Một quyết định mua sắm có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tình huống mà 
người ta tìm thấy chính họ. Tổng quát, một tình huống là hoàn cảnh mà một 
người phải đối mặt khi đưa ra quyết định mua sắm, chẳng hạn như bản chất 
của môi trường vật chất, trạng thái cảm xúc của họ, hay sự thúc ép của thời 
gian. Không phải tình huống nào cũng có thể kiểm soát được, trong trường 
hợp đó thì người tiêu dùng có thể sẽ không theo quá trình đưa ra quyết định 
mua sắm thông thường của họ. Ví dụ, nếu một người cần một sản phẩm ngay 
lúc đó nhưng cửa hàng lại không tích trữ sản phẩm của thương hiệu họ hay 
mua, khách hàng sẽ có thể chọn sản phẩm của đối thủ.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1692 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích hàng vi khách hàng phần cuối, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phân tích hàng vi khách 
hàng phần cuối 
 Tình huống mua sắm 
Một quyết định mua sắm có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tình huống mà 
người ta tìm thấy chính họ. Tổng quát, một tình huống là hoàn cảnh mà một 
người phải đối mặt khi đưa ra quyết định mua sắm, chẳng hạn như bản chất 
của môi trường vật chất, trạng thái cảm xúc của họ, hay sự thúc ép của thời 
gian. Không phải tình huống nào cũng có thể kiểm soát được, trong trường 
hợp đó thì người tiêu dùng có thể sẽ không theo quá trình đưa ra quyết định 
mua sắm thông thường của họ. Ví dụ, nếu một người cần một sản phẩm ngay 
lúc đó nhưng cửa hàng lại không tích trữ sản phẩm của thương hiệu họ hay 
mua, khách hàng sẽ có thể chọn sản phẩm của đối thủ. 
Các ý nghĩa marketing: 
Các chuyên gia marketing có thể tận dụng lợi thế của việc quyết định được 
đưa ra trong những tình huống không kiểm soát được bằng ít nhất hai cách. 
Thứ nhất, họ có thể sử dụng những phương pháp quảng cáo để củng cố một 
sự lựa chọn rõ ràng những sản phẩm mà khách hàng phải đối mặt trong một 
tình huống đặc biệt. Ví dụ, các dịch vụ bảo dưỡng ô tô có thể được chọn mua 
khi cam kết sẽ bảo dưỡng phương tiện nếu người sử dụng gặp vấn đề gì bất 
cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào. Thứ hai, các chuyên gia marketing có thể dùng 
các phương pháp marketing mà nỗ lực thuyết phục khách hàng rằng một tình 
huống nào đó sẽ khó có thể xảy ra nếu như họ dùng sản phẩm của công ty. 
Điều này cũng có thể thấy ở những sản phẩm tự động khi các chuyên gia 
marketing giải thích với khách hàng rằng sử dụng các sản phẩm của họ thì 
khách hàng sẽ tránh được những tổn thất không mong đợi cho phương tiện 
của mình. 
Khách hàng mua như thế nào 
Chúng ta đã vừa thảo luận về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua 
sắm của một khách hàng, bây giờ hãy đi sâu phân tích bản thân quá 
trình đó. Quá trình này được thể hiện theo thứ tự 5 bước như hình dưới 
đây: 
Nhận biết nhu cầu 
Tìm kiếm 
Đánh giá các lựa chọn 
Mua sản phẩm 
Sau khi mua sản phẩm 
Tuy nhiên, việc một người tiêu dùng có thực hiện từng bước một hay 
không còn phụ thuộc vào loại quyết định mua sắm mà họ gặp phải. 
Chẳng hạn, với những tái mua sắm thứ yếu, người tiêu dùng có thể khá 
trung thành với những sản phẩm cùng loại, do đó quyết định này là 
mang tính nếp quen hàng ngày (ví dụ mua cùng sản phẩm) và họ ít nỗ 
lực trong việc đưa ra quyết định mua sắm. Trong trường hợp thói quen 
hàng ngày, những khách hàng trung thành một nhãn hiệu có thể sẽ bỏ 
qua một vài bước trong quá trình mua sắm vì khi biết chính xác mình 
cần cái gì thì người tiêu dùng sẽ qua nhanh những bước này. Nhưng với 
những quyết định phức tạp hơn, chẳng hạn như Mua sắm Mới Trọng 
yếu, quá trình mua sắm có thể kéo dài nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều 
tháng và có thể lâu hơn. Do vậy khi đưa ra những bước này, các chuyên 
gia marketing cần nhận ra rằng tùy thuộc vào hoàn cảnh xung quanh 
việc mua sắm, tầm quan trọng của từng bước có thể khác nhau. 
1. Nhu cầu/Mong muốn/Mong ước được nhận diện 
Trong bước đầu tiên, người tiêu dùng xác định xem vì lý do nào đó anh 
ta/cô ta không hài lòng (ví dụ tình trạng thực thế được nhận thức của 
khách hàng) và muốn cải thiện tình hình của anh ta/cô ta (Thí dụ tình 
trạng khao khát được nhận thức của khách hàng). Chẳng hạn, những 
thúc đẩy bên trong, như đói hay khát, có thể nói cho người tiêu dùng biết 
rằng họ cần đến thức ăn hay đồ uống. Những yếu tố bên ngoài cũng có 
thể thúc giục những nhu cầu của khách hàng. Các chuyên gia marketing 
đặc biệt giỏi ở điểm này thông qua quảng cáo, trưng bày sản phẩm hay 
thậm chí chủ ý dùng hương thơm (thí dụ các quầy nước hoa). Ở giai 
đoạn này, quá trình ra quyết định có thể trì hoãn nếu người tiêu dùng 
không được thúc đẩy tiếp tục (xem phần Động cơ thúc đẩy ở trên). Tuy 
vậy, nếu họ có động lực bên trong thỏa mãn nhu cầu thì họ sẽ tiếp tục 
bước tiếp theo. 
2. Tìm kiếm thông tin 
Giả định người tiêu dùng được kích thích thỏa mãn nhu cầu của anh ta 
hay cô ta, họ sẽ tiến hành tìm kiếm thông tin cho những giải pháp có thể. 
Những nguồn được dùng thu nhận thông tin có thể đơn giản là những 
thông tin còn nhớ từ kinh nghiệm trước (trí nhớ) hay khách hàng có thể 
nỗ lực hết mức xác định thông tin từ những nguồn ngoài (Tìm kiếm 
internet, nói chuyện với những người khác…). Nỗ lực tìm kiếm của người 
tiêu dùng nhiều đến đâu phụ thuộc vào những yếu tố như: tầm quan 
trọng của việc thỏa mãn nhu cầu, sự quen thuộc với những giải pháp hiện 
có và khoảng thời gian có để tìm kiếm. Để thu hút người tiêu dùng đang 
trong giai đoạn tìm kiếm, các chuyên gia marketing nên nỗ lực để đảm 
bảo khách hàng có thể tìm kiếm thấy những thông tin liên quan đến sản 
phẩm của họ. Thí dụ, với những chuyên gia marketing mà khách hàng 
của họ dựa vào internet để thu thập thông tin, việc đạt được thứ hạng cao 
trong những phương tiện tìm kiếm trở thành một mục tiêu marketing 
then chốt. 
3. Đánh giá lựa chọn 
Nỗ lực tìm kiếm của người tiêu dùng có thể cho kết quả một loạt những 
phương án mà từ đó sự lựa chọn có thể được quyết định. Cần lưu ý rằng 
có thể có hai cấp độ ở giai đoạn này. Ở mức độ một người tiêu dùng có 
thể tạo ra một loạt những phương án có thể lựa chọn cho nhu cầu của họ 
(ví dụ những loại sản phẩm) trong khi ở mức độ thứ hai khách hàng có 
thể sẽ đánh giá những sản phẩm riêng biệt (các thương hiệu) cho từng 
phương án. Chẳng hạn như một người tiêu dùng muốn thay ti vi sẽ có rất 
nhiều phương án lựa chọn như ti vi plasma, LCD hay CRT. Với mỗi 
phương án lại có rất nhiều nhãn hiệu để lựa chọn. Các chuyên gia 
marketing cần phải hiểu khách hàng đánh giá những lựa chọn sản phẩm 
như thế nào và tại sao có những sản phẩm này mà không có những sản 
phẩm kia. Gần như quan trọng nhất, các chuyên gia marketing phải xác 
định những tiêu chuẩn nào khách hàng đang sử dụng cho sự lựa chọn 
những khả năng có thể và những tiêu chuẩn đó được đánh giá ra sao. 
Quay trở lại với ví dụ về ti vi ở trên, những chiến thuật marketing sẽ hiệu 
quả nhất khi những chuyên gia marketing có thể kết hợp những nỗ lực 
của họ bằng việc nhận ra lợi ích nào là quan trọng nhất với khách hàng 
khi lựa chọn phương án (chẳng hạn chất lượng hình ảnh, thương hiệu, cỡ 
màn hình…) và sau đó xác định thứ tự quan trọng của từng lợi ích. 
4. Quyết định mua 
Trong nhiều trường hợp, giải pháp người tiêu dùng chọn cũng chính là 
sản phẩm được đánh giá cao nhất. Tuy nhiên, điều đó có thể thay đổi lúc 
thực sự mua sắm. Việc mua sắm “dự tính” có thể thay đổi ngay lúc mua 
bởi nhiều nguyên nhân như: sản phẩm hết hàng, một đối thủ cạnh tranh 
đưa ra một chào hàng ngay tại thời điểm mua (chẳng hạn một người bán 
hàng đề cập đến chào hàng của đối thủ), khách hàng không đủ số tiền 
cần thiết (chẳng hạn thẻ tín dụng không hoạt động), hay những thành 
viên khác của nhóm tham khảo có cái nhìn tiêu cực của việc mua sắm (ví 
dụ bạn bè là yếu tố then chốt của việc mua sắm). Những chuyên gia 
marketing mà sản phẩm của họ hấp dẫn người tiêu dùng nhất phải đảm 
bảo rằng giao dịch diễn ra một cách suôn sẻ. Chẳng hạn, những người 
bán lẻ trên Internet phải làm việc cật lực để ngăn khách hàng của họ từ 
bỏ việc mua sắm trên mạng (ví dụ những khó khăn khi shopping trên 
mạng) bằng cách tổ chức hợp lý quá trình thanh toán. Với những chuyên 
gia marketing mà sản phẩm của họ không phải là sự lựa chọn của khách 
hàng, những nỗ lực marketing cuối có thể đáng giá như đưa ra những sự 
khích lệ đến những nhân viên của cửa hàng để họ “ca ngợi” cho sản 
phẩm của mình ở những quầy thanh toán. 
5. Đánh giá sau khi mua 
Một khi khách hàng đã mua sản phẩm, họ sẽ đối mặt với sự đánh giá 
quyết định của mình. Nếu sản phẩm không như họ mong đợi thì anh 
ta/cô ta sẽ đánh giá lại sự thỏa mãn với quyết định của mình, điều mà cực 
đoan nhất có thể xảy ra là khách hàng sẽ trả lại sản phẩm hay trong tình 
huống ít cực đoan hơn là họ vẫn giữ lại món hàng đã mua nhưng lại có 
một cái nhìn tiêu cực về nó. Những đánh giá này thường xảy ra trong 
trường hợp việc mua sắm này rất quan trọng hay tốn kém. Để giúp làm 
dễ dàng hơn mối quan tâm của người tiêu dùng về những đánh giá mua 
sắm của mình, các chuyên gia marketing cần lĩnh hội hay thậm chí 
khuyến khích khách hàng liên lạc. Những trung tâm dịch vụ khách hàng 
và những nghiên cứu thị trường tiếp theo sẽ là những công cụ hữu ích 
giúp chỉ ra những mối quan tâm của người mua.