là 1 seri về kỹ thuật in ấn và quản lý màu sắc mình tổng
hợp từ nhiều nguồn " VNP - KTI - ITN " gồm 3 phần từ
lúc set-up chụp 1 tấm hình đến workflow sản phẩm và
các bước chuyển đổi màu sắc sau cùng để cho ra 1 ấn
phẩm hoàn chỉnh .
22 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1694 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Overview Of Soft Proofing "P1", để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Overview Of Soft
Proofing "P1"
là 1 seri về kỹ thuật in ấn và quản lý màu sắc mình tổng
hợp từ nhiều nguồn " VNP - KTI - ITN " gồm 3 phần từ
lúc set-up chụp 1 tấm hình đến workflow sản phẩm và
các bước chuyển đổi màu sắc sau cùng để cho ra 1 ấn
phẩm hoàn chỉnh .
I. Tóm tắt về Quản lý màu sắc
1. Đặt vấn đề
Tất cả các thiết bị đều khác nhau. Lý do thì nhiều: do khâu
quản lý chất lượng khi sản xuất, do khâu bảo quản, hay do
thời gian. Để ý các màn hình cũ đều tối hơn, các tấm pano
quảng cáo hay các tấm ảnh để lâu ngày sẽ bị phai màu. Điều
này áp dụng cho tất cả các thiết bị từ đầu vào (camera,
scanner...) đến thiết bị đầu ra (monitor, printer...).
Để dễ hình dung, tưởng tượng mỗi nước đều có một hệ thống
kinh tế khác nhau, dẫn đến mỗi nước đều có đồng tiền riêng
của mình. Và như vậy, cùng một mặt hàng, cùng một giá trị,
nhưng mỗi nơi một khác. Ví dụ, 1 máy ảnh có giá bán ở Nhật
100,000 Yên, thì ở Mỹ có giá 856USD, ở Anh có giá 459
Pounds, ở Việt Nam lại có giá 13,752,085 đồng.
Tương tự như vậy, một chiếc mũ đỏ, khi được chụp qua máy
ảnh số của Canon, 1 điểm ảnh có thể được ghi lại với giá trị
RGB tương ứng là 180,15,30 trong khi cùng một điểm ảnh
đó, máy Nikon lại ghi lại là 175,22,28. Cũng cùng điểm đó,
máy in Epson có khi lại in ra thành 178, 25,31. Một máy in
Epson khác, cùng model, có khi lại in ra thành 179,24,33. Tại
sao lại có sự khác nhau như vậy? Tại vì tất cả các thiết bị đều
khác nhau.
Digital Camera. Price: ¥100,000Yen / $856USD / £459GBP /
VND13,752,085
2. Không gian màu (Color Spaces)
Màu sắc phụ thuộc thiết bị
Ta đi du lịch ở Nhật, vào tiệm mua 1 chiếc máy ảnh. Khi
người chủ nói "máy ảnh này giá một trăm ngàn" thì ta hiểu
rằng đó là 100,000 Yên. Ngược lại, nếu vào tiệm BH ở New
York, người bán hàng nói "máy ảnh này giá 856 đô" thì ta
hiểu rằng đó là 856USD. 856USD có khác 100,000 Yên
không? Tất nhiên là không. mặc dù con số thì khác, nhưng
cuối cùng ta vẫn mua được cùng 1 loại máy ảnh đó. Ta nói,
giá cả phụ thuộc từng nước ("giá cả" - price nhé, không phải
"giá trị"- value), hay nói đúng hơn là từng hệ thống tiền tệ.
Không có gì sai khi mà ta ở SG, và khoe với bạn là vừa mua
ở tiệm Khánh Long chiếc máy ảnh trên với giá 856USD thay
vì 13 triệu.
Cùng một màu trên 1 chiếc mũ, máy Canon bảo "180,15,30"
trong khi máy Nikon bảo "175,22,28". Ta nói, những giá trị
màu sắc này là những giá trị màu sắc phụ thuộc từng thiết bị.
Màu sắc không phụ thuộc thiết bị
Vì mỗi nước có một hệt thống tiền tệ khác nhau, việc mua
bán, trao đổi, xuất-nhập khẩu gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy,
các nước trong khối liên minh Châu Âu dần dần đã chuyển
sagn dùng đồng tiền chung (chuẩn), gọi là đồng Euro. Giá trị
của đồng tiền nay không thay đổi khi được dùng ở các nước
châu Âu, và cũng không thay đổi nếu nó được mang vào Anh
hay vào Mỹ. Tương tự như vậy, để tiện giao dịch, đồng USD
được quy ước là đồng tiền chuẩn trong giao dịch xuất-nhập
khẩu giữa các nước. Lúc này ta nói, giá trị đồng USD không
phụ thuộc từng nước.
Đối với các thiết bị vào-ra, để có "tiếng nói chung" như vậy,
người ta sử dụng các thiết bị đo đạc với độ chính xác cực
cao, đo các giá trị màu "chuẩn" và tạo nên một không gian
màu "chuẩn". Thực ra cũng có vài không gian màu "chuẩn"
như vậy nhưng được dùng nhiều nhất là CIE 1976 L*,a*,b*
viết tắt là LAB.
Nói tóm lại, bất kỳ một màu nào, dù được ghi lại hay hiển thị
bởi bất kỳ thiết bị nào, khi đối chiếu với giá trị LAB, đều có
chung một giá trị duy nhất không thay đổi. Cũng giống như
một máy Canon 300D khi mới ra đều có giá 999USD ở bất
cứ nơi nào trên thế giới.
3. Device Profiles
Hình dung, một nhóm người gồm Anh, Úc, Trung Quốc,
Canada, Việt Nam, Nhật Bản đi du lịch ở Tanzania. Khi đặt
chân xuống sân bay, họ vào một tiệm bán đồ lưu niệm. Nếu
mỗi người đều mua hàng bằng tiền từ nước mình, người bán
hàng sẽ rất mất thời gian kiểm tra tỉ giá và tính toán giá cả.
Thay vì đó, anh ta chỉ đề giá bằng tiền USD, và tất cả mọi
người đều đổi tiền của nước mình ra tiền USD rồi mua hàng.
Như vậy người bán hàng tiết kiệm được rất nhiều thời gian
và tránh sai sót. Đồng thời, người mua cũng có thể so sánh
với nhau bằng tiền USD, thay vì quy đổi giá trị của món hàng
từ tiền của nước mình sang tiền của các nước còn lại.
Tương tự như vậy, giống như mỗi nước có một đồng tiền,
dùng để định nghĩa giá trị của mỗi món hàng trong nước đó,
thì mỗi thiết bị đều có một profile riêng. Profile này cho ta
biết giá trị thực của mỗi điểm ảnh - hay nói cách khác, mỗi
điểm ảnh đó tương đương với màu sắc nào.
Khi trao đổi dữ liệu giữa các thiết bị, vì các thiết bị không
giống nhau, việc chuyển đổi sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì
vậy cách dễ nhất là chuyển đổi dữ liệu gốc sang một dạng
chuẩn, rồi lại chuyển tiếp từ dữ liệu chuẩn đó thành dữ liệu
đích.
Trong ví dụ đầu tiên, một máy ảnh ở Nhật có giá 100,000
Yên, với tỉ giá USD là 116.8, ta chuyển qua tiền USD sẽ
thành 856USD. Máy ảnh đó ở Việt Nam có giá 13,752,085,
với tỉ giá USD là 16,065, ta chuyển qua tiền USD sẽ thành
856USD.
Nhờ có các tỉ giá USD trên, ta hiểu được giá trị của đồng Yên
& đồng VND tính theo USD. Cũng tương tự như vậy, nhờ có
Device Profiles, ta hiểu được giá trị của các điểm ảnh của
từng thiết bị tính theo không gian LAB - không gian màu
chuẩn & không phụ thuộc thiết bị.
Ví dụ, màu đỏ của các thiết bị tương ứng như sau: (phần này
sẽ add thêm hình ảnh cho dễ hiểu)
Canon --> 180,15,30 --> Canon's Device Profile --> 45,53,0
Nikon --> 175,22,28 --> Nikon's Device Profile --> 45,53,0
Epson1 --> 178,25,31 -->Epson1's Device Profile --> 45,53,0
Epson2 --> 179,24,33 -->Epson2's Device Profile --> 45,53,0
Khi các điểm ảnh này được thể hiện trên các màn hình LCD
của Apple:
45,53,0 --> Apple1's Device Profile --> 179,20,30
45,53,0 --> Apple2's Device Profile --> 179,25,19
45,53,0 --> Apple3's Device Profile --> 181,20,19
Đây chính là ý tưởng cơ bản trong Quản lý màu sắc: dùng
profile trung gian để so sánh và convert màu sắc khi
chuyển giữa các thiết bị.
Sau khi hiểu được điều này, Soft Proofing sẽ đơn giản như
1+1=2 vậy
Trong hình trên, không gian màu chuẩn CIELAB đóng vai
trò là trạm trung chuyển giữa các thiết bị, và được gọi là
Profile Connection Space. Tưởng tượng nó giống như một
nút giao thông quan trọng - sân bay Hong Kong chẳng hạn.
Tất cả các chuyến bay từ các nước trong khu vực ra các nước
khác đều transit qua nơi này.
Ví dụ
Việt Nam --> Mỹ thực ra là Việt Nam --> Hong Kong -->
Mỹ
Singapore --> Italia thực ra là Singapore --> Hong Kong -->
Italia.
II. Soft Proofing
1. Photoshop là một thiết bị vào-ra
Trong Quản lý màu sắc, Photoshop được coi là một thiết bị
đặc biệt: vừa để nhập dữ liệu, vừa để xuất dữ liệu. Vì vậy,
không gian màu của Photoshop chính là không gian màu làm
việc của nó (Photoshop's working space) và có tác dụng y hệt
không gian màu của các thiết bị khác.
Photoshop được coi là một thiết bị (Device)
Chính vì vậy, mỗi khi mở một hình trong Photoshop, nếu
profile của hình ảnh không trùng với Photoshop, ta nhận
được hộp thoại "Profile Mismatch". Tiếp theo, dữ liệu sẽ
được chuyển đổi thêm một lần nữa để xuất ra màn hình. Toàn
bộ quá trình được tóm tắt như sau:
Cũng tương tự như vậy, khi bức hình được in ra, dữ liệu hình
ảnh sẽ được chuyển đổi qua không gian màu trung gian, rồi
mới chuyển tiếp qua không gian màu máy in. Quá trình này
hoàn toàn độc lập với quá trình xuất hình ra màn hình:
Quá trình xuất hình ra máy in và ra màn hình là hoàn toàn
độc lập với nhau
2. Ý tưởng "Soft Proofing"
Soft Proofing là cách sử dụng màn hình để xem trước
(preview) hình ảnh sẽ trông như thế nào sau khi xuất ra các
thiết bị đầu ra, chủ yếu là máy in. Ý tưởng rất đơn giản: "giả
vờ" dữ liệu đã được xuất ra thành dữ liệu máy in, nhưng ta
không gửi tín hiệu tới máy in để in hình. Thay vào đó, ta xuất
tiếp dữ liệu ngược lại vào màn hình.
Xuất dữ liệu máy in ngược trở lại màn hình, ta có thể xem
trước hình ảnh khi in trông như thế nào
Tại sao lại dùng Soft Proofing?
Câu trả lời rất đơn giản. Do đặc điểm không gian màu của
máy in thường rất nhỏ so với các thiết bị đầu vào khác, khi
xuất hình ra máy in, các dữ liệu hình ảnh không thể hiện
được (out of gammut) sẽ bị chuyển đổi hay cắt bỏ. Kết quả là
hình bị mất chi tiết và có thể có màu "xỉn xỉn". Với chức
năng Soft Proofing, ta có thể "tiên đoán" hình ảnh sẽ trông
như thế nào khi in ra, từ đó có sự điều chỉnh hợp lý để có kết
quả ưng ý nhất.
3. Sử dụng chức năng Soft Proofing thế nào
Chú ý: để sử dụng chức năng này, coi như tất cả các thiết bị
từ màn hình đến máy in đều đã được cân chỉnh.
Chuẩn bị
Giả sử ta đã tới nhà in và xin được file Color profile của máy
in của
họ.
Bung file này ra và copy các file icc (trong trường hợp này là
các file OffsetEuro U360 K85 V25PO4.icc và OffsetEuro
U385 K85 V25PO4.icc) vào folder
C:\WINDOWS\system32\spool\drivers\color
Tiếp theo, trong Photoshop, vào View/Proof Setup/Custom...
để mở hộp thoại Customize Proof Condition
Trong hộp thoại này, set các giá trị như sau
-Nếu không muốn bị "bất ngờ" thì bỏ đánh dấu phần
"Preview". Lý do vì sao, làm thử sẽ biết
-Device to simulate: chọn profile của máy in mà ta cần giả
lập. trong trường hợp này, chọn OffsetEuro U360 K85
V25PO4
-Rendering Intent: chon Perceptual. Đây là một trong 4 phép
xử lý dữ liệu khi convert ảnh. chi tiết về phần này xem thêm
bên Quản lý màu sắc.
-Đánh dấu Black Point Compensation
-Các phần Simulate Paper Color và Simulate Black Ink có
thể chọn, tùy theo mình có muốn giả lập giấy và mực in hay
không.
Sau đó click vào Save... và đặt tên theo ý thích. Trong trường
hợp này là "gia lap OffsetEuro U360"
Cuối cùng, rất quan trọng, click vào Cancel để thoát ra.
Bắt đầu giả lập
Vào View/Proof Setup/ và click vào tùy chọn mình vừa tạo.
trong trường hợp này là View/Proof Setup/gia lap OffsetEuro
U360
Chú ý: đặt chuột vào tùy chọn này, nhắm mát lại, quay đi chỗ
khác khoảng 10 giây trở lên, rồi click, sau đó mới quay lại.
Nếu không, sẽ bị "choáng" màu
Máy in offset chỉ có 4 màu, nên không gian màu của nó rất
nhỏ, in ra ảnh có màu sắc rực rỡ như trên màn hình máy tính
hay hình từ máy in mực là điều không tưởng. Vì thế, khi
"proofing", nếu không nhìn ra chỗ khác, ta sẽ nhận thấy sự
thay đổi quá rõ rệt và có cảm giác hình "không đẹp"
Sau khi click, phần Proof Colors sẽ được tự động đánh dấu.
Nếu không, vào View/Proof Colors hoặc nhấn Ctrl+Y
Để xem những phần nào bị "Out of gammut", chọn
View/Gammut Warning hoặc nhấn Ctrl+Shift+Y
Nếu thấy xuất hiện những vệt màu xám trên ảnh: màu sắc ở
những vùng đó là màu mà máy in không thể in được, hay nói
cách khác, "out of the printer's gammut"
Bằng cách bật Soft Proof và Gammut Warning, ta có thể biết
được những vùng ảnh nào cần sửa chữa lại cho phù hợp, để
khi in ra, không bị mất chi tiết. Ví dụ, giảm độ đậm màu
(saturation) xuống đến khi những vệt xám ở những phần
quan trọng biến mất. Hoặc kết hợp với công cụ chọn
(Selection Tools) để chỉ sửa chữa những phần xám đó mà
vẫn giữ nguyên độ đậm màu ở những vùng không bị "out of
gammut". Ngược lại, cũng có thể tăng độ đậm màu ở những
vùng còn lại để khi in ra ảnh được tươi hơn. Các bước edit
này nên làm với Adjustment Layers, tránh làm việc trực tiếp
trên ảnh, vì mỗi máy in mỗi khác, từ đó, việc điều chỉnh ảnh
cho phù hợp với mỗi máy in cũng rất khác nhau.
Nên nhớ, việc Soft Proofing không phải để tìm cách xuất ra
ảnh với tất cả các chi tiết, màu sắc của bức ảnh. Tất cả các
thiết bị đều khác nhau, nên điều đó là khôgn tưởng. Nhưng
điều quan trọng là, dùng Soft Proofing để biết trước giữ lại
được những chi tiết quan trọng của tấm hình trước khi in ra,
và tránh không bị sốc khi nhìn thấy ảnh in ra quá khác so với
những gì mình muôn/tưởng tượng.
Read more:
of-soft-proofing-p1.12249/#ixzz2ZNaubWuN