1. Đặt vấn đề
Quan niệm của học sinh được hình thành
dần theo thời gian bởi nhiều yếu tố, nguyên
nhân khác nhau nhưng đều có đặc điểm giống
nhau, đó là: tính phổ biến, bền vững. Đa số quan
niệm này đều sai lệch với ý nghĩa, bản chất vật
lý nên gây khó khăn cho giáo viên.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của
quá trình dạy học là giúp học sinh tự nhận thức,
tự chuyển các quan niệm sai lệch (QNSL) của cá
nhân dưới sự định hướng của giáo viên thành
quan niệm khoa học đúng đắn. Điều này phù
hợp với định hướng, mục tiêu của phương pháp
dạy học (PPDH) tích cực. Để khắc phục QNSL của
học sinh, giáo viên cần lựa chọn phương pháp
dạy học phù hợp với từng bộ môn, với nhận thức
ban đầu của học sinh. Từ đó, tạo tiền đề cho các
em tự đánh giá và xây dựng lại kiến thức chính
xác về mặt khoa học. Bài viết đề cập vấn đề phát
hiện, phân tích nguyên nhân tạo nên QNSL của
học sinh và đề xuất biện pháp khắc phục.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 299 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát hiện quan niệm sai lệch và xây dựng quan niệm đúng phần cơ học Vật lí 10, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT26
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G
1. Đặt vấn đề
Quan niệm của học sinh được hình thành
dần theo thời gian bởi nhiều yếu tố, nguyên
nhân khác nhau nhưng đều có đặc điểm giống
nhau, đó là: tính phổ biến, bền vững. Đa số quan
niệm này đều sai lệch với ý nghĩa, bản chất vật
lý nên gây khó khăn cho giáo viên.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của
quá trình dạy học là giúp học sinh tự nhận thức,
tự chuyển các quan niệm sai lệch (QNSL) của cá
nhân dưới sự định hướng của giáo viên thành
quan niệm khoa học đúng đắn. Điều này phù
hợp với định hướng, mục tiêu của phương pháp
dạy học (PPDH) tích cực. Để khắc phục QNSL của
học sinh, giáo viên cần lựa chọn phương pháp
dạy học phù hợp với từng bộ môn, với nhận thức
ban đầu của học sinh. Từ đó, tạo tiền đề cho các
em tự đánh giá và xây dựng lại kiến thức chính
xác về mặt khoa học. Bài viết đề cập vấn đề phát
hiện, phân tích nguyên nhân tạo nên QNSL của
học sinh và đề xuất biện pháp khắc phục.
2. Nội dung
2.2. Quan niệm ban đầu của học sinh và
tiến trình khắc phục QNSL theo hướng sử dụng
phương pháp bàn tay nặn bột trong dạy học
Vật lý ở trung học phổ thông
2.2.1. Quan niệm sai lệch của học sinh
- Nguồn gốc của QNSL: Theo Nguyễn Đức
Thâm [3], [4] thì học sinh khi bắt đầu học Vật lý,
do kinh nghiệm đời sống đã có một số hiểu biết
nhất định về các hiện tượng vật lý. Như vậy, quan
niệm của học sinh là những hiểu biết mà học sinh
có trước giờ học. Quan niệm của học sinh về các
hiện tượng vật lý thường không đúng với bản
Phát hiện quan niệm sai lệch và xây dựng
quan niệm đúng phần cơ học Vật lí 10
ThS. VÕ ĐÌNH BẢO
Trường THPT Lý Tự Trọng, Thăng Bình, Quảng Nam
chất vật lý, bản chất khoa học vốn có của các sự
vật, hiện tượng, người ta gọi đó là những QNSL
của học sinh.
Ví dụ:
- Khi chưa học về sự truyền nhiệt, đa số
học sinh cho rằng nếu bỏ nước đá vào nước thì
nước đá sẽ truyền hơi lạnh cho nước và làm cho
nước lạnh đi.
- Khi xe tải và xe con va chạm, học sinh cứ
nghĩ rằng xe tải tác dụng lực mạnh hơn, vì nhìn
thấy xe con hư hỏng nặng hơn.
Có thể thấy, quan niệm ban đầu là những
biểu tượng ban đầu, ý kiến ban đầu của học
sinh về sự vật, hiện tượng trước khi được tìm
hiểu về bản chất của sự vật, hiện tượng ấy. Đây
là các quan niệm được hình thành trong vốn
sống của học sinh, là ý tưởng giải thích sự vật,
hiện tượng theo suy nghĩ giới hạn về nhận thức,
còn gọi là các “khái niệm ngây thơ”. Biểu tượng
ban đầu không phải là kiến thức cũ, đã học mà
là quan niệm của học sinh về sự vật, hiện tượng
mới (kiến thức mới) trước khi học kiến thức đó.
Nhìn chung, đa số các quan niệm ban đầu
của học sinh đều sai lệch so với những kiến
thức khoa học, bản chất. Mặt khác, chúng có
đặc điểm là rất bền vững, nên thường gây khó
khăn cho học sinh trong quá trình học Vật lý ở
trường phổ thông. Chướng ngại chỉ bị phá bỏ
khi học sinh tự làm thí nghiệm, tự rút ra kết luận,
đối chiếu với quan niệm ban đầu để tự đánh giá
quan niệm của mình đúng hay sai.
- Nguồn gốc quan niệm của học sinh: Quan
niệm của học sinh được hình thành do các
nguyên nhân chủ yếu sau: Thực tiễn đời sống
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT 27
S
Ố
0
6
N
Ă
M
2
0
18hàng ngày, đây chính là nguồn gốc chủ yếu hình
thành quan niệm của học sinh; Sự phong phú
của ngôn ngữ; Những kiến thức có được từ các
môn học khác, hoặc từ giờ học trước đó cũng
có thể đưa đến cho học sinh hiểu biết không
đầy đủ về một khái niệm mới.
- Một số biện pháp cơ bản trong việc khắc
phục quan niệm của học sinh: Với quan niệm
không sai lệch nhưng chưa hoàn chỉnh, giáo
viên cần tổ chức thảo luận giữa các nhóm học
sinh nhằm bổ sung các phần chưa đầy đủ, điều
chỉnh những điểm chưa chính xác để đưa ra cho
các em các kiến thức khoa học cần lĩnh hội. Với
các QNSL, một trong những biện pháp hữu hiệu
là sử dụng thí nghiệm và các phương tiện trực
quan để khắc phục.
2.2.2. Tiến trình khắc phục QNSL của học sinh
- Tạo không khí dạy học giúp học sinh tích
cực, hứng thú học tập: Giáo viên có vai trò rất
quan trọng đối với sự thành công của mỗi buổi
học, quyết định vấn đề học sinh có hào hứng, sôi
nổi tham gia xây dựng bài hay không, có hứng
thú với các vấn đề mà giáo viên truyền đạt hay
không. Từ không khí dạy học đó, học sinh sẽ tự
động điều chỉnh, đánh giá vấn đề và khẳng định
tính đúng đắn của kiến thức về mặt khoa học.
Để học sinh tích cực, hứng thú học tập,
giáo viên cần lưu ý, không áp đặt học sinh, việc
đưa ra các đánh giá quá dồn dập sẽ làm phản
tác dụng. Khi học sinh còn tâm lí sợ sệt hay lo
lắng, các em sẽ không dám thể hiện quan điểm
của mình, dẫn đến giờ học không hiệu quả. Học
sinh có thể đưa ra ý kiến phủ định, trái ngược
hoàn toàn với ý kiến của giáo viên. Điều đó
chứng tỏ học sinh rất hứng thú với tình huống
giáo viên đặt ra.
- Phát hiện quan niệm của học sinh: Bằng
kinh nghiệm sư phạm của mình, hoặc qua
khảo sát các giờ học trước, giáo viên cần dự
đoán trước QNSL của học sinh về các vấn đề
sắp nghiên cứu trong bài học để chuẩn bị thí
nghiệm cho phù hợp.
Trong tiết học, giáo viên cần khuyến khích
học sinh thể hiện ý kiến cá nhân, tạo ra các tình
huống học tập thông qua các thí nghiệm đơn
giản hoặc ví dụ thực tế. Sau đó, cho học sinh
thảo luận theo nhóm để trình bày ý kiến riêng
của mình. Từ đó, học sinh có điều kiện bộc lộ
quan niệm của bản thân, đồng thời giáo viên
có cơ hội phát hiện các quan niệm đúng lẫn các
QNSL của các em để có biện pháp khắc phục.
- Giúp học sinh tự nhận thấy được những
mâu thuẫn của các QNSL: Giáo viên tiến hành
thí nghiệm, hướng dẫn học sinh quan sát các
hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm, giúp các
em thấy được sự vô lí, mâu thuẫn của các QNSL
với những điều các em quan sát được. Đây là
giai đoạn quan trọng nhất trong tiến trình khắc
phục QNSL của học sinh. Giáo viên nên chuẩn bị
kĩ các câu hỏi, thí nghiệm cho các nhóm tham
gia thực hiện. Tăng cường đàm thoại và phối
hợp chặt chẽ, có hiệu quả hoạt động của thầy
và trò, cần khai thác các câu hỏi xuất hiện tình
huống có vấn đề.
Sau khi phát hiện ra các QNSL của học sinh,
giáo viên dùng thí nghiệm để giúp các em nhận
ra rằng những kiến thức, hiểu biết của mình trái
ngược với thực tế. Học sinh sẽ xuất hiện sự mâu
thuẫn giữa kiến thức cũ và kiến thức mới, giữa
những điều các em đã nhận định với kiến thức
khoa học. Từ đó, tính tò mò và say mê khám phá
sẽ thôi thúc các em giải quyết mâu thuẫn bằng
việc tự giác từ bỏ các QNSL và tìm ra tri thức mới
đúng đắn. Có như vậy, các QNSL của học sinh
mới được khắc phục triệt để.
2.3. Một số quan niệm sai lệch thường
gặp của học sinh, cách phát hiện và khắc phục
trong dạy học phần Cơ học Vật lí 10
Qua thực tiễn dạy học nhiều năm ở trường
THPT, quá trình tương tác với các đồng nghiệp
chúng tôi đã phát hiện, thu thập được những
quan niệm sai lệch của học sinh đồng thời,
nhóm tác giả biên soạn lại những QNSL thường
gặp nhất đã cố gắng tìm cách khắc phục quan
niệm sai lệch đó để xây dựng quan niệm đúng.
Do phạm vi bài báo có giới hạn nên nhóm tác
giả chỉ đưa ra một số QNSL tiêu biểu và cách
khắc phục:
- Quan niệm về chuyển động và đứng yên
QNSL: Chỉ có xe ô tô đang chạy trên đường
là chuyển động còn xe ôtô đỗ trong bến xe là
đứng yên.
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT28
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G Quan niệm Vật lý: Chuyển động của một
vật là sự thay đổi vị trí của vật đó so với vật khác
được chọn làm mốc.
Nguyên nhân: Do kinh nghiệm sống thực
tế, thuật ngữ chuyển động trong thực tế khác
với định nghĩa trong Vật lý.
Cách khắc phục: Sử dụng mô phỏng trực
quan bằng cách dùng hai chiếc ô tô nhựa và
cho chúng chuyển động tương đối với nhau,
cho học sinh thấy được điểm khác biệt giữa
cách hiểu “chuyển động thông thường” với định
nghĩa chuyển động trong cơ học. Giáo viên cần
sử dụng các câu hỏi như: Vật chuyển động so với
vật mốc nào? Vị trí của nó so với vật mốc đó có
thay đổi không?
- Quan niệm về độ dời và đường đi
QNSL: Độ dời chính là quãng đường vật đi
được và luôn có một giá trị xác định khác.
Quan niệm Vật lý: Độ dời là vectơ có gốc là
vị trí ban đầu, ngọn là vị trí cuối (điểm đang xét).
Nguyên nhân: Do học sinh quen với dạng
chuyển động thẳng, trong pham vi hẹp.
Cách khắc phục: Mô phỏng trực quan bằng
cách cho một vật dịch chuyển trên đường cong,
dẫn dắt học sinh đến trường hợp đặc biệt là
đường tròn khép kín (điểm đầu và điểm cuối
trùng nhau để độ dời bằng không).
- Quan niệm về vận tốc trung bình và trung
bình cộng các vận tốc
QNSL: Vận tốc trung bình bằng trung bình
cộng các vận tốc.
Quan niệm Vật lý: Vận tốc trung bình: v =
s/t (s là quãng đường vật chuyển động trong
thời gian t).
Nguyên nhân: Chủ yếu do thuật ngữ “trung
bình” được học sinh hiểu theo nghĩa thông
thường giống như cách cộng điểm trung bình
trong học tập.
Cách khắc phục: Dùng bài tập, cho học sinh
tính toán để nhận ra sự khác biệt về kết quả giữa
hai cách tính vận tốc trung bình trong Vật lý và
trung bình cộng các vận tốc.
- Quan niệm về cách vẽ đồ thị tọa độ - thời
gian của vật chuyển động thẳng đều
QNSL: Đồ thị là đường thẳng vẽ cả ở phần
âm của trục thời gian.
Quan niệm Vật lý: Là đoạn thẳng có giới hạn,
không vẽ ở phần âm của trục thời gian.
Nguyên nhân: Do học sinh khá quen với đồ
thị dạng y = ax + b đã học ở lớp 9 (không có điều
kiện x ≠ 0). Trong khi đó, phương trình tọa độ x
= xo + vt luôn kèm theo điều kiện thời gian t ≠ 0.
Cách khắc phục: Dùng bài tập, cho học sinh
vẽ hai dạng đồ thị nêu trên để thấy rõ sai lầm
cần tránh.
- Quan niệm về nguyên nhân rơi nhanh hay
chậm của các vật trong không khí
QNSL: Vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ.
Quan niệm Vật lý: Nguyên nhân của sự rơi
nhanh hay chậm là do lực cản của không khí lên
vật ít hay nhiều.
Nguyên nhân: Do kinh nghiệm sống thực
tế, học sinh thường quan sát thấy vật nặng rơi
nhanh hơn vật nhẹ.
Cách khắc phục: Dùng thí nghiệm với hai tờ
bìa và thí nghiệm với ống Niu-tơn: Cắt hai tờ bìa
giống hệt nhau (để chúng cùng khối lượng), vo
viên một tờ, tờ kia giữ nguyên rồi cùng thả rơi,
tờ đã vo viên rơi nhanh hơn. Chứng tỏ không
phải vật nặng hơn thì rơi nhanh hơn. Dùng thí
nghiệm ống Niu-tơn để loại bỏ sức cản của
không khí, khi không có sức cản của không khí,
mọi vật đều rơi như nhau.
- Quan niệm về tác dụng của lực:
QNSL: Lực là nguyên nhân gây ra chuyển
động.
Quan niệm Vật lý: Lực là nguyên nhân làm
vật thay đổi vận tốc hay làm cho vật bị biến
dạng.
Nguyên nhân: Do kinh nghiệm sống thực
tế, nếu không dùng tay đẩy một vật như chiếc
bàn chẳng hạn thì bản thân nó không thể tự
dịch chuyển được.
Cách khắc phục: Dùng thí nghiệm với máng
nghiêng Galilê và thí nghiệm chuyển động trên
đệm không khí. Thí nghiệm máng nghiêng
Galilê cho thấy, khi thôi tác dụng lực, nếu càng
giảm ma sát thì vật chuyển động được quãng
đường càng xa rồi mới dừng lại. Thí nghiệm
chuyển động trên đệm không khí cho thấy, khi
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT 29
S
Ố
0
6
N
Ă
M
2
0
18các lực tác dụng cân bằng nhau thì vật chuyển
động thẳng đều.
- Quan niệm về mối liên hệ giữa lực, khối
lượng và gia tốc trong biểu thức của định luật II
Niutơn
QNSL: Dựa vào các biểu thức: a = F/m; F =
ma và m = F/a, nhiều học sinh thường phát biểu:
“Khối lượng của một vật tỉ lệ thuận với lực tác
dụng lên nó và tỉ lệ nghịch với gia tốc của vật.
Quan niệm Vật lý: Khối lượng là đại lượng
bất biến đối với mỗi vật.
Nguyên nhân: Học sinh có thói quen suy
luận kiểu toán học thuần túy mà không chú ý
đến ý nghĩa vật lý của các đại lượng.
Cách khắc phục: Hướng dẫn cho học sinh
hiểu ý nghĩa của các đại lượng: lực, khối lượng
và gia tốc. Có thể thực hiện thí nghiệm bằng
phép cân vật để chứng tỏ khối lượng là đại
lượng bất biến.
- Quan niệm về lực tác dụng và phản lực trong
định luật III Niutơn
QNSL: Độ lớn của lực tác dụng và phản lực
không bằng nhau.
Quan niệm Vật lý: Độ lớn của lực tác dụng
và phản lực bằng nhau.
Nguyên nhân: Do kinh nghiệm sống, hầu
hết các trường hợp học sinh quan sát được về
tương tác giữa các vật đều thông qua “hậu quả”
của sự tương tác. Ví dụ: Hai xe ô tô đụng nhau,
kết quả thường là xe nhỏ hơn bị hư hại (móp
méo nhiều hơn). Từ đó học sinh cho rằng lực do
ôtô lớn tác dụng lên ôtô nhỏ sẽ lớn hơn so với
lực do ôtô nhỏ tác dụng lên ôtô lớn.
Cách khắc phục: Dùng hai lực kế kéo một
chiếc vòng nhỏ theo hai hướng ngược nhau, số
chỉ của lực kế là như nhau.
- Quan niệm về các yếu tố ảnh hưởng đến độ
lớn của lực ma sát trượt
QNSL: Độ lớn của lực ma sát trượt phụ thuộc
vào diện tích mặt tiếp xúc.
Quan niệm Vật lý: Độ lớn của lực ma sát trượt
không phụ thuộc vào diện tích mặt tiếp xúc.
Nguyên nhân: Do sự suy luận định tính sai
lầm của học sinh, học sinh thường lập luận rằng
diện tích mặt tiếp xúc càng lớn thì diện tích phần
“gồ ghề” của các mặt tiếp xúc cũng lớn, khiến
độ lớn lực ma sát càng lớn.
Cách khắc phục: Dùng thí nghiệm đo lực
ma sát trượt với cùng một vật hình khối hộp
chữ nhật, trong hai trường hợp diện tích mặt
tiếp khác nhau để đưa ra kết quả: Lực ma sát
có độ lớn như nhau.
2.4. Minh họa việc sử dụng phương pháp
bàn tay nặn bột trong quá trình phát hiện
QNSL của học sinh trong dạy học bài: ‘‘Sự rơi
tự do” (Vật lí 10)
Dưới đây, chúng tôi trình bày một phần nội
dung của bài học “Sự rơi tự do” (Vật lí 10; tr 24)
nhằm làm bộc lộ QNSL của học sinh trung học
phổ thông và đề xuất biện pháp cụ thể để khắc
phục các QNSL đó.
Nội dung: Vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ.
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu
vấn đề.
Câu hỏi: giáo viên: Thả một mẫu giấy và
một hòn đá ở một độ cao, cho học sinh quan
sát, đặt câu hỏi: Vật nặng và vật nhẹ, vật nào rơi
nhanh hơn?
Ở bước này, giáo viên làm xuất hiện tình
huống đa số học sinh sẽ có QNSL là vật nặng
chắc chắn rơi trước. Theo quan sát của học sinh
trong đời sống hằng ngày, hòn đá rơi xuống
trước. Học sinh sẽ kết luận ngay: Vật nặng rơi
nhanh hơn vật nhẹ.
Giáo viên đặt câu hỏi tiếp: Hòn đá và mẫu
giấy vật nào nặng hơn? Vật nặng luôn rơi trước
vật nhẹ, điều đó có chắc chắn không?
Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học
sinh. Giáo viên khuyến khích học sinh nêu suy
nghĩ, nhận thức ban đầu của mình khi quan sát
hiện tượng trên và cần đặc biệt chú trọng đến
các quan niệm sai của các em. Lúc này, nhiều
học sinh sẽ bộc lộ suy nghĩ không chắc chắn,
giáo viên cho các em được trình bày ý tưởng,
quan điểm của mình.
Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết
kế phương án thực nghiệm.
Câu hỏi: Em nào thiết kế một phương án thí
nghiệm kiểm chứng điều em vừa nói?
Giáo viên cho học sinh đề xuất phương án
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT30
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G thí nghiệm kiểm tra. Giáo viên có thể làm một
trong các thí nghiệm minh họa đã chuẩn bị sẵn,
khuyến khích học sinh nêu phương án và thí
nghiệm kiểm chứng.
Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi -
nghiên cứu. Cắt hai tờ bìa giống hệt nhau, vo
viên một tờ, tờ kia giữ nguyên rồi cùng thả rơi,
tờ đã vo viên rơi nhanh hơn. Chứng tỏ không
phải vật nặng hơn thì rơi nhanh hơn.
Sau khi thực hiện các thí nghiệm, giáo viên
khuyến khích học sinh tự đánh giá ý kiến của các
bạn và tự xây dựng kiến thức mới, khẳng định
tính đúng đắn của kiến thức mới.
Bước 5: Kết luận kiến thức mới. Nguyên nhân
của sự rơi nhanh hay chậm là do sức cản của
không khí lên vật ít hay nhiều. Học sinh rút ra
kết luận: Không phải các vật nặng nhẹ rơi nhanh,
chậm khác nhau mà do lực cản của không khí
làm cho vật nhẹ rơi chậm hơn vật nặng.
Để so sánh, nhóm tác giả trình bày Phương
pháp thực nghiệm khi dạy bài học “Sự rơi tự do”
(Vật lí 10; tr 24)
Bước 1: Nhận biết các sự kiện khởi đầu, phát
hiện vấn đề (nêu câu hỏi).
Câu hỏi: Giáo viên thả một mẫu giấy và
một hòn đá ở một độ cao, cho học sinh quan
sát, đặt câu hỏi: Vật nặng và vật nhẹ, vật nào rơi
nhanh hơn?
Bước 2: Xây dựng giả thuyết (câu hỏi trả
lời dự đoán).
Câu hỏi: Em nào thiết kế một phương án thí
nghiệm kiểm chứng điều em vừa nói?
Giáo viên cho học sinh đề xuất phương án
thí nghiệm kiểm tra. Giáo viên có thể đề xuất các
thí nghiệm minh họa đã chuẩn bị sẵn, khuyến
khích học sinh nêu phương án và thí nghiệm
kiểm chứng.
Bước 3: Từ giả thuyết, suy ra một hệ quả có
thể kiểm tra được trong thực tế.
Câu hỏi: Em nào thiết kế một phương án thí
nghiệm kiểm chứng điều em vừa nói?
Giáo viên cho học sinh đề xuất phương án
thí nghiệm kiểm tra. Giáo viên có thể làm một
trong các thí nghiệm minh họa đã chuẩn bị sẵn,
khuyến khích học sinh nêu phương án và thí
nghiệm kiểm chứng.
Bước 4: Bố trí thí nghiệm kiểm tra.
Cắt hai tờ bìa giống hệt nhau, vo viên một
tờ, tờ kia giữ nguyên rồi cùng thả rơi, tờ đã vo
viên rơi nhanh hơn. Chứng tỏ không phải vật
nặng hơn thì rơi nhanh hơn.
Bước 5: Kết luận.
Nguyên nhân của sự rơi nhanh hay chậm
là do sức cản của không khí lên vật ít hay nhiều.
Học sinh rút ra kết luận: Không phải các vật nặng
nhẹ rơi nhanh, chậm khác nhau mà do lực cản
của không khí làm cho vật nhẹ rơi chậm hơn
vật nặng.
Sau khi thực hiện các thí nghiệm, giáo viên
khuyến khích học sinh tự đánh giá ý kiến của các
bạn và tự xây dựng kiến thức mới, khẳng định
tính đúng đắn của kiến thức mới.
3. Kết luận
Lí luận và thực tiễn dạy học Vật lý đã cho
thấy trước, trong và sau giờ học, QNSL của học
sinh về các sự vật, hiện tượng diễn ra xung
quanh là rất nhiều. Do đó, việc phát hiện và
khắc phục những QNSL đó của học sinh nhằm
giúp các em có quan niệm đúng về bản chất
của các sự vật, hiện tượng Vật lý. Tuy vậy, vấn
đề “khắc phục QNSL của học sinh” ở các trường
trung học phổ thông hiện nay vẫn chưa thực
hiện được dễ dàng, vẫn còn những hạn chế bởi
nhiều lí do khác nhau như: tài liệu nghiên cứu,
quỹ thời gian...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Đức Thâm - Nguyễn Ngọc Hưng (1999). Tổ
chức hoạt động nhân thức của học sinh trong dạy học Vật lí ở
trường phổ thông. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[2] Nguyễn Đức Thâm - Nguyễn Ngọc Hưng - Phạm Xuân
Quế (2003). Phương pháp dạy học Vật lí ở trường phổ thông. NXB
Đại học Sư phạm.
[3] Nguyễn Văn Đồng (2010). Phương pháp giảng dạy Vật
lí ở trường trung học phổ thông. NXB Giáo dục(tái bản).
[4] Nguyễn Thế Khôi (2007). Vật lí 10. NXB Giáo dục.
[5] Nguyễn Vinh Hiển-phạm Ngọc Định-Nguyễn Thị
Thanh Hương-Trần Thanh Sơn-Nguyễn Xuân Thành. Phương
pháp “ Bàn tay nặn bột” trong dạy học các môn khoa học ở
trường tiểu học và trung học cơ sở.
[6] Nguyễn Xuân Thành (chủ biên), Nâng cao hiệu quả
sử dụng thiết bị dạy học và tài liệu bổ trợ trong phương pháp dạy
học tích cực, Tài liệu tập huấn giáo viên, Dự án giáo dục THCS
vùng khó khăn nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2011.
[7] Đỗ Hương Trà, Các kiểu tổ chức dạy học hiện đại trong
dạy học Vật lí ở trường phổ thông, NXB Đại học Sư phạm, 2011.
[8] Võ Đình Bảo, luận văn thạc sĩ Tổ chức dạy học chương “Động
lực học chất điểm” Vật lí 10 theo phương pháp dạy học nhóm
thông qua việc xây dựng và sử dụng bài tập sáng tạo”, Đại học
Sư phạm Huế, 2010