Phân tích đối chiếu cấu trúc dạng láy ABB giữa tiếng Việt và tiếng Hán

Tóm tắt: Láy là một hiện tượng hình thái phổ biến trong loại hình học ngôn ngữ. Trong loại hình ngôn ngữ đơn lập như Tiếng Việt, tiếng Hán, láy là một phương thức cấu tạo từ quan trọng. Cấu trúc dạng láy ABB là một trong những dạng láy thường gặp trong đời sống hàng ngày và trong các tác phẩm văn học. Tuy nhiên cấu trúc này vẫn chưa được giới Việt ngữ học quan tâm. Trong bài viết này, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng đi sâu nghiên cứu đối chiếu cấu trúc dạng láy ABB giữa tiếng Việt và tiếng Hán. Thông qua phân tích đối chiếu, tác giả đã tìm ra được những điểm tương đồng và khác biệt về mặt cấu tạo, ngữ âm, ngữ nghĩa của cấu trúc này trong hai ngôn ngữ

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 283 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích đối chiếu cấu trúc dạng láy ABB giữa tiếng Việt và tiếng Hán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ti u ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài 440 PHÂN TÍCH ĐỐI CHIẾU CẤU TRÚC DẠNG LÁY ABB GIỮA TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG HÁN Ngô Th Hu Trường Đại học Hà Nội Tóm t t: Láy là một hiện tượng hình thái phổ biến trong loại hình học ngôn ngữ. Trong loại hình ngôn ngữ đơn lập như Tiếng Việt, tiếng Hán, láy là một phương thức cấu tạo từ quan trọng. Cấu trúc dạng láy ABB là một trong những dạng láy thường gặp trong đời sống hàng ngày và trong các tác phẩm văn học. Tuy nhiên cấu trúc này vẫn chưa được giới Việt ngữ học quan tâm. Trong bài viết này, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng đi sâu nghiên cứu đối chiếu cấu trúc dạng láy ABB giữa tiếng Việt và tiếng Hán. Thông qua phân tích đối chiếu, tác giả đã tìm ra được những điểm tương đồng và khác biệt về mặt cấu tạo, ngữ âm, ngữ nghĩa của cấu trúc này trong hai ngôn ngữ. T khóa: Đối chiếu; Việt Hán; cấu trúc dạng láy ABB Abstract: Reduplication is a common feature of linguistic typology, and an important method of constructing new words in such isolating languages as Vietnamese and Chinese, in which ABB reduplication is one of the most commonly adopted reduplication styles in daily lives and literature works. However, ABB style didn’t attain so much attention as it should deserve and is not fully studied by the Vietnamese linguists. This paper incorporated the qualitative and quantitative methods to deeply explore the similarities and differences of Vietnamese and Chinese ABB style in construction, pronuncation and meaning. Key words: Comparative Research of Vietnamese and Chinese; Reduplication; ABB Style Láy (Reduplication) là một hiện tượng hình thái phổ biến trong loại hình học ngôn ngữ. Trong loại hình ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt, tiếng Hán, láy là một phương thức cấu tạo từ quan trọng. Cấu trúc dạng láy ABB1 do tổ hợp từ căn A kết 1 Cấu trúc ABB trong tiếng Hán được gọi là “tính từ láy dạng ABB”. Trong tiếng Việt, cho đến nay vẫn chưa có một thuật ngữ chính thức nào dành cho cấu trúc này. Tuy nhiên trong “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê (2000) hợp với hình vị láy âm BB tạo thành (dưới đây gọi tắt là tổ hợp ABB) là một trong những dạng láy thường gặp trong đời sống hàng ngày và trong các tác phẩm văn học. Tuy nhiên, cho đến nay với tiếng Việt cấu trúc này dường như mới chỉ xuất hiện trong từ điển mà chưa được sự quan tâm của các học giả. Nghiên cứu đối chiếu của chúng tôi dựa trên ngữ liệu do tác giả thu thập được từ 115 tổ hợp ABB thường dùng trong tiếng Việt và 298 tổ hợp ABB tiếng Hán từ bảng thống kê của cuốn “Tám trăm từ Hán ngữ hiện đại ”(bản bổ sung) do Lục Thúc Tương (1999) chủ biên. 1. Đối chiếu cấu tạo Cấu trúc dạng láy ABB của tiếng Việt và tiếng Hán đều do từ căn A kết hợp với hình vị láy âm BB tạo thành. Trong đó từ căn A chủ yếu là tính từ. Với tiếng Việt, trong 115 tổ hợp ABB thì có 110 tổ hợp có A là tính từ, chiếm 96%. Với tiếng Hán, trong 298 tổ hợp thì có 203 tổ hợp có A là tính từ, chiếm 68,12%. BB trong tổ hợp ABB của tiếng Việt thuộc từ láy hoàn toàn không xác định yếu tố gốc, trong “Từ điển tiếng Việt” hoặc “Từ điển từ láy tiếng Việt” đều có thể tìm thấy loại từ này. BB là tính từ, có thể đứng độc lập thành từ và đảm nhiệm vai trò trung tâm ngữ như “Xe cộ nườm nượp như mắc cửi”(ABB “đông nườm nượp”). BB là phó từ không thể dùng độc lập, chỉ xuất hiện trong tổ hợp ABB “Căn phòng tối om om” (không thể nói “căn phòng om om”). Ngược lại, BB trong tổ hợp ABB của tiếng Hán chỉ có một lượng nhỏ thuộc tính từ láy không xác định yếu tố gốc, có thể đứng độc chủ biên có xuất hiện các từ dạng láy ABB như “tối om om, thơm phưng phức v.v..” và được ghi chú là tính từ. Trong các bài tập tiếng Việt chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống của học sinh tiểu học cũng thường xuất hiện loại từ này với tên gọi là “từ tượng hình”. Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 441 lập, gồm 46/298, chiếm 15%, ví dụ “ (mang mang đại hải ) /  (bạch mang mang ),   (hồng kỳ phiêu phiêu )/  (khinh phiêu phiêu ) ”, còn phần lớn BB là hậu tố láy âm không đứng độc lập thành từ 145/298, chiếm 49%, ví dụ: “  (toan lựu lựu ), (viên hồ hồ )” vì thế loại BB là hậu tố không đứng độc lập thành từ này không xuất hiện trong từ điển. Đây là điểm khác biệt lớn nhất giữa hai ngôn ngữ. Với tiếng Việt, cho đến nay giới Việt ngữ học phân định từ loại của BB vẫn chưa được rõ ràng. Có những trường hợp như “hun hút” (sâu hun hút), sùng sũng (ướt sùng sũng), “Từ điển tiếng Việt ” do Hoàng Phê (2000) chủ biên cho là tính từ, nhưng “Từ điển từ láy tiếng Việt” do Hoàng Văn Hành (1995) chủ biên cho là phó từ. Ví dụ, với BB là “tăm tắp”, “Từ điển từ láy tiếng Việt”cho là phó từ và đưa ra ví dụ sau: “Bà lão vội vàng ăn ngay. Nhưng họ ăn nhanh quá. Mọi người đều lặng lẽ, cắm cúi, mải mốt. Đôi đũa này lên lại có đôi khác xuống. Liên tiếp luôn như vậy. Cứ tăm tắp tăm tắp. (Nam cao, Một bữa no Chúng tôi cho rằng, trong ví dụ nêu trên BB “tăm tắp” đảm nhiệm vai trò trung tâm ngữ trong câu vì thế nó là thực từ (tính từ) chứ không phải hư từ (phó từ). Những ví dụ tương tự xuất hiện rất nhiều trong “Từ điển từ láy tiếng Việt”. Sở dĩ tồn tại vấn đề phân loại chưa được tường minh là vì BB của tiếng Việt khó xác định là tính từ hay phó từ, bởi ý nghĩa của nó tương đối rõ ràng, sử dụng cũng rất linh hoạt. Nếu là phó từ thì BB cũng không giống như các phó từ chỉ mức độ như “rất, lắm, vô cùng”, mà thiên về đặc tính của tính từ, đó cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu tồn tại những bất cập trong vấn đề phân loại. Trong tiếng Việt, đại đa số AB có thể kết hợp thành từ. Tác giả khảo sát 115 tổ hợp ABB thì có 85 trường hợp có thể kết hợp tạo thành tính từ song tiết AB, chiếm 74%.Trong tiếng Hán, tác giả khảo sát 298 tổ hợp ABB thì có 46 trường hợp có thể kết hợp tạo thành tính từ song tiết, chiếm 15%. So với tiếng Hán thì tổ hợp ABB của tiếng Việt có thể kết hợp thành từ song tiết AB nhiều hơn. Như vậy BB, AB của tiếng Việt có thể đứng độc lập thành từ, có nghĩa thực nhiều hơn so với tiếng Hán. Điều đó thể hiện tính chất đơn lập của tiếng Việt rõ ràng hơn tiếng Hán. Dưới đây là những ví dụ ABB tồn tại dạng AB: Tiếng Việt: ABB AB BB thơm phưng phức thơm phức phưng phứcphó từ nặng trình trịch nặng trịch trình trịchphó từ sáng choang choang sáng choang choang choangphó từ tròn xoe xoe tròn xoe xoe xoephó từ trắng phau phau trắng phau phau phautính từ thẳng tăm tắp thẳng tắp tăm tắptính từ im thin thít im thít thin thíttính từ nóng hôi hổi nóng hổi hôi hổitính từ Tiếng Hán: ABB AB (lãnh thanh thanh )  (bi thảm thảm )   (cô đơn đơn )  Ti u ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài 442  (điềm mật mật )   (không động động )   (xích khỏa khỏa )  Trong tiếng Việt có thể kết hợp thành AB thường BB là phó từ. Còn BB là tính từ thì có trường hợp có thể tồn tại AB, có trường hợp không thể tạo thành AB. Ví dụ: BB “hun hút, nườm nượp” là tính từ, có thể kết hợp với A tạo thành ABB như “sâu hun hút, đông nườm nượp” nhưng không tồn tại AB “sâu hút, đông nượp” v.v.. Về mặt ngữ âm, sự biến đổi ngữ âm (nếu có) ở loại từ này trong hai ngôn ngữ đều xảy ra với BB. Chỉ có điều sự biến đổi ấy ở tiếng Hán tương đối tự do, còn ở tiếng Việt thì tương đối phức tạp. Trong tiếng Việt, âm cuối và thanh điệu của BB có những biến đổi nhất định. BB tuân thủ theo quy luật ngữ âm bằng trắc đan xen (), (), (), trường hợp BB mang thanh bằng sẽ không có sự biến đổi ngữ âm. Âm cuối biến đổi từ -p -t  -k (cch) sang-m-n-ng (ng nh). Quy luật biến đổi ngữ âm xảy ra với âm cuối của BB như sau ngc im phăng phắc mp đầy ăm ắp ntxanh ngăn ngắt nhch nặng trình trịch Với tiếng Hán, trong khẩu ngữ có trường hợp BB có sự biến đổi thanh điệu, BB biến thành thanh một (âm bình). Khác với tiếng Việt, âm cuối của BB không có sự biến đổi. Ví dụ:  hēi yōuyōu  màn tēngtēng  chén diāndiān  !"" máo rōngrōng #$$ lǜ yōuyōu   %% gū līnglīng Lã Thúc Tương (1999) chỉ ra rằng, trong khẩu ngữ tiếng Bắc Kinh thì BB thường đọc thanh một, trước đây rất nhiều sách giáo khoa cũng quy định BB đọc thanh một. Vương Khải Long (2003) cũng cho rằng, phần lớn BB đọc thành thanh một, ngay cả với những trường hợp BB không phải là thanh một thì cũng vẫn được đọc thành thanh một. Tác giả tiến hành khảo sát cuốn “Từ điển Hán Việt hiện đại” của Thương Vụ Ấn Thư (Bản lần thứ năm) thấy rằng, trong từ điển có trường hợp ABB được ghi chú thành hai cách đọc, ví dụ như “&'' chén diàndiàn khẩu ngữ đọc chén diāndiān#$$ lǜ yóuyóu ẩu ngữ đọc lǜ yōuyōu”v.v.. Ví dụ trong cuốn “Thi trắc nghiệm trình độ tiếng Hán phổ thông” (NXB Thương Vụ Ấn Thư), trong đó có xuất hiện cấu trúc dạng láy ABB như sau: >()*+,-./012* -3456789:;/?@/0A 12* -BC5DDEFG=HI JBKLM 5Nß ODDP QRS8TUV-WXE FYZ[-H\]KLM 3N^ S_`a-bcdefg-hi jgkQlmnoEFG=Hpq; bKLM 12Nß Với những cấu trúc dạng láy ABB, phát thanh viên đều đọc BB là thanh một, như: máo rōngrōng liàng jīngjīngpéng sōngsōngchén diāndiān hēi yōuyōuruǎn miānmiān. Trên thực tế những hậu tố BB này (""r''r vốn dĩ không phải là thanh một, nhưng trong khẩu ngữ có thể đọc BB thành thanh một, sự biến đổi đó tương đối tự do. Sự biến đổi ngữ âm của cấu trúc này trong hai ngôn ngữ đều xảy ra với âm tiết BB. Sự biến đổi ấy ở tiếng Việt phức tạp hơn so với tiếng Hán. Trong tiếng Việt, BB ngoài thanh điệu có sự biến đổi thì có trường hợp âm cuối cũng có sự biến đổi. Ở tiếng Hán, sự biến đổi ngữ âm chỉ trong khẩu ngữ, tương đối tự do. Ngược lại, trong tiếng Việt sự biến đổi ngữ âm mang tính hệ thống và có quy luật. Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 443 2. Đối chiếu ngữ nghĩa 2.1. Nghĩa hạt nhân Như trên đã nói, ABB của tiếng Việt và tiếng Hán là do từ căn A kết hợp với hình vị láy âm BB tạo thành. Về mặt ngữ nghĩa, nghĩa hạt nhân của tổ hợp này vẫn là ở từ căn A, BB có tác dụng nói rõ bổ sung, phụ nghĩa cho A. Nếu A đơn thuần chỉ là tính từ chỉ tính chất thì sau khi kết hợp với BB, tổ hợp ABB trở thành tính từ biểu thị trạng thái và thường mang hàm ý ở mức độ cao thậm chí là cao nhất. Ví dụ tiếng Việt: “trắng phau phau”, nghĩa hạt nhân vẫn là “trắng”, nhưng sau khi kết hợp với BB (“phau phau” <tính từ láy không xác định yếu tố gốc> biểu thị trắng đều nhất loạt, không hề có đốm, có vếtthì ABB trở thành tính từ biểu thị trạng thái trắng ở mức độ cao, rất trắng, không bị pha tạp bởi các màu sắc khác. Ví dụ tiếng Hán: “s ” (nhiệt đằng đằng ), nghĩa hạt nhân là “nóng”, BB “ ” là tính từ láy không xác định yếu tố gốc biểu thị hơi đang bốc lên, tổ hợp ABB biểu thị trạng thái nóng ở mức độ cao, đến mức như còn nhìn thấy hơi nóng đang bốc lên. A “s” đơn thuần chỉ tính chất, kết hợp với BB trở thành tính từ biểu thị trạng thái. Như vậy, trong tổ hợp ABB, BB không làm thay đổi nghĩa hạt nhân của A mà có tác dụng bổ sung nói rõ trạng thái A ra sao. Ngoài ra, mức độ ý nghĩa của ABB so với A hoặc AB (nếu tồn tại) đều mạnh hơn, thậm chí là cực mạnh. 2.2. Nghĩa sắc thái hình tượng Tổ hợp ABB của tiếng Việt và tiếng Hán đều mang ý nghĩa sắc thái, hình tượng, nó khơi gợi những liên tưởng phong phú của con người. Nếu chỉ đơn thuần từ căn A sẽ không mang lại giá trị như vậy. Ví dụ chỉ nói “rét/lạnh”( ) hay “rất rét/rất lạnh” (t ) sẽ không thể kích thích óc liên tưởng của con người. Nhưng khi nói “rét căm căm ” uu, lãnh sưu sưusẽ làm ta nghĩ đến cái rét rất đậm, như có kim châm vào da thịt, đến mức phải run lên. Với tiếng Hán BB “uu” còn là từ láy tượng thanh biểu thị tiếng gió thổi, vì thế sau khi kết hợp với A“ ” tạo thành “ uu” khiến ta liên tưởng tới cảnh người co rúm lại trong gió lạnh và cái rét cắt da cắt thịt của mùa đông. Cho dù BB với tư cách là từ hay hậu tố, có nghĩa thực hay nghĩa đã bị hư hóa, hoặc đang trong quá trình hư hóa, thì sau khi kết hợp với A tạo thành ABB đều biểu thị nghĩa hình tượng, sinh động, cụ thể. Ngoài ra, ABB của tiếng Việt, tiếng Hán còn có những điểm tương đồng như cùng một BB có thể kết hợp với nhiều A khác nhau, cùng một A có thể kết hợp với nhiều BB khác nhau nhằm mô tả những trạng thái khác nhau, tu sức cho những đối tượng khác nhau. a. Cùng một A có thể kết hợp với nhiều BB khác nhau Ví dụ: Với A là tính từ chỉ màu “đỏ”, khi kết hợp với nhiều BB khác nhau, biểu thị nghĩa hạt nhân là màu đỏ nhưng đỏ với những sắc thái, trạng thái khác nhau, tu sức cho những đối tượng khác nhau. Ví dụ tiếng Việt “đỏ rừng rực”để chỉ mặt trời đỏ với ánh sáng và sức nóng bốc lên mạnh lan tỏa ra xung quanh. “đỏ phừng phừng” biểu thị khuôn mặt do uống rượu hay nổi giận, bực tức mà đỏ lên; “rừng rực” và “phừng phừng” đều mang theo lớp nghĩa là nhiệt lượng đột nhiên tăng mạnh lên. “đỏ chon chót” là đỏ ở mức độ cao, gây chói mắt, không thích mắt, thường dùng để miêu tả môi son, má đỏ hay quả chín đỏ v.v.. “đỏ hon hỏn” chỉ màu đỏ của da thịt trẻ mới sinh, màu đỏ của sự sống mới trào đời khỏe mạnh và đáng yêu. “đỏ hây hây” là màu đỏ phơn phớt với vẻ mỡ màng, tươi tắn, đầy sức sống, thường miểu tả má đỏ của trẻ nhỏ hay các cô gái. “đỏ au au” là sắc đỏ tươi của sự săn chắc, rắn rỏi, gây cảm giác thích mắt, thường miêu tả nước da khỏe mạnh của người già. Ví dụ tiếng Hán: Ti u ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài 444 “vv” (hồng xán xán) BB“vv”là tính từ láy không xác định yếu tố gốc, biểu thị ánh sáng chói lọi, kết hợp với A tạo thành “vv” thường miêu tả mặt trời, ánh hoàng hôn với trạng thái đỏ rực. “ww” (hồng diễm diễm) BB “ww” là tính từ láy không xác định yếu tố gốc, biểu thị ánh sáng, màu sắc rực rỡ, đẹp mắt. ww thường miêu tả trạng thái đỏ rực rỡ của mặt trời hay đóa hoa. “xx” (hồng thông thông): BB“xx”là phó từ láy biểu thị toàn bộ, tất cả, mang nghĩa tăng cường, kết hợp thành ABB biểu thị trạng thái đỏ ở mức độ cao, rất đỏ, thường dùng để miêu tả khuôn mặt, mặt trời, ngọn lửa. “yy” (hồng đồng đồng) BB“yy” là hậu tố láy âm không đứng độc lập thành từ (y với nghĩa là màu đỏ), có tác dụng biểu thị nghĩa tăng cường. Tổ hợp “yy” biểu thị mặt trời, khuôn mặt với trạng thái rất đỏ. “zz” (hồng phốc phốc): BB “zz”là hậu tố láy âm không đứng độc lập thành từ (“z” biểu thị đập, thoa, xoa), zz làm ta liên tưởng tới khuôn mặt như được thoa phấn hồng, biểu thị làn da, đôi má với trạng thái đỏ hồng hào, tràn đầy sự sống. {{ (hồng nhuận nhuận): BB “{{”là hậu tố láy âm không đứng độc lập thành từ (“ ” biểu thị mịn màng, tươi sáng. “{{”thường miêu tả khuôn mặt, nước da, ánh đèn ở trạng thái đỏ hồng, mỡ màng, đẹp mắt. Chúng tôi phát hiện, tổ hợp ABB biểu thị màu sắc rất phong phú, dường như màu sắc cơ bản nào cũng có thể tìm thấy trong tổ hợp này. Vì sao hai ngôn ngữ đều sử dụng cấu trúc dạng láy ABB để biểu thị trạng thái của sắc màu? Đó là vì thế giới hiện thực rực rỡ muôn màu, nó cần có ngôn ngữ hình tượng, âm thanh sinh động để thể hiện thế giới muôn sắc màu ấy. Hơn nữa, tổ hợp ABB là do A kết hợp với BB tạo thành, từ căn A biểu thị tính chất của màu sắc, BB biểu thị trạng thái sắc màu của A ra sao, do đó, cùng là một sắc màu nhưng khi kết hợp với BB không giống nhau sẽ biểu thị trạng thái sắc màu khác nhau, tu sức cho những đối tượng khác nhau. b. Cùng một BB có thể kết hợp với nhiều A khác nhau Ví dụ tiếng Việt với BB là “ngăn ngắt”, có các tổ hợp ABB như: “lạnh ngăn ngắt, vắng ngăn ngắt, đắng ngăn ngắt, xanh ngăn ngắt, tím ngăn ngắt”. Ở đây cho dù A khác nhau nhưng đều có đặc trưng giống nhau của BB, tức là “lạnh, vắng, đắng, xanh, tím” ở trạng thái mức độ cao. “lạnh ngăn ngắt, vắng ngăn ngắt, đắng ngăn ngắt” đều biểu thị trạng thái lạnh lẽo, vắng vẻ, nhạt nhẽo với hàm ý không thích, không mong muốn, không hài lòng của người nói; “xanh ngăn ngắt, tím ngăn ngắt” đều biểu thị sắc xanh đậm, tím đậm lan tỏa rộng trong không gian chứ không phải một chấm nhỏ, hàm chứa màu sắc (xanh, tím) ở trạng thái mức độ cao. Ngoài BB là “ngăn ngắt”, tiếng Việt còn có một số BB có khả năng kết hợp với nhiều A khác nhau như: xanh thăm thẳm, sâu thăm thẳm; đỏ lòm lòm, chua lòm lòm Cho dù kết hợp với A để tạo thành tổ hợp ABB, nhưng BB trong tiếng Việt vẫn có một cơ cấu nghĩa của riêng mình, cũng như A vẫn có nghĩa độc lập với BB trong tổ hợp ABB [4, 394]. Trong tiếng Việt, cùng một BB có thể kết hợp với nhiều A khác nhau nhưng khả năng tổ hợp của BB không mạnh. Bởi đại đa số BB của tiếng Việt có nghĩa thực nên việc kết hợp với nhiều A khác nhau sẽ bị hạn chế. Ví dụ tiếng Hán: Nhóm 1: || (lâm lâm) }|| (thấp lâm lâm <ướt sùng sũng>), ~|| (vũ lâm lâm ), || (lệ lâm lâm ), €|| (huyết lâm lâm ) v.v.. Nhóm 2  (tư tư) ‚ (lạc tư tư ), a (mỹ tư tư ), ƒ (hỉ tư tư ) v.v.. Nhóm 3 ?? (hồ hồ) „…… (hương hồ hồ <thơm phương phức>), †…… (trào hồ hồ <ướt nhoen Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 445 nhoét>), ……(viên hồ hồ ), ) …… (quang hồ hồ ), $…… (dầu hồ hồ ), …… (điềm hồ hồ ) v.v.. ‡‡ (ba ba) ˆ‡‡ (can ba ba <khô không khốc>), ‰‡‡ (đạm ba ba ), Š ‡‡ (đoản ba ba ), ‹‡‡ (khẩn ba ba ) v.v.. Nhóm 1 BB “||” có nghĩa thực, có thể đứng độc lập thành từ, đây là những tính từ láy không xác định yếu tố gốc. Sau khi kết hợp với A tạo thành ABB thì ý nghĩa của BB vẫn tương đối rõ ràng. “||” biểu thị nước, mồ hôi v.v đang nhỏ giọt. Khi BB kết hợp với A tạo thành các tổ hợp ABB thì nghĩa hình tượng, cụ thể ấy của BB vẫn tiềm ẩn, như: “}||” (ướt sùng sũng), “~||” (mưa dầm dề), “||” (nước mắt đầm đìa), “€ ||” (máu toe toét). Nhóm 2 “” là hậu tố láy âm, không đứng độc lập thành từ. “” mang nghĩa là “nảy, đâm, mọc ({: tươi nhuần, Œ: bồi bổ)”. Cho dù ý nghĩa của BB đã bị hư hóa hoặc đang trong quá trình hư hóa nhưng dường như nó vẫn hàm ẩn trong tổ hợp ABB.“‚ (sung sướng), a (vui sướng, đắc chí), ƒ (hân hoan, vui sướng)” khiến ta liên tưởng tới trạng thái hân hoan vui sướng đang lan tỏa và “thẩm thấu” trong tâm hồn. Nhóm 3 là hậu tố láy âm “…… ‡‡”, không đứng độc lập thành từ. Đây là hậu tố điển hình cho cấu trúc dạng láy ABB của tiếng Hán. Tiếng Việt không có kiểu hậu tố này. Nó có thể kết hợp được với rất nhiều A khác nhau. Ý nghĩa của nó về cơ bản đã bị hư hóa, rất khó để nhận biết nó bổ sung nói rõ cái gì cho A, dường như chỉ có tác dụng cấu tạo từ [14,21]. Dù vậy khi kết hợp với A người ta vẫn nhận thấy sắc thái hình tượng và ý nghĩa tăng cường mà nó đem lại. Ví dụ: “……” khiến người ta nghĩ đến vẻ ngốc nghếch một cách đáng yêu, “Š‡‡” là trạng thái ngắn cũn cỡn, không đẹp mắt, gây khó chịu cho người nói v.v.. Khả năng cùng một BB giống nhau có thể kết hợp với nhiều A khác nhau của tiếng Việt không mạnh như tiếng Hán. Bởi đại đa số BB của tiếng Việt có nghĩa thực, do đó việc kết hợp với nhiều A khác nhau sẽ bị hạn chế. Ngược lại BB của tiếng Hán thì đang trong quá trình hư hóa hoặc đã hư hóa, do đó khả năng kết hợp với nhiều A khác nhau mạnh. Khả năng tổ hợp của BB càng mạnh chứng tỏ mức độ ý nghĩa hư hóa càng cao còn khả năng tổ hợp của BB càng yếu chứng tỏ mức độ ý nghĩa hư hóa càng thấp. 3. Kết luận: Thông qua đối chiếu cấu trúc dạng láy ABB giữa tiếng Việt và tiếng Hán, chúng tôi đã tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt như sau: Tương đồng: ABB trong tiếng Việt và tiếng Hán đều do từ căn A kết hợp với BB tạo thành. Trong đó phần lớn A là tính từ. Ở tiếng Việt trong 115 tổ hợp ABB th