Có nhiều yếu tố có thể tác động đến quy trình này vì ng ười mua hành 
động thông qua quyết định mua sắm. Số lượng các tác động tiềm năng 
đến hành vi của khách hàng là vô hạn. Tuy nhiên, các chuyên gia tiếp thị 
cần phải hiểu được các tác động chủ chốt. Bằng cách đó, họ có thể tạo ra 
các nỗ lực tiếp thị nhằm giành được lợi thế của các tác động này theo 
cách mà nó sẽ đáp ứng được cả người tiêu dùng lẫn chuyên gia tiếp thị.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1814 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích hành vi khách hàng phần 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phân tích hành vi khách 
hàng phần 2 
 Có nhiều yếu tố có thể tác động đến quy trình này vì người mua hành 
động thông qua quyết định mua sắm. Số lượng các tác động tiềm năng 
đến hành vi của khách hàng là vô hạn. Tuy nhiên, các chuyên gia tiếp thị 
cần phải hiểu được các tác động chủ chốt. Bằng cách đó, họ có thể tạo ra 
các nỗ lực tiếp thị nhằm giành được lợi thế của các tác động này theo 
cách mà nó sẽ đáp ứng được cả người tiêu dùng lẫn chuyên gia tiếp thị. 
Chúng tôi sẽ phân loại các tác động này thành 3 dòng: Tác động nội tại, tác 
động bên ngoài, và tiếp thị. Tuy nhiên, những ai quan tâm đến việc nghiên 
cứu nhiều hơn về hành vi mua sắm của khách hàng có thể cần đọc thêm một 
vài cuốn sách về hành vi khách hàng và như vậy họ có thể tìm ra các phương 
pháp bổ sung cho việc giải thích hành vi mua sắm của khách hàng. 
Đối với mỗi một tác động được chúng ta bàn tới, chúng ta sẽ đưa ra một mô tả 
cơ bản và đề xuất ngụ ý cho các chuyên gia tiếp thị. 
CÁC TÁC ĐỘNG NỘI TẠI 
Chúng ta bắt đầu việc xem xét các tác động đối với những quyết định mua 
sắm của khách hàng trước hết bằng việc nhìn lại mình để thấy điều gì là yếu 
tố quan trọng nhất có thể tác động đến cách thức mà chúng ta đưa ra lựa chọn. 
Phin lọc nhận thức. 
Nhận thức chính là cách thức mà chúng ta nhìn nhận bản thân cũng như thế 
giới mà chúng ta đang sống trong đó. Tuy nhiên, những gì được cất giữ bên 
trong chúng ta không phải lúc nào cũng hiện diện một cách trực tiếp. Thường 
thì trí tuệ của chúng ta hình thành từ nguồn thông tin được chắt lọc một cách 
có chủ ý hoặc trong tiềm thức qua mỗi lần trải nghiệm, còn quy trình mà 
chúng tôi nói đến chính là phin lọc giác quan. Đối với chúng ta, thì đó là thực 
tế, cho dù điều này không phải là một sự phản ánh một cách chính xác những 
gì trong thực tế. Như vậy, nhận thức chính là cách mà chúng ta lọc các tác 
nhân kích thích (ví dụ, có ai đó nói chuyện với chúng ta, việc đọc một câu 
chuyện trên báo). 
Nhận thức có một số bước sau: 
 Quảng cáo – cảm giác các tác nhân kích thích (ví dụ việc xem quảng 
cáo). 
· Sự chú ý – nỗ lực nhằm nhận biết bản chất của các tác nhân kích 
thích (ví dụ việc nhận biết rằng đó là quảng cáo). 
· Sự nhận thức – nhận thức ý nghĩa của các tác nhân tích thích (ví 
dụ, quảng cáo hài hước cho một sản phẩm cụ thể). 
· Sự duy trì – bổ sung ý nghĩa cho việc hình thành nội tại của một 
ai đó (ví dụ, sản phẩm có quảng cáo hài hước). 
Cách thức mà các bước này được thực hiện phụ thuộc vào phương pháp học 
tập của cá nhân. Bằng việc học tập, chúng ta muốn nói đến cách thức mà ai đó 
thay đổi những gì họ biết, điều có thể tác động đến cách mà họ hành động. Có 
nhiều lý thuyết về học tập, tuy nhiên, có thể nói rằng, con người ta có nhiều 
cách để thực hiện việc này. Ví dụ, một người có thể có khả năng tập trung vào 
một quảng cáo nhất định nào đó và có khả năng duy trì thông tin sau khi xem, 
trong khi nưgời khác có thể xem rất nhiều lần quảng cáo đó nhưng lại không 
nhận ra đó là gì. Người tiêu dùng cũng duy trì thông tin nếu như cá nhân anh 
ta có quan tâm sâu sắc tới các tác nhân kích thích. Nếu có nhu cầu về một 
chiếc xe hơi mới, một cá nhân sẽ có khuynh hướng tập trung vào các quảng 
cáo mới cho chiếc xe trong khi những người không có nhu cầu về xe hơi có 
thể muốn xem quảng cáo nhiều lần trước khi họ nhận ra thương hiệu của 
chiếc xe. 
Các ý nghĩa marketing: 
Những người làm marketing chi nhiều tiền cho nỗ lực tạo ra ấn tượng tích cực 
của người tiêu dùng đối với sản phẩm của họ. Nhưng rõ rằng là sự tồn tại của 
phin lọc nhận thức cho thấy rằng không dễ dàng gì để thực hiện việc này. 
Việc khách hàng thể hiện đối với sản phẩm có thể rất thách thức trong mối 
liên quan đến số lượng các thông điệp quảng cáo cạnh tranh (quảng cáo) – 
những thông điệp cố gắng thực hiện cùng một mục tiêu (nghĩa là sự hỗn loạn 
quảng cáo). Vì thế, các nhân viên marketing cần phải sáng tạo và biết sử dụng 
nhiều cách khác nhau để chuyển tải thông điệp của mình. Chỉ khi đến được 
với người tiêu dùng thì thông điệp mới có thể được coi là đủ thú vị nhằm 
giành được sự chú ý của họ (ví dụ cuộc nói chuyện về lợi ích của sản phẩm). 
Nhưng việc chú tâm tới thông điệp là chưa đủ. Đối với các nhân viên 
marketing, bước quan trọng nhất là bước tạo ra nhận thức. Vì thế, những 
người làm marketing phải tiếp tục giám sát và đáp lại nếu thông điệp của họ 
bị bóp méo. Điều này có thể thường xuyên xảy ra nhờ một phần vào hành 
động cạnh tranh (ví dụ, việc so sánh các quảng cáo). Cuối cùng, việc làm thế 
nào để người tiêu dùng đưa ra ý nghĩa tích cực đối với thông điệp mà họ nhớ 
được đòi hỏi người làm tiếp thị phải đảm bảo rằng người tiêu dùng hiểu được 
một cách chính xác cơ sở lập luận về sản phẩm. 
Kiến thức. 
Kiến thức chính là tổng lượng thông tin nhận biết được bởi con người. Đó là 
các sự kiện của thế giới mà anh ta/cô ta biết và độ sâu của kiến thức thông 
qua các trải nghiệm và trí nhớ lâu bền của cá nhân con người. 
Các ý nghĩa Marketing 
Các chuyên gia tiếp thị có thể thực hiện một nghiên cứu có thể đo lường được 
mức độ kiến thức liên quan đến sản phẩm của người tiêu dùng. Như chúng ta 
sẽ thấy dưới đây, có vẻ như các nâhn tố khác có tác động đến hành vi khách 
hàng đều được hình thành bởi những gì được biết về sản phẩm. Như vậy , các 
phương pháp phát triển nhằm kích thích người tiêu dùng tiếp nhận nhiều 
thông tin hơn (hoặc thông tin chính xác) có thể tác động tới các nhân tố khác. 
Quan điểm 
Ở khía cạnh đơn giản, quan điểm có liên quan đến những gì mà con người 
cảm thấy và tin vào điều gì đó. Nói cách khác, quan điểm có thể được phản 
ánh trong cách thức mà con người hành động dựa trên niềm tin của anh ta/cô 
ta. Một khi được hình thàn, quan điểm rất khó để thay đổi. Như vậy, nếu có 
quan điểm tiêu cực đối với một vấn đề cụ thể nào đó, người tiêu dùng sẽ nỗ 
lực để thay đổi những gì mà họ tin tưởng là trung thực. 
Các ý nghĩa marketing: 
Những người làm tiếp thị đối mặt với những người tiêu dùng – những người 
có quan điểm tiêu cực đối với sản phẩm của họ - phải làm việc để xác định 
vấn đề cốt yếu tạo nên quan điểm của người tiêu dùng, sau đó điều chỉnh các 
quyết định thực thi (ví dụ quảng cáo) trong nỗ lực thay đổi quan điểm. Đối 
với các công ty cạnh tranh nhau mạnh mẽ để sinh tồn cho tới các khách hàng 
trung thành thể hiện thái độ tích cực, chiến lược quan trọng là phải nhìn nhận 
được vì sao người tiêu dùng có cảm giác tích cực đối với sản phẩm của đối 
thủ cạnh tranh và đưa ra được các phương án xử lý vấn đề. Nói cách khác, 
một công ty có thể thử xác định vị trí khách hàng – những người có quan 
điểm tiêu cực đối với sản phẩm của đối thủ và sau đó làm gia tăng nhận thức 
trong nhóm này. 
Tính cách cá nhân 
Tính cách cá nhân của con người liên quan đến các đặc điểm cá nhân được 
nhận thức – những đặc điểm được bộc lộ một cách phù hợp, đặc biệt khi một 
đặc điểm biểu hiện trong sự hiện diện của các đặc điểm khác. Trong hầu hết 
các trường hợp, hành vi mà một người tiên đoán trong một tình huống được 
coi là tương tự với hành vi mà một người thể hiện trong tình huống khác. Như 
vậy, tích cách cá nhân là tổng các trải nghiệm thuộc cảm giác mà những 
người khác có được từ trải nghiệm (nghĩa là cách mà một người nói chuyện 
hay phản ứng). Trong khi tính cách cá nhân của một người thường được diễn 
giải bởi những người mà chúng ta tương tác, một người có cách nhìn của 
riêng mình về tính cách cá nhân của bản thân, được gọi là Khái niệm cái Tôi 
(Self Concept), đều có thể hoặc không thể trở thành điều mà những người 
khác nhìn nhận về chúng ta. 
Các ý nghĩa marketing: 
Việc sử dụng các kỹ thuật nghiên cứu nhằm nhận diện cách thức mà người 
tiêu dùng xem xét bản thân có thể mang lại cho người làm tiếp thị cách nhìn 
nhận sản phẩm và các phương án quảng bá – những điều hiển nhiên. Ví dụ, 
khi khảo sát người tiêu dùng, người làm tiếp thị có thể tạo ra chiến lược 
marketing về những mạch câu chuyện hướng tới hành vi tiêu dùng, chẳng hạn 
như các chỉ số nhân khẩu học về người tiêu dùng (tuổi tác, nghề nghiệp, thu 
nhập). Tuy nhiên, cuộc nghiên cứu chiều sâu có thể cung cấp thông tin – 
thông tin cho ta thấy người tiêu dùng mua bán sản phẩm nhằm thực thi các 
mục tiêu khái niệm cái tôi. Việc lôi cuốn các nhu cầu tểh hiện cái tôi của 
người tiêu dùng có thể giúp mở rộng thị trường – nơi sản phẩm chính là mục 
tiêu định vị. 
Phong cách sống 
Nhân tố tác động này liên quan đến cách thức mà chúng ta sống qua các hoạt 
động mình tham gia và các mối quan tâm mà chúng ta thể hiện. Xét ở khía 
cạnh đơn giản, đó là những gì chúng ta đánh giá cuộc sống. Phong cách sống 
thường được xác định bởi cách mà chúng ta sử dụng thời gian và tiền bạc. 
Ý nghĩa marketing: 
Sản phẩm và dịch vụ được mua bán nhằm hỗ trợ phong cách sống của người 
tiêu dùng. Những người làm tiếp thị phải tích cực làm việc để nghiên cứu 
cách thức mà người tiêu dùng tồn tại trong thị trường mục tiêu khi thông tin 
này là cơ bản đối với việc phát triển các sản phẩm, đề xuất các chiến lược 
quảng bá và thậm chí là xác định cách thức để phân phối các sản phẩm. Điều 
cho rằng phong cách sống trực tiếp gắn liền với hoạt động marketing sẽ được 
kiểm chứng vì chúng ta tranh luận về việc phát triển các chiến lược cho thị 
trường mục tiêu.