Trên đây tôi nói kỹ về hai bài báo của Phan Khôi trong đó bànrõ về nội dung
của phạm trù chủ nghĩa cá nhân của tư tưởng phương Tây, về sự liên quan chặt chẽ
giữa chủ nghĩa cá nhân ở con người công dân với tinh thần dân chủ trong các thiết
chế xã hội chính trị; và nhân bàn về việc đưa tinh thần dân trị vào xã hội Việt Nam,
Phan Khôi nhấn mạnh rằng một trong những điều kiện thiết yếu là phải phổ cập nội
dung chủ nghĩa cá nhân vào đơn vị con người của xã hội ta.
Cần phải nói rằng những luận điểm chính như vừa dẫn trong hai bài báo trên cũng
được Phan Khôi thể hiện thường xuyên trong nhiều bài viết khác, kể cả loại bài mang
tính chất hài đàm, nhàn đàm, tạp trở, dật sự, Hơn thế, ở phương diện vận động phổ
biến các nội dung của chủ nghĩa cá nhân đó vào xã hội người Việt đương thời mình,
Phan Khôi đã tự chứng tỏ là một trong những nhà ngôn luận đi tiên phong, với việc biện
luận và đề xuất các nội dung của vấn đề nữ quyền
(13)
hoặc biện luận và đề xuất việc
chuyển từ mô hình đại gia đình sang mô hình gia đình hạt nhân trong xã hội người
Việt
(14)
. Nhìn lại cả quá trình vận động tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX, hậu thế chúng
ta có đủ căn cứ để xem Phan Khôi như một trong những nhà lý luận sâu sắc về quyền
con người trong đời sống hiện đại. Cách mô tả nội hàm phạm trù chủ nghĩa cá nhân như
trên của Phan Khôi chắc chắn không phải là kết quả sự hiểu sai đọc lệch nào, càng
không phải do bị tuyên truyền huyễn hoặc, mặc dù ngày nay đọc lại, người nghiên cứu
và cả người đọc thông thường đều dễ thấy rõ nó khác hẳn so với cách mô tả khác, phổ
biến hơn, theo đó phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) bị quy vào chủ nghĩa ích
kỷ (egoisme).
7 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1359 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phạm trù Chủ nghĩa cá nhân của tư tưởng phương Tây trong sự lý giải của Phan Khôi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phạm trù Chủ nghĩa cá nhân
của tư tưởng phương Tây
trong sự lý giải của Phan Khôi
Trên đây tôi nói kỹ về hai bài báo của Phan Khôi trong đó bàn rõ về nội dung
của phạm trù chủ nghĩa cá nhân của tư tưởng phương Tây, về sự liên quan chặt chẽ
giữa chủ nghĩa cá nhân ở con người công dân với tinh thần dân chủ trong các thiết
chế xã hội chính trị; và nhân bàn về việc đưa tinh thần dân trị vào xã hội Việt Nam,
Phan Khôi nhấn mạnh rằng một trong những điều kiện thiết yếu là phải phổ cập nội
dung chủ nghĩa cá nhân vào đơn vị con người của xã hội ta.
Cần phải nói rằng những luận điểm chính như vừa dẫn trong hai bài báo trên cũng
được Phan Khôi thể hiện thường xuyên trong nhiều bài viết khác, kể cả loại bài mang
tính chất hài đàm, nhàn đàm, tạp trở, dật sự, Hơn thế, ở phương diện vận động phổ
biến các nội dung của chủ nghĩa cá nhân đó vào xã hội người Việt đương thời mình,
Phan Khôi đã tự chứng tỏ là một trong những nhà ngôn luận đi tiên phong, với việc biện
luận và đề xuất các nội dung của vấn đề nữ quyền(13) hoặc biện luận và đề xuất việc
chuyển từ mô hình đại gia đình sang mô hình gia đình hạt nhân trong xã hội người
Việt(14). Nhìn lại cả quá trình vận động tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX, hậu thế chúng
ta có đủ căn cứ để xem Phan Khôi như một trong những nhà lý luận sâu sắc về quyền
con người trong đời sống hiện đại. Cách mô tả nội hàm phạm trù chủ nghĩa cá nhân như
trên của Phan Khôi chắc chắn không phải là kết quả sự hiểu sai đọc lệch nào, càng
không phải do bị tuyên truyền huyễn hoặc, mặc dù ngày nay đọc lại, người nghiên cứu
và cả người đọc thông thường đều dễ thấy rõ nó khác hẳn so với cách mô tả khác, phổ
biến hơn, theo đó phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) bị quy vào chủ nghĩa ích
kỷ (egoisme).
3. Tất nhiên cách hiểu như trên về chủ nghĩa cá nhân, không phải là cách hiểu
riêng của một mình Phan Khôi. Vả lại, như Phan Khôi đã có nói đến, chủ nghĩa cá nhân
không phải là đặc sản phương Tây theo cái nghĩa là nó không thể nảy nở ở các xã hội
ngoài phương Tây. Chủ nghĩa cá nhân không phải là thuộc tính dân tộc, chủng tộc, cũng
không phải đặc tính văn hoá vùng miền. Điều được nhấn mạnh là nên hiểu chủ nghĩa cá
nhân vừa như là điều kiện vừa như là sản phẩm của quan hệ kinh tế xã hội, của thiết chế
xã hội. Vì vậy nó có thể nảy nở ở những vùng miền khác, ngoài phương Tây, tức là cả ở
phương Đông.
Một trong những đoạn trích dẫn trên đã hé cho biết, Phan Khôi là người thấy
rằng ở xã hội người Việt đương thời mình chưa thể thực hiện nền dân chủ, mà một
trong những lý do trọng yếu là con người ở đây chưa hấp thụ và thực hành chủ nghĩa
cá nhân; và Phan Khôi thấy rằng nếu muốn Âu hoá, hiện đại hoá xã hội cổ xưa này
thì một trong những điều cần thiết là làm cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở ở đơn vị con
người của xã hội này.
Phan Khôi mới chỉ tin vào sự tất yếu của sự gieo trồng chủ nghĩa cá nhân vào xã
hội ta nếu muốn dân chủ hoá xã hội ta, chứ thật ra ông chưa tỏ vẻ tin tưởng rằng cái quá
trình ấy sẽ có thành tựu.
So với ông, có những người tin tưởng hơn nhiều; họ tin rằng có thể gieo trồng chủ
nghĩa cá nhân, gieo rắc tư tưởng về nhân quyền tự do vào xã hội phương Đông, xã hội
người Việt này. Những người tin như thế, đương thời Phan Khôi, thậm chí sớm hơn,
trước hết, đó là các nhà thực dân người Pháp. Ý tôi muốn nói đến những quan chức hàng
đầu được cử sang cai quản xứ thuộc địa này.
Theo tôi nhớ thì sử học của ta chưa cung cấp được những kết quả nghiên cứu khả
thủ về phương diện chủ thuyết, nhận thức chủ quan của các nhà cai trị đến từ Pháp về
mục đích của cái sự nghiệp được gọi, − hoặc theo lối chính thống hoặc theo lối mai mỉa,
− là “khai hoá” của họ. Những gì tôi trình bày tiếp đây chỉ là một tư liệu cụ thể, có lẽ
chưa có giá trị đại diện. Tôi muốn dẫn ra sau đây cách hiểu của Albert Sarraut (1872-
1962), từng là Toàn quyền xứ Đông Dương thuộc Pháp (1912-1919).
Trong một buổi diễn thuyết ở Hà Nội vào khoảng đầu năm 1919, A. Sarraut cho
rằng một trong những lý tưởng, chính sách của nước Pháp ở Đông Dương là tác động để
gây ra “cái tư tưởng về nhân quyền (le droit de homme), về cái quyền của con người
ta”(15). A. Sarraut nhận định về trạng thái của đơn vị con người ở xã hội người Việt cổ
truyền:
“Trước khi người Đại Pháp sang Đông Dương này thì dân An Nam tuy là
một dân tộc có văn hiến, đã có pháp luật khôn ngoan của vua hiền chúa giỏi
đặt ra, song cũng ví như một đám đông chưa thành hình (masse amorphe), còn
chìm đắm vào trong đoàn thể, người ta còn ngập vào trong đám đông, như cái
cây lẫn trong rừng lớn vậy. Cái giá trị của người ta (la valeur humaine), nghĩa là
những quyền lợi của mỗi người cùng là phép luật để giữ cho những quyền lợi
ấy, còn hầu như chưa có. Người ta đối với quốc gia chẳng qua là một chút mảy
may, cũng ví như một hột cát trong đống cát vậy. Cái đám người đông u u âm
âm ấy đã mấy mươi đời nay vẫn cứ chịu ép một bề mà theo cái quyền chuyên
chế của người trên, dù cái quyền ấy sai khiến thế nào mặc lòng, bắt sống phải
sống bắt chết phải chết, dẫu lạm dụng quá độ cũng không biết tố cáo vào đâu,
vì trên ông vua không còn có cái quyền nào cao hơn nữa. Người ta an toàn
được chỉ là nhờ ở cái bụng tốt, cái chí công, cái lòng nhân từ của ông vua cầm
quyền đó, cùng những người khâm mạng vua mà thi hành cái quyền đó. Gặp
được vua hiền quan giỏi thì cái nhân thân của mình được trọn vẹn, gặp phải vua
xấu quan xằng thì khó lòng mà giữ cho trọn được. Đối với cái quyền tối cao
tuyệt đối ấy thì không còn có pháp luật nào mà tố cáo được nữa”(16).
Một trạng thái như vậy, theo Sarraut, vốn thuận lợi cho các nhà thực dân:
“Chắc rằng một cái tình trạng như vậy thì dễ việc cai trị cho quân quyền
nhiều lắm, vì dân chỉ là một cái lũ đã sẵn lòng phục tòng, không phải là những
người đã có quyền lợi riêng; bởi dễ dàng cho việc cai trị như vậy nên chính các
quan cai trị Pháp cũng thường muốn theo lối cũ mà cứ giữ y nhiên như vậy, lấy
làm tiện lợi nhiều, vì chỉ phải can thiệp với cả đoàn thể mà không quản gì đến
quyền lợi riêng của mỗi người”(17).
Tuy nhiên, lý tưởng của những người Pháp đến chinh phục xứ này, theo Sarraut,
lại là làm cho đơn vị cá nhân (individu) của con người hiện diện ra với tất cả giá trị và
quyền lợi của nó. Ông ta ví công việc tác động ấy như của người thợ nặn:
“Cái tay nước Pháp lấy cái đất nước Nam ấy mà nặn lên thành những
người có nhân cách, để giữ được quyền lợi, vì đã có pháp luật cao hơn mà che
chở cho”(18).
Cố nhiên nhà chính trị phải lập tức trở lại câu chữ khái quát:
“Muốn nói cho đúng hơn thì phải nói rằng nước Pháp vẫn dụng công
để gây cho người An Nam có cái nhân cách hoàn toàn ấy. Vì cái công nghiệp
nước Pháp về đường ấy chưa phải đã xong đâu; còn phải lâu dài nữa rồi mới
mong tới ngày trong suốt cõi nước này cái công tạo thành ra nhân cách có đủ
quyền lợi pháp luật ấy sẽ được hoàn toàn và sẽ được hiển nhiên công nhận
vậy. Hiện nay còn gặp nhiều sự ngăn trở lắm, hoặc bởi phong tục, hoặc bởi
quyền thế, hoặc bởi cái trình độ giáo dục trong dân còn kém, hoặc bởi những
lề thói cổ tự đời nào đến giờ làm ngăn trở sự tiến bộ, ngại đường công lý.
Nhưng cái nguyên lý cốt yếu thì hiện nay đã phát minh ra rõ ràng rồi, cái
nguyên lý ấy là thế này: người bản xứ ở đây cũng là người, cũng có nhân cách
như mọi người khác, như người Âu châu chúng tôi vậy. Nhân cái nguyên lý đó,
thì nước Pháp cùng những người khâm mạng nước Pháp để cai trị ở đây, vẫn
hết sức làm cho vững bền, cho rõ tỏ những quyền pháp để bảo toàn cho người
ta, những kế hoạch để giữ gìn cho cái nhân thân, sự tự do, cái sinh mệnh, sự
tài sản của người ta cùng là giúp cho người ta về thân thể, về tinh thần, mỗi
ngày một phát đạt thêm lên, sau này được sung sướng hơn lên, và, hoặc giả
có bị xâm phạm đến những quyền lợi cùng tư cách ấy thì có chỗ mà kháng cáo
được. Ấy, cái mục đích cao thượng của công nghiệp nước Pháp là ở đó”(19).
Trên đây tôi đã trích dẫn giới thiệu quan điểm một nhà cầm quyền Pháp về công
việc được xem như “mục đích cao cả” của mình: phổ cập chủ nghĩa cá nhân vào xã hội
người Việt. Ngôn ngữ quan phương của ông quan lớn nhất, đứng đầu bộ máy cai trị xứ
thuộc địa, đã khiến những lời lẽ trên đây bị quá tải những thiện ý và tính chính nghĩa;
song le điều đó cũng không làm cho nó trở nên vô nghĩa hoàn toàn; ít ra trong đó cũng
vẫn còn một vài phần sự thực.
Điều tôi lưu ý ở ví dụ vừa trích dẫn từ viên cựu toàn quyền kia là những nội dung
căn bản của phạm trù chủ nghĩa cá nhân mà ông ta diễn đạt, lại có sự phù hợp trên nét
lớn với những nội dung mà ta thấy Phan Khôi đã diễn đạt.
Tôi sẽ loại bỏ ngay khả năng Phan Khôi là kẻ hâm mộ viên chức kia. Chính trong
năm 1919, Phan Khôi đã lên tiếng mỉa mai cái ngôn từ “xin chính quốc cho Đông
Dương được tự trị” của toàn quyền A. Sarraut(20).
Bởi vậy, sự phù hợp này chẳng qua chỉ cho thấy có phần chắc là Phan Khôi
đã đọc đúng cái nội dung chủ nghĩa cá nhân của xã hội phương Tây đương thời ông; đọc
đúng ở đây có nghĩa là diễn đạt lại cho người đọc Việt Nam bằng tiếng Việt đúng cái
quan niệm về nhân quyền, về quyền và lợi ích của cá nhân mỗi con người, tức là về chủ
nghĩa cá nhân mà ở xã hội Tây phương đương thời ấy người ta đang chủ trương và đang
sống trong những nguyên tắc của nó.
4. Ngày nay, ở đầu thế kỷ XXI này, chúng ta biết rằng chủ nghĩa cá nhân và thể
chế dân chủ đã không còn là đặc sản của riêng các xã hội phương Tây.
Tuy vậy, trên quy mô toàn hành tinh tức là toàn nhân loại, những vấn nạn về
quyền con người, thậm chí, những thảm hoạ nhân đạo vẫn chưa hết tính nguy cơ thường
trực của chúng.
Ở một phương diện khác, người ta vẫn chưa thôi tranh cãi về những hàm nghĩa và
ranh giới của quan niệm về nhân quyền. Các chính thể toàn trị, để tự biện hộ cho độc
quyền hạn chế và kiểm soát tự do của công dân thuộc quyền mình, đã ra sức nhấn mạnh
đặc tính dân tộc, đặc tính văn hoá vùng lãnh thổ của các quan niệm về quyền con người.
Ở những nước được coi là phát triển nhất vẫn thấy nảy sinh những hiện trạng thoái hoá
hoặc biến dạng của nhân tính. Do vậy, những vấn đề về chủ nghĩa cá nhân, về nhân
quyền chưa bao giờ mất tính thời sự của mình.
Ở Việt Nam, cách hiểu chủ nghĩa cá nhân như Phan Khôi mô tả từ những năm
1920-30, đã không trở thành cách hiểu chủ đạo. Thay vào đó, cách hiểu mang tính lược
quy chủ nghĩa cá nhân vào chủ nghĩa ích kỷ, vị kỷ, lại trở thành dòng hiểu biết chính
thống; chủ nghĩa cá nhân trở thành đối tượng bị kêu gọi “khắc phục” nhân danh đạo đức
xã hội; sự đả kích quan niệm cá nhân thậm chí thấm đẫm vào ngôn trò chuyện thường
ngày, v.v Giới nghiên cứu quốc tế nhận xét rằng “chủ nghĩa cá nhân bị phê phán nặng
nề nhất ở các nước Đông Á, nơi mà các hành vi vị kỷ, theo truyền thống, bị xem là
những hành vi phản bội”(21).
Trong một tình hình tri thức như vừa mô tả, dù chỉ xoay quanh một phạm trù hiểu
biết xã hội, tôi nghĩ, cách hiểu và sự mô tả chủ nghĩa cá nhân như trên của Phan Khôi, từ
cách nay 70-80 năm, vẫn còn có thể gây tranh luận đến tận hôm nay. Đó là điều cho thấy
sức sống, cho thấy ý nghĩa thời sự hiện đại trong trước tác của ông