lên của doanh nghiệp
ngày càng rộng mở và vững mạnh.