Phân vùng khí hậu Nam Bộ

Tóm tắt. Nam Bộ có khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo với đặc trưng là có một nền nhiệt độ cao và một chế độ mưa ẩm phong phú. Nếu như chế độ nhiệt ở Nam Bộ khá ổn định và đồng nhất trên toàn vùng thì trong chế độ mưa, ẩm lại có sự phân hóa theo mùa và theo không gian rõ rệt. Kết quả của sự phân hóa này là sự phân chia vùng khí hậu Nam Bộ thành 2 á vùng với 6 tiểu vùng khí hậu. Cụ thể là: Á vùng khí hậu Đông Nam Bộ bao gồm 3 tiểu vùng: tiểu vùng khí hậu Bình Phước, tiểu vùng khí hậu Bình Dương và tiểu vùng khí hậu Bà Rịa - Vũng Tàu; Á vùng khí hậu đồng bằng sông Cửu Long bao gồm 3 tiểu vùng: tiểu vùng khí hậu Tiền Giang, tiểu vùng khí hậu Hậu Giang và tiểu vùng khí hậu Cà Mau; Ngoài ra, ở Nam Bộ còn có 2 tiểu vùng khí hậu phụ trên các đảo là tiểu vùng khí hậu Côn Đảo và tiểu vùng khí hậu Phú Quốc.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 524 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân vùng khí hậu Nam Bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Natural Sci., 2012, Vol. 57, No. 3, pp. 166-174 PHÂN VÙNG KHÍ HẬU NAM BỘ Đặng Duy Lợi(∗) Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tôn Sơn Trường Đại học Đồng Tháp (∗)E-mail: dangduyloi1944@gmail.com Tóm tắt. Nam Bộ có khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo với đặc trưng là có một nền nhiệt độ cao và một chế độ mưa ẩm phong phú. Nếu như chế độ nhiệt ở Nam Bộ khá ổn định và đồng nhất trên toàn vùng thì trong chế độ mưa, ẩm lại có sự phân hóa theo mùa và theo không gian rõ rệt. Kết quả của sự phân hóa này là sự phân chia vùng khí hậu Nam Bộ thành 2 á vùng với 6 tiểu vùng khí hậu. Cụ thể là: Á vùng khí hậu Đông Nam Bộ bao gồm 3 tiểu vùng: tiểu vùng khí hậu Bình Phước, tiểu vùng khí hậu Bình Dương và tiểu vùng khí hậu Bà Rịa - Vũng Tàu; Á vùng khí hậu đồng bằng sông Cửu Long bao gồm 3 tiểu vùng: tiểu vùng khí hậu Tiền Giang, tiểu vùng khí hậu Hậu Giang và tiểu vùng khí hậu Cà Mau; Ngoài ra, ở Nam Bộ còn có 2 tiểu vùng khí hậu phụ trên các đảo là tiểu vùng khí hậu Côn Đảo và tiểu vùng khí hậu Phú Quốc. Từ khóa: Phân vùng, khí hậu Nam Bộ, á vùng khí hậu, tiểu vùng. 1. Mở đầu Nam Bộ nằm ở tận cùng phía Nam của Tổ quốc, khí hậu ở đây mang đầy đủ nhũng đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, mà đặc trưng là có một nền nhiệt độ cao và ít thay đổi trong năm, một chế độ mưa ẩm phong phú và phân hóa sâu sắc theo mùa [6]. Khi nghiên cứu đặc điểm khí hậu Nam Bộ, việc phân vùng khí hậu là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, nhằm khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên khí hậu của vùng phục vụ cho sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, nhất là hoạt động sản xuất nông – lâm nghiệp và giảm thiểu thiệt hại do điều kiện khí hậu bất lợi gây ra, đặc biệt trong bối cảnh có sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khí hậu, các nhà địa lí và nhiều chuyên ngành khác đều xác định Nam Bộ là một vùng khí hậu riêng biệt trong phân vùng khí hậu Việt Nam với những chỉ tiêu cụ thể của các tiêu chí nhiệt độ, mưa, bức xạ, gió [1,2,5-7]. Chưa có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu 166 Phân vùng khí hậu Nam Bộ sự phân hóa khí hậu vùng thành các đơn vị khí hậu thấp hơn trong một sơ đồ phân vùng có tính hệ thống. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Mục đích, nguyên tắc, hệ thống phân vị và chỉ tiêu phân vùng khí hậu Nam Bộ 2.1.1. Mục đích phân vùng khí hậu Nam Bộ Phân vùng khí hậu Nam Bộ nhằm mục đích: - Xây dựng một sơ đồ phân vùng khí hậu Nam Bộ dựa trên các quy luật phân hóa khí hậu của lãnh thổ. - Chỉ ra những đặc trưng khí hậu chủ yếu của từng tiểu vùng, từ đó có thể khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên khí hậu và khắc phục những biến động, thiên tai khí hậu của các địa phương nhằm mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. 2.1.2. Nguyên tắc phân vùng khí hậu Nam Bộ Phân vùng khí hậu Nam Bộ được tiến hành theo hai nguyên tắc cơ bản sau: - Nguyên tắc đồng nhất tương đối: Nguyên tắc này cho thấy, các vùng khí hậu vừa có sự đồng nhất tương đối về cấu trúc bên trong của các yếu tố khí hậu lại vừa có sự phân hóa phức tạp, thống nhất trên cơ sở một số chỉ tiêu nhất định đặc trưng cho mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố. Mặt khác, khi phân chia vùng khí hậu thành các cấp phân vị nhỏ hơn với các chỉ tiêu cụ thể để phân biệt sự khác biệt giữa chúng thì sự đồng nhất của các đơn vị này cũng chỉ là tương đối do sự phức tạp của mối quan hệ giữa các nhân tố tạo thành, trong đó ở các cấp thấp thì vai trò sự phân hóa đặc điểm của bề mặt đệm càng trở nên rõ rệt. - Nguyên tắc dị biệt : Mỗi đơn vị khí hậu khi được tiến hành phân chia có thể có sự khác biệt với hệ thống chung bởi những tính cá biệt của nó, không tìm thấy trong một hoàn cảnh khác do tác động tương hỗ giữa các nhân tố địa đới, phi địa đới và đặc điểm địa lí địa phương. Các đơn vị phân vùng đều tồn tại không lặp lại trong không gian, không có sự gián đoạn về ranh giới và gián đoạn về lãnh thổ. Mức độ dị biệt phải được phản ánh ở các cấp phân vị khác nhau. 2.1.3. Hệ thống phân vị và chỉ tiêu phân vùng khí hậu Nam Bộ Trong sơ đồ phân vùng khí hậu Việt Nam mới nhất được xuất bản trong những năm gần đây[4,10] đã được thừa nhận và sử dụng rộng rãi, khí hậu Việt Nam được chia thành 2 miền với 7 vùng khí hậu. Các tiêu chí và chỉ tiêu cụ thể của 2 miền khí hậu là: - Miền khí hậu miền Bắc có: + Biên độ nhiệt trung bình hàng năm của nhiệt độ không khí ≥ 9◦C; + Lượng bức xạ tổng cộng trung bình hàng năm 140 kcal/cm2; 167 Đặng Duy Lợi và Tôn Sơn + Số giờ nắng trung bình hàng năm 2.000 giờ. - Miền khí hậu miền Nam có: + Biên độ nhiệt trung bình hàng năm của nhiệt độ không khí < 9◦C; + Lượng bức xạ tổng cộng trung bình hàng năm > 140 kcal/cm2; + Số giờ nắng trung bình hàng năm > 2.000 giờ. Các tiêu chí và chỉ tiêu cụ thể của vùng khí hậu là: + Thời kỳ mùa mưa; + 3 tháng có lượng mưa lớn nhất. Để thực hiện việc phân vùng khí hậu Nam Bộ, chúng tôi sử dụng hệ thống phân vị gồm 3 cấp: vùng khí hậu, á vùng khí hậu và tiểu vùng khí hậu với các chỉ tiêu cụ thể. - Vùng khí hậu: Vùng khí hậu là một bộ phận của miền khí hậu, mang những đặc điểm chung của miền khí hậu về biên độ nhiệt trung bình năm, lượng bức xạ trung bình năm và số giờ nắng trung bình năm. - Á vùng khí hậu: Á vùng khí hậu là một bộ phận của vùng khí hậu, có những nét chung về đặc điểm khí hậu của miền khí hậu, đặc điểm khí hậu của vùng khí hậu, song có sự khác biệt trong chỉ số độ ẩm tuyệt đối. Trong thực tế, độ ẩm tuyệt đối ở một chừng mực nhất định đã phản ánh khá rõ rệt mối tương quan nhiệt ẩm tại mỗi địa phương. - Tiểu vùng : Tiểu vùng khí hậu là một bộ phận của á vùng khí hậu. Phân định các tiểu vùng khí hậu nhằm tách biệt các địa phương trên cùng á vùng khí hậu có sự đồng nhất tương đối về chế độ mưa, theo một hoặc cả hai trong 2 chỉ tiêu là lượng mưa trung bình năm và thời gian mùa mưa. Ranh giới giữa các tiểu vùng khí hậu được xác định theo các cấp lượng mưa. Như vậy, tiểu vùng khí hậu bao gồm những địa phương không chỉ có sự đồng nhất tương đối về chế độ nhiệt – ẩm, mà còn có sự đồng nhất về chế độ mưa (lượng mưa trung bình năm và thời gian mùa mưa). 2.2. Kết quả phân vùng khí hậu Nam Bộ Trên cơ sở các nguyên tắc chung, hệ thống phân vị đã nêu với các chỉ tiêu cụ thể, chúng tôi phân chia vùng khí hậu Nam Bộ thành 2 á vùng với 6 tiểu vùng khí hậu. Ngoài ra, còn có thêm 2 tiểu vùng khí hậu phụ trên các đảo thuộc biển Đông. 2.2.1. Vùng khí hậu Nam Bộ Nam Bộ có nhiệt độ trung bình năm dao động từ 25 - 27◦C, đảm bảo cho tổng nhiệt độ năm lên tới 9.500 - 10.000◦C. Biên độ nhiệt năm ở Nam Bộ rất nhỏ, chỉ trong khoảng 3 - 4◦C. Lượng mưa trung bình năm dao động từ 1.300 - 3.000 mm và có sự phân hóa sâu sắc theo mùa [9]. Mùa mưa (từ tháng 5 - tháng 11), có lượng mưa chiếm tới 90 - 95% lượng mưa toàn năm và tập trung khoảng 90% số ngày mưa. Mùa khô (từ tháng 12 - tháng 4) có lượng mưa chỉ chiếm khoảng 10% lượng 168 Phân vùng khí hậu Nam Bộ mưa và số ngày mưa cả năm. Chế độ mưa ở Nam Bộ không chỉ có sự phân hóa rõ rệt theo thời gian mà còn có sự phân hóa mạnh mẽ theo không gian, kết quả là hình thành một số trung tâm mưa lớn bên cạnh các khu vực ít mưa, từ đó tạo nên các vùng có đặc điểm khí hậu khác nhau. Vùng khí hậu khu vực Nam Bộ, theo các tác giả của công trình phân vùng khí hậu của Tổng cục khí tượng Thủy văn [4,8] bao gồm 19 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ở khu vực phía Nam của đất nước có nền nhiệt độ cao, nóng quanh năm với nhiệt độ trung bình năm 25 - 27◦C, biên độ nhiệt < 9◦C, lượng bức xạ tổng cộng trung bình năm >140 kcal/cm2, số giờ nắng trung bình năm > 2.000 giờ; có thời gian mùa mưa từ tháng 5 - tháng 11, trong đó 3 tháng có lượng mưa lớn nhất là các tháng 8, 9, 10. Nhìn chung khí hậu Nam Bộ khá ổn định, ít chịu ảnh hưởng của bão song thường xảy ra các trận hạn hán và ảnh hưởng của mùa gió chướng. Vùng Nam Bộ (phần đất liền) được phân chia thành hai á vùng là: á vùng khí hậu Đông Nam Bộ và á vùng khí hậu đồng bằng sông Cửu Long. 2.2.2. Á vùng khí hậu Đông Nam Bộ Á vùng khí hậu Đông Nam Bộ bao gồm lãnh thổ các tỉnh miền Đông Nam Bộ là Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh và Bà Rịa - Vũng Tàu. Á vùng khí hậu Đông Nam Bộ có nhiệt độ trung bình năm khoảng 25 - 27◦C, đảm bảo cho tổng nhiệt độ năm lên tới 9.500 - 10.000◦C. Về chế độ mưa, á vùng này có lượng mưa trung bình năm dao động từ 1.300 - 2.200 mm, riêng các vùng tiếp giáp với khối núi Nam Trung Bộ lượng mưa có thể lớn hơn 2.500 mm. Số ngày mưa trung bình năm từ 100 - 160 ngày [9]. Mùa mưa diễn ra từ tháng 5 - tháng 11, chiếm tới 90 - 95% lượng mưa toàn năm và tập trung khoảng 90% số ngày mưa. Mùa khô từ tháng 12 - tháng 4, chỉ chiếm 5 - 10% lượng mưa và khoảng 10% số ngày mưa cả năm. Trị số phổ biến về độ ẩm tuyệt đối trung bình năm dưới 28,5 mb và độ ẩm tương đối trung bình năm từ 78 - 81%. Lượng bốc hơi trung bình năm từ 1.300 - 1.700 mm, riêng các vùng đất cao giáp núi có lượng bốc hơi thấp khoảng 1.100 mm [9]. Đông Nam Bộ có chỉ số ẩm ướt trung bình năm khá thấp, chỉ dao động trong khoảng từ 1 - 2,4. Đáng chú ý là ở khu vực thành phố Vũng Tàu, do có lượng bốc hơi hàng năm cao hơn so với lượng mưa nên có chỉ số ẩm ướt thấp nhất ở Nam Bộ (K < 1). Á vùng khí hậu Đông Nam Bộ có sự phân hóa mạnh mẽ theo không gian, chủ yếu là do sự khác nhau về lượng mưa hàng năm, thời gian bắt đầu và kết thúc mùa mưa. Á vùng khí hậu này được chia ra làm 3 tiểu vùng: * Tiểu vùng khí hậu Bình Phước Đây là vùng đất cao nằm ở phía Đông Bắc Đông Nam Bộ - nơi tiếp giáp với khối núi Nam Trung Bộ, chiếm một diện tích nhỏ ở phía Đông Bắc các tỉnh Bình 169 Đặng Duy Lợi và Tôn Sơn Phước và Đồng Nai. Về chế độ mưa, do chịu ảnh hưởng của địa hình núi cao đón gió nên khu vực này có lượng mưa dồi dào nhất trong đất liền Nam Bộ, lượng mưa trung bình năm đạt trên 2.500 mm (Phước Long 2.665 mm), với trên 150 ngày mưa mỗi năm [9]. Mùa mưa diễn ra từ tháng 4 - tháng 11, trong đó các tháng giữa mùa mưa (từ tháng 6 - tháng 10) có lượng mưa trung bình tháng trên 300 mm. Tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 9, lượng mưa trung bình tháng đạt trên 450 mm, với trên 20 ngày mưa. Mùa khô từ tháng 12 - tháng 3, kéo dài có 4 tháng. Tháng có lượng mưa nhỏ nhất trong năm là tháng 1, với lượng mưa trung bình tháng dưới 15 mm. Điều kiện ẩm khá phong phú, với chỉ số ẩm ướt trung bình năm K > 2. * Tiểu vùng khí hậu Bình Dương Tiểu vùng khí hậu này chiếm diện tích lớn nhất ở Đông Nam Bộ, thuộc địa phận các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh, và phần lớn diện tích các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai. Khu vực này có lượng mưa khá phong phú, lượng mưa trung bình năm dao động từ 1.600 - 2.200 mm (Biên Hòa 1.641,6 mm, Tây Ninh 1.817,2 mm, Bến Cát 2.175 mm), với số ngày mưa hàng năm dao động từ 100 - 160 ngày [9]. Mùa mưa diễn ra từ tháng 5 - tháng 11, kéo dài khoảng 7 tháng, trong đó có từ 5 - 6 tháng có lượng mưa trung bình trên 200 mm. Tháng có lượng mưa lớn nhất trong năm là tháng 9, với lượng mưa trung bình tháng đạt trên dưới 300 mm. Các tháng mùa khô (từ tháng 12 - tháng 4) là các tháng ít mưa điển hình. Tháng có lượng mưa nhỏ nhất là tháng 2, lượng mưa trung bình tháng không quá 10 mm, với khoảng 0,5 - 1 ngày mưa. Ở đây có mức độ ẩm ướt khá thấp, với chỉ số ẩm ướt trung bình năm K = 1,1 - 1,5. * Tiểu vùng khí hậu Bà Rịa - Vũng Tàu Tiểu vùng khí hậu này thuộc địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Về chế độ mưa, đây là một trong những khu vực có lượng mưa hàng năm thấp nhất Nam Bộ, lượng mưa trung bình năm chỉ đạt 1.346,8 mm, với khoảng 120 ngày mưa mỗi năm [9]. Mùa mưa diễn ra từ tháng 5 - tháng 10, kéo dài khoảng 6 tháng. Tháng có lượng mưa lớn nhất trong năm là tháng 10, lượng mưa trung bình tháng thường không vượt quá 250 mm, với khoảng 15 ngày mưa. Mùa khô từ tháng 11 - tháng 4, là thời kỳ rất ít mưa. Ở đây từ tháng 1 - tháng 3 gần như không có mưa, với lượng mưa trung bình tháng không vượt quá 1 mm. Do có nền nhiệt độ cao quanh năm và có lượng bốc hơi lớn hơn so với lượng mưa hàng năm nên tiểu vùng khí hậu này có mức độ khô hạn cao nhất Nam Bộ, chỉ số ẩm ướt trung bình năm K < 1. 2.2.3. Á vùng khí hậu đồng bằng sông Cửu Long Á vùng khí hậu này bao gồm lãnh thổ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long là Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ. 170 Phân vùng khí hậu Nam Bộ Á vùng khí hậu đồng bằng sông Cửu Long có nhiệt độ trung bình năm khoảng 26 - 27◦C, đảm bảo cho tổng nhiệt độ năm lên tới 9.500 - 10.000◦C. Về chế độ mưa, á vùng này có lượng mưa trung bình năm dao động từ 1.300 - 2.400 mm, với khoảng 100 - 170 ngày mưa [9]. Tương tự như á vùng khí hậu Đông Nam Bộ, mùa mưa ở Đồng bằng sông Cửu Long diễn ra từ tháng 5 - tháng 11, kéo dài đến 7 tháng. Mùa khô từ tháng 12 - tháng 4, kéo dài khoảng 5 tháng. Riêng các cửa ngõ đón gió mùa Tây Nam đầu tiên trong năm có mùa mưa kéo dài đến 8 tháng (từ tháng 4 - tháng 11), và mùa khô được rút ngắn xuống còn 4 tháng (từ tháng 12 - tháng 3). Trị số phổ biến về độ ẩm tuyệt đối trung bình năm dao động từ 28,5 - 30 mb và độ ẩm tương đối trung bình năm từ 79 - 84%. Lượng bốc hơi trung bình năm từ 800 - 1.300 mm, thấp ở các vùng đồng bằng ven biển và tương đối cao ở các vùng nằm cách xa biển [9]. Đồng bằng sông Cửu Long có chỉ số ẩm ướt trung bình năm khá thấp, dao động trong khoảng từ 1,1 - 2,8. Đặc biệt là ở Cà Mau, do có lượng bốc hơi hàng năm rất thấp nhưng lại có lượng mưa hàng năm cao nên ở đây có chỉ số ẩm ướt cao nhất Nam Bộ (K = 2,8). Chế độ mưa ở đồng bằng sông Cửu Long có sự phân hóa mạnh mẽ theo không gian, đặc biệt là giữa phần lãnh thổ phía Bắc và lãnh thổ phía Nam của đồng bằng. Á vùng khí hậu này được chia ra làm 3 tiểu vùng: * Tiểu vùng khí hậu Tiền Giang Tiểu vùng khí hậu này nằm ở phía Bắc của đồng bằng sông Cửu Long, trên địa bàn các tỉnh Long An, An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang và Bến Tre. Về chế độ mưa, tiểu vùng khí hậu này có lượng mưa thấp nhất ở đồng bằng sông Cửu Long, lượng mưa trung bình năm dưới 1.500 mm (Mộc Hóa 1.447,7 mm, Châu Đốc 1.416,7 mm), với khoảng 100 - 140 ngày mưa mỗi năm [9]. Mùa mưa diễn ra từ tháng 5 - tháng 11, kéo dài khoảng 7 tháng. Tuy nhiên, lượng mưa trong các tháng mùa mưa cũng không lớn lắm, toàn mùa chỉ có khoảng 2 - 3 tháng có lượng mưa trung bình trên 200 mm. Tháng có lượng mưa lớn nhất trong năm là tháng 10, với lượng mưa trung bình tháng đạt từ 250 - 300 mm. Mùa khô từ tháng 12 - tháng 4, kéo dài 5 tháng. Tháng có lượng mưa nhỏ nhất trong năm là tháng 2, với lượng mưa trung bình tháng thường không vượt quá 5 mm. Do có lượng mưa hàng năm thấp, nhưng lại có lượng bốc hơi khá cao nên tiểu vùng này là một trong những khu vực có lượng ẩm thấp nhất ở Nam Bộ, với chỉ số ẩm ướt trung bình năm K = 1,1. * Tiểu vùng khí hậu Hậu Giang Tiểu vùng khí hậu này nằm ở trung tâm của đồng bằng sông Cửu Long, trên địa bàn các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, TP. Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng và Bạc Liêu. Tiểu vùng khí hậu này có lượng mưa tương đối cao, lượng mưa trung bình năm dao động từ 1.600 - 2.000 mm (Cần Thơ 1.647,5 mm, Sóc Trăng 1.859,1 mm), với khoảng 120 - 140 ngày mưa mỗi năm [9]. Mùa mưa diễn ra từ tháng 5 - tháng 11, trong đó có từ 5 - 6 tháng có lượng mưa trung bình trên 200 mm. Tháng có 171 Đặng Duy Lợi và Tôn Sơn lượng mưa lớn nhất trong năm là tháng 10, với lượng mưa trung bình tháng khoảng 300 mm. Mùa khô từ tháng 12 - tháng 4, kéo dài 5 tháng. Tháng có lượng mưa nhỏ nhất trong năm là tháng 2, với lượng mưa trung bình tháng thường không vượt quá 5 mm, có nơi gần như không có giọt mưa nào (Càng Long 0,1 mm). Do có lượng mưa hàng năm lớn và lượng bốc hơi thấp, nên khu vực này có mức độ ẩm ướt cao hơn so với tiểu vùng khí hậu Tiền Giang, chỉ số ẩm ướt K dao động từ 1,3 - 1,9. * Tiểu vùng khí hậu Cà Mau Tiểu vùng khí hậu này thuộc địa bàn 2 tỉnh Kiên Giang và Cà Mau. Đây là khu vực có mùa mưa đến sớm và lượng mưa hàng năm lớn nhất trong đất liền đồng bằng sông Cửu Long, vì đây là một trong những cửa ngõ đón gió mùa mùa hạ đầu tiên ở Nam Bộ. Lượng mưa trung bình năm thường vượt quá 2.000 mm, với khoảng 140 - 170 ngày mưa mỗi năm [9]. Mùa mưa diễn ra từ tháng 4 - tháng 11, trong đó có khoảng 6 tháng có lượng mưa trung bình trên 200 mm. Tháng có lượng mưa lớn nhất trong năm là tháng 8, lượng mưa trung bình tháng vượt quá 300 mm, với khoảng 20 ngày mưa. Mùa khô từ tháng 12 - tháng 3, kéo dài 4 tháng. Tháng có lượng mưa nhỏ nhất trong năm là tháng 2, với lượng mưa trung bình tháng không vượt quá 10 mm. Điều đáng chú ý là do có lượng mưa hàng năm lớn, lượng bốc hơi thấp nên khu vực này có mức độ ẩm ướt cao nhất ở Nam Bộ, với chỉ số ẩm ướt K dao động từ 1,7 - 2,8. Ngoài 6 tiểu vùng khí hậu nêu trên, ở Nam Bộ còn có 2 tiểu vùng khí hậu phụ trên biển Đông và Vịnh Thái Lan. Đó là tiểu vùng khí hậu Côn Đảo và tiểu vùng khí hậu Phú Quốc. * Tiểu vùng khí hậu Côn Đảo Tiểu vùng khí hậu này có nền nhiệt độ tương đối thấp, nhiệt độ trung bình năm là 26,9◦C. Về chế độ mưa, nơi đây có lượng mưa khá phong phú, lượng mưa trung bình năm đạt 2.095,4 mm, với khoảng 150 ngày mưa mỗi năm [9]. Mùa mưa diễn ra từ tháng 5 - tháng 11, kéo dài đến 7 tháng, trong đó có đến 4 tháng có lượng mưa trung bình trên 300 mm. Tháng có lượng mưa lớn nhất trong năm là tháng 10, với lượng mưa trung bình tháng vượt quá 300 mm. Mùa khô từ tháng 12 - tháng 4, kéo dài 5 tháng. Tháng có lượng mưa nhỏ nhất trong năm là tháng 2, với lượng mưa trung bình tháng nhỏ hơn 10 mm. Độ ẩm khá phong phú, với chỉ số ẩm ướt K = 1,73. * Tiểu vùng khí hậu Phú Quốc Tiểu vùng khí hậu này có nền nhiệt độ cao hơn so với tiểu vùng khí hậu Côn Đảo, nhiệt độ trung bình năm là 27,2◦C. Về chế độ mưa, đây là cửa ngõ đón gió mùa mùa hạ đầu tiên ở nước ta nên khu vực này có lượng mưa hàng năm lớn nhất Nam Bộ, và là một trong những trung tâm mưa lớn nhất Đông Dương. Lượng mưa trung bình năm thường vượt quá 3.000 mm, với trên 160 ngày mưa mỗi năm [9]. Mùa mưa diễn ra từ tháng 4 - tháng 11, kéo dài khoảng 8 tháng. Đặc biệt, vào các tháng giữa mùa mưa (từ tháng 6 - tháng 9) có lượng mưa trung bình tháng vượt quá 400 mm. Tháng có lượng mưa lớn nhất trong năm là tháng 8, lượng mưa trung 172 Phân vùng khí hậu Nam Bộ bình trên 500 mm, với trên 20 ngày mưa. Trong các tháng mùa khô (từ tháng 12 - tháng 3), lượng mưa ít hơn hẳn các tháng mùa mưa, song cũng không giảm xuống tới mức cực đoan. Tháng có lượng mưa thấp nhất là tháng 2, lượng mưa trung bình khoảng 30 mm, với 3 - 4 ngày mưa. Khu vực này có mức độ ẩm ướt khá cao, với chỉ số ẩm ướt K = 2,52. Hình 1. Bản đồ phân vùng khí hậu Nam bộ 3. Kết luận Vùng khí hậu Nam Bộ (phần trên đất liền và đảo) là một bộ phận của miền khí hậu phía Nam, lãnh thổ có sự đồng nhất tương đối trong chế độ nhiệt nhưng lại có sự phân hóa sâu sắc trong chế độ mưa, ẩm. Vì vậy, phân vùng khí hậu Nam Bộ vừa có ý nghĩa to lớn trong việc nghiên cứu khí hậu nói chung, vừa có ý nghĩa thực tiễn trong việc đánh giá đúng tiềm năng và khai thác có hiệu quả tài nguyên khí hậu của từng địa phương, nhằm mang lại hiệu quả cao trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hạn chế những thiệt hại do sự biến đổi khí hậu gây ra. Bằng các tiêu chí và chỉ tiêu cụ thể có thể phân chia vùng khí hậu Nam Bộ thành 2 á vùng: á vùng khí hậu Đông Nam Bộ bao gồm 3 tiểu vùng khí hậu Bình Phước, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu; á vùng khí hậu đồng bằng Sông Cửu Long bao gồm 3 tiểu vùng khí hậu Tiền Giang, Hậu Giang và Cà Mau. Ngoài ra, ở Nam Bộ còn có 2 tiểu vùng khí hậu phụ trên các đảo là tiểu vùng khí hậu Côn Đảo và tiểu vùng khí hậu Phú Quốc. 173 Đặng Duy Lợi và Tôn Sơn TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Vũ Tự Lập, 2010. Địa lí tự nhiên Việt Nam. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. [2] Đặng Duy Lợi, Nguyễn Thị Kim Chương, Đặng Văn Hương, Nguyễn Thục Nhu, 2008. Địa lí tự nhiên Việt Nam , tập 1,2. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. [3] Nguyễn Đức Nghĩa,2002. Khí tượng - Thời tiết - Khí hậu. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [4] Nguyễn Đức
Tài liệu liên quan