Phát huy giá trị di sản Hán Nôm trong các di tích ở đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi

Mở đầu Di sản Hán Nôm là những thư tịch, tài liệu được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa tinh thần của cộng đồng. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, di sản Hán Nôm là sợi dây liên kết giữa quá khứ và hiện tại, nơi lưu trữ những giá trị văn hóa lịch sử của dân tộc và di sản này, hiện nay vẫn còn tồn tại khá nhiều trên khắp cả nước ta, trong đó có Lý Sơn - một huyện đảo thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Theo Nguyễn Đăng Vũ trong bài viết “Bằng cấp đi Hoàng Sa thời Minh Mạng và mấy điều suy luận” có đề cập đến di sản Hán Nôm ở đảo Lý Sơn: “Trong số hàng nghìn trang tư liệu Hán Nôm mà chúng tôi sưu tập được hoặc do các dòng họ cung cấp không phải tất cả đều ghi chép về hoạt động của đội Hoàng Sa, có khi chỉ nói về việc mua bán đất đai, thuế má, lập đền miếu, gia phả, hôn nhân hoặc có khi chỉ là đơn kiện tụng, nhưng tất cả đều có giá trị. Bởi nhờ các tài liệu này mà chúng tôi hiểu hơn về lịch sử, nguồn gốc cư dân, chính sách phát triển kinh tế, xã hội, các địa danh thời trước, những lễ nghi .”.1 Tuy nhiên, theo thời gian, khối tài liệu này đang đứng trước nguy cơ thất thoát, mai một. Bài viết này, chúng tôi đề cập đến thực trạng di sản Hán Nôm ở đảo Lý Sơn và đề ra một số ý kiến nhằm bảo tồn phát huy loại hình di sản độc đáo này.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 255 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát huy giá trị di sản Hán Nôm trong các di tích ở đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
23Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên Mở đầu Di sản Hán Nôm là những thư tịch, tài liệu được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa tinh thần của cộng đồng. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, di sản Hán Nôm là sợi dây liên kết giữa quá khứ và hiện tại, nơi lưu trữ những giá trị văn hóa lịch sử của dân tộc và di sản này, hiện nay vẫn còn tồn tại khá nhiều trên khắp cả nước ta, trong đó có Lý Sơn - một huyện đảo thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Theo Nguyễn Đăng Vũ trong bài viết “Bằng cấp đi Hoàng Sa thời Minh Mạng và mấy điều suy luận” có đề cập đến di sản Hán Nôm ở đảo Lý Sơn: “Trong số hàng nghìn trang tư liệu Hán Nôm mà chúng tôi sưu tập được hoặc do các dòng họ cung cấp không phải tất cả đều ghi chép về hoạt động của đội Hoàng Sa, có khi chỉ nói về việc mua bán đất đai, thuế má, lập đền miếu, gia phả, hôn nhân hoặc có khi chỉ là đơn kiện tụng, nhưng tất cả đều có giá trị. Bởi nhờ các tài liệu này mà chúng tôi hiểu hơn về lịch sử, nguồn gốc cư dân, chính sách phát triển kinh tế, xã hội, các địa danh thời trước, những lễ nghi .”.1 Tuy nhiên, theo thời gian, khối tài liệu này đang đứng trước nguy cơ thất thoát, mai một. Bài viết này, chúng tôi đề cập đến thực trạng di sản Hán Nôm ở đảo Lý Sơn và đề ra một số ý kiến nhằm bảo tồn phát huy loại hình di sản độc đáo này. 1. Di sản Hán Nôm - nơi lưu giữ những giá trị văn hóa của dân tộc Từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, chữ Hán vào Việt Nam theo con đường giao lưu và thống trị của người Hán. Văn tự này càng trở nên phổ biến dưới thời Đông Hán, khi Sĩ Nhiếp làm Thái thú Giao Châu. PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN HÁN NÔM TRONG CÁC DI TÍCH Ở ĐẢO LÝ SƠN, QUẢNG NGÃI ? cao NGUYỄN NGọc aNH* - NGUYỄN THáI Hòa** * ThS., Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh. ** TS., Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh. Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu, “đó là thời kỳ giáo dục Hán tự ở Giao Châu khá phát triển, có ảnh hưởng khá lâu dài trong lịch sử Việt Nam”.2 Sau thế kỷ thứ X, mặc dù Việt Nam đã giành được độc lập tự chủ, thoát  khỏi ách thống trị của phong kiến phương Bắc, nhưng do hơn một ngàn năm phải chịu ách đô hộ, nên chữ Hán và tiếng Hán vẫn tiếp tục được duy trì và sử dụng như một phương tiện quan trọng để phát triển văn hóa Việt Nam.3 Còn chữ Nôm, theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Chữ Nôm (ngôn ngữ) là chữ viết cổ ghi tiếng Việt, thuộc loại hình chữ vuông, được tạo ra trên nguyên tắc và trên cơ sở của chữ Hán với cách đọc Hán - Việt. Ngôn ngữ này có thể hình thành vào thế kỷ IX, X và hoàn chỉnh dần vào các thế kỷ sau. Nó được dùng trong sáng tác văn học từ thế kỷ XIII - XV. Và đặc biệt ở thế kỷ XVIII - XIX, đã xuất hiện ngày càng nhiều tác phẩm tiêu biểu viết bằng chữ Nôm (ví dụ Truyện Kiều). Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khi chữ Quốc ngữ 24 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên được dùng phổ biến thì chữ Nôm không còn được sử dụng nữa”.4 Như vậy, chữ Nôm là một sản phẩm sáng tạo của trí tuệ người Việt trong hoàn cảnh lịch sử cuối thời Bắc thuộc, đầu thời tự chủ. Bản thân sự ra đời của nó cũng đã phản ánh một ý chí tự lực tự cường dân tộc. Được hình thành và tồn tại qua hàng ngàn năm, chữ Nôm không chỉ đóng vai trò là một công cụ giao tiếp sinh động của người Việt mà còn là phương tiện chuyển tải giá trị và những biểu đạt văn hóa, phản ánh nhân sinh quan, thế giới quan của cha ông ta trong nhiều thế kỷ.5 Ngày nay, khi bước vào các di tích, hầu như đều bắt gặp các di sản Hán Nôm. Chúng là nguồn tài liệu không chỉ chứa đựng những thông tin về di tích mà còn nhiều thông tin liên quan đến các lĩnh vực khác như kiến trúc, lịch sử, tôn giáo Cũng nhờ vào các văn bia, văn bản chữ Nôm và chữ Hán mà các nhà nghiên cứu xác định được tuổi và cả những thông tin về lịch sử hình thành hay kỹ thuật xây dựng, chế tác, niên đại xây dựng và số lần trùng tu Ngoài ra, những văn bản được lưu giữ trong các nhà thờ tộc họ như gia phả, địa bạ, văn tế còn cho chúng ta biết về quá trình di dân của dòng họ, nguồn gốc cư dân và bối cảnh lịch sử của xã hội đương thời. Đảo Lý Sơn, là nơi hiện còn lưu giữ nhiều di sản Hán Nôm, bao gồm tờ lệnh, gia phả, phổ hệ, khế ước, thuế khóa của triều đình, của quan lại địa phương, của tộc họ vẫn được truyền đời nâng niu, gìn giữ. Qua việc tìm hiểu nguồn tư liệu này, sẽ giúp chúng ta biết được nguồn gốc hình thành các làng, vạn, miếu, đền thờ, chùa... phong tục tập quán, văn hóa đặc trưng của cư dân và đặc biệt là chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo thiêng liêng của Tổ quốc - Hoàng Sa, Trường Sa. 2. Đảo Lý Sơn và các di tích tại đảo Lý Sơn Lý Sơn là một huyện đảo thuộc tỉnh Quảng Ngãi, có diện tích 9,965 km2, dân số 20.195 người, nằm cách đất liền khoảng 25 hải lý về phía đông bắc gồm một đảo lớn (Cù Lao Ré) và một đảo bé (Cù Lao Bờ Bãi).6 Theo tài liệu lịch sử, người Việt Bắc Bộ di cư vào Quảng Ngãi theo ba đợt: Đợt thứ nhất ở thời nhà Hồ vào hai châu Thăng Hoa và Tư Nghĩa năm 1402. Năm 1471, đợt di dân thứ hai vào thời vua Lê Thánh Tông. Đợt di dân thứ ba khi Nguyễn Hoàng vào Nam mở mang vùng đất phương Nam vào năm 1558. Đây là ba cuộc di dân chính do nhà nước tổ chức, ngoài ra còn có những cuộc di dân tự do của nông dân miền 25Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên Bắc ở thời Trần hay thời loạn Nam Bắc triều.7 Cư dân Việt đến khai khẩn làng mạc trên đảo Lý Sơn vào khoảng cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII. Trong Non nước xứ Quảng của Phạm Trung Việt cho rằng thời điểm khai khẩn đảo Lý Sơn của người Việt là vào năm 1604. Họ là những cư dân vùng An Hải, Sa Kỳ của huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh. Theo các cụ già kể lại, ở Lý Sơn có thờ 15 vị tiền hiền của 15 dòng họ khác nhau, được xem là những người đầu tiên đến khai phá vùng đất này. Ở phía tây đảo Lý Sơn có 7 vị tiền hiền của các dòng họ: Phạm Khắc, Phạm Văn, Võ Xuân, Võ Văn, Lê, Nguyễn, Đặng đã đến lập nên phường An Vĩnh. Tám vị tiền hiền còn lại của các dòng họ: Nguyễn, Dương, Trương, Trần, Võ, Nguyễn Đình, Nguyễn Văn, Lê đã đến khai khẩn một vùng đất rộng lớn ở phía đông đảo Lý Sơn, lập nên phường An Hải. Trải qua thời gian, không rõ vì lý do gì ở làng An Hải và An Vĩnh đều không có thờ vị tiền hiền của dòng họ Lê.8 Với đặc điểm là một hải đảo, nằm ở vị trí có khoảng cách gần quần đảo Hoàng Sa nhất so với các nơi khác nên ở Lý Sơn đã hình thành hải đội Hoàng Sa hoạt động trên biển Đông từ rất sớm. Dù đội Hoàng Sa đã chấm dứt hoạt động từ lâu, nhưng hình ảnh về những người lính trong đội Hoàng Sa xưa vẫn tồn tại bởi dấu ấn của họ còn để lại trong nhiều di tích. Tại đảo Lý Sơn, hiện nay còn rất nhiều di tích gắn liền với hoạt động của đội Hoàng Sa như: Âm Linh tự, mộ cai đội Phạm Quang Ảnh, nhà thờ tộc họ Phạm Quang, nhà thờ họ Phạm Văn, đình làng An Vĩnh Âm Linh tự nằm ở thôn Tây xã An Vĩnh, là nơi phối thờ linh vị của người đi lính Hoàng Sa và các vị thần khác. Âm Linh tự được xây dựng vào giữa thế kỷ XVII, thời các chúa Nguyễn. Âm Linh tự có kiến trúc theo hình chữ công: chính giữa là nhà thờ chính, phía đông là nơi nhà hội và nơi nấu ăn khi cúng tế, phía tây là nơi thờ thần. Mặt trước sân Âm Linh tự là tháp thờ ghi 4 chữ Hán: “Chiến sĩ trận vong”, nhằm tưởng nhớ những người lính đã hi sinh khi bảo vệ đảo Hoàng Sa. Vào ngày 16.3 âm lịch hàng năm, ở Âm Linh tự tổ chức tế lính Hoàng Sa và những người bỏ mạng trên biển. Nhà thờ tộc họ Phạm Quang ở thôn Đông, xã An Vĩnh, còn lưu giữ các tài liệu, gia phả bằng chữ Hán có liên quan đến cai đội Phạm Quang Ảnh và những người trong tộc họ đi lính Hoàng Sa... Theo nhiều tài liệu lịch sử, vào tháng Giêng năm Ất Hợi (1815), vua Gia Long sai Phạm Quang Ảnh đi Hoàng Sa để đo đạc thủy trình. Trong gia phả của tộc họ Phạm Quang còn đề cập đến cai đội Phạm Văn Nguyên. Đến năm Ất Mùi (1835), vua Minh Mạng đã phái Cai đội Thủy quân Phạm Văn Nguyên đem lính và giám thành cùng các phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, chuyên chở vật liệu ra dựng miếu và dựng bia đá trên đảo Hoàng Sa. Nhà thờ họ Phạm Văn ở thôn Đông, xã An Vĩnh, còn lưu giữ bài vị Phạm Hữu Nhật và mộ Thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật. Đình làng An Vĩnh, nơi lính Hoàng Sa tế thần trước khi xuất quân. Sau chiến tranh, đình làng An Vĩnh đã bị hư hại nhiều, chỉ còn lại nền đất. Đầu năm 2010, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi đã có dự án khôi phục đình làng An Vĩnh, đến ngày 16 tháng 4 năm 2010 dự án đã hoàn thành. Ngoài ra, trên đảo Lý Sơn có nhiều di tích khác như: Dinh Bà Thiên Y A Na, các lăng thờ cá Ông ở mỗi xóm, chùa Hang Tại những di tích này, tư liệu Hán Nôm cũng rất phong phú. 3. Thực trạng di sản Hán Nôm ở Lý Sơn Di sản Hán Nôm gắn liền với sự hình thành và phát triển của các di tích lịch sử văn hóa. Theo thống kê bước đầu của chúng tôi qua các đợt khảo sát9 cũng như qua các công trình nghiên cứu về Lý Sơn của những người đi trước, thì số lượng di sản Hán Nôm ở Lý Sơn còn lại chủ yếu bao gồm: tờ lệnh, hoành phi, câu đối, gia phả, văn tế, địa bạ và hương ước. Tờ lệnh: Được lưu giữ ở các họ tộc: Võ Văn, Phạm Quang, Phạm Văn, Đặng, Nguyễn. Nội dung về việc cử người đi Hoàng Sa để làm nhiệm vụ đo đạc thủy trình, tìm kiếm sản vật, bảo vệ lãnh thổ. Đây là một tư liệu vô cùng quý giá không chỉ với họ tộc mà còn có ý nghĩa trong việc khẳng định chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Ngày 9.4.2009, tộc họ Đặng ở thôn Đồng Hộ, xã An Hải, huyện Lý Sơn đã hiến tặng tư liệu này cho nhà nước. Đó là tư liệu cổ, được viết bằng chữ Hán, do gia tộc họ Đặng truyền đời lưu giữ suốt 175 năm qua. “Tài liệu gồm 4 trang giấy dó, khổ 24 x 35,5 cm, tương đối còn nguyên vẹn. Nội dung chính của tài liệu nêu rõ: Việc tỉnh Quảng Ngãi được lệnh của Bộ Binh và triều đình quyết định cử binh thuyền đi Hoàng Sa thi hành việc công. Binh thuyền gồm 3 chiếc, mỗi chiếc 8 thủy thủ, tổng cộng có 24 thủy thủ. Các ông Võ Văn Hùng lo việc tuyển chọn ngư dân giỏi, có nhiều kinh nghiệm đi biển và thông hiểu biển cả; Đặng Văn Siểm làm đà 26 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên công cùng 8 người khác (đều có tên và quê quán ở trang cuối). Tài liệu cổ trên được ban hành ngày 15 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 15 (tức năm Giáp Ngọ - 1834). Người thừa hành là Đặng Văn Siểm và Dương Văn Định. Trên văn bản có nhiều dấu ấn. Ngoài dấu ấn của quan Bố Chánh sứ và quan Án sát Quảng Ngãi, cùng nhiều dấu ấn nhỏ đóng nơi ghi tên người và những chữ cần lưu ý đối với người tiếp nhận văn bản. Tư liệu quý giá này sở dĩ vẫn còn nguyên vẹn suốt 175 năm qua là nhờ được làm bằng chất liệu giấy dó, viết bằng mực tàu, đựng trong hộp gỗ làm từ một loại gỗ quý chịu đựng được sự khắc nghiệt của khí hậu hải đảo, và nhất là sự bảo quản, giữ gìn hết sức cẩn thận của tộc họ Đặng. Theo quy định của tộc họ Đặng, từ 20 đến 30 năm gia tộc họ Đặng mới được mở hộp gỗ một lần để cho con cháu được nhìn thấy báu vật này trong dịp tế xuân vào tháng 2 âm lịch”.10 Văn tế: Văn tế trong các di tích ở Lý Sơn cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể. Hiện nay, hầu như ở đình làng, nhà thờ tộc họ, âm linh tự đều còn lưu giữ văn tế. Địa bạ: Là loại sổ ghi chép, thống kê về ruộng đất của các làng, xã trên cơ sở sự khám đạc và xác nhận của chính quyền. Mục đích lập địa bạ là để quản lý ruộng đất, thu tô thuế, vạch định ranh giới giữa các đơn vị hành chính và tránh sự tranh chấp ruộng đất. Vua Minh Mệnh đã từng nhấn mạnh việc lập Địa bạ là để “vạch rõ bờ cõi cho hết mối tranh giành”.11 Theo chúng tôi được biết, ở nhà thờ họ Nguyễn Quang ở thôn Tây, An Hải, nhà thờ họ Võ Văn ở thôn Tây An Vĩnh và các nhà thờ tiền hiền khác vẫn còn lưu giữ nguồn tư liệu này. Gia phả: Là bản ghi chép tên họ, tuổi tác, ngày giỗ, vai trò và công đức của cha mẹ, ông bà, tiên tổ và mộ phần của một gia đình lớn hay một dòng họ. Trước đây, các nhà thờ tộc họ ở Lý Sơn đều có gia phả viết bằng chữ Hán Nôm, tuy nhiên hiện nay, chỉ có nhà thờ họ Võ Văn là còn lưu giữ, còn các tộc họ khác đều viết lại bằng chữ Quốc ngữ. Hoành phi, liễn đối: Chữ trên hoành phi thường ngắn gọn, súc tích, chủ yếu nhằm ghi nhận dấu vết, tên tuổi, đặc điểm nổi bật và công trạng của các vị thần gắn bó với nguồn gốc lịch sử của những nơi thờ phụng.12 Hầu hết các hoành phi, liễn đối được sắp đặt ở những vị trí chính diện và trang trọng nhất trong các đình, chùa, miếu, lăng. Dinh Bà Thiên Y A Na ở thôn Đông, xã An Hải có các câu đối như sau: - “Thần minh phổ tế hộ an dân Linh trấn kim đài cư thưởng cảnh”. Tạm dịch: Thần cứu giúp và bảo hộ dân được bình an rộng khắp Linh thiêng cõi trần ở nơi đài vàng cảnh đẹp. 27Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên - “An hội thanh tâm duy đức thạnh Bảo phò xích tử hiển thần oai”. Tạm dịch: An bình với tấm lòng sáng chỉ có đức hạnh Che chở cho dân hiển bày oai dũng của thần. Hay câu đối trước án thờ ở Âm linh tự: “Địa nhựt tịch, dân nhựt phiên, bạt hải lư vong vòng lợi lạc. Sơn như lệ, hà như đới, thiên thu miếu mộ dũng thần côn” Tạm dịch: Đất mỗi ngày mỗi mở rộng ra, dân mỗi ngày mỗi đông thêm, vượt qua biển rộng đều sống đời lợi lạc Núi như đá mài, sông như đai áo, ngàn năm miếu mộ còn rực rỡ cái oai dũng của thần. Bài vị: Là những tấm thẻ ghi tên tuổi và chức vị của người được thờ tự. Bài vị khắc tên và chức vụ của các thần, các vị tiền hiền hậu hiền, Ở Lý Sơn còn lưu giữ nhiều bài vị khắc tên của những người từng đi lính Hoàng Sa như bài vị của cai đội Phạm Quang Ảnh, Phạm Hữu Nhật, Võ Văn Khiết Tại dinh thờ Thiên Y A Na, trước tượng Bà có linh vị khắc chữ Hán với những mỹ từ: “Sắc hoằng huệ phổ tuế linh mặc tướng trang uy dực bảo trung hưng Thiên Y A Na diễn ngọc phi thượng đẳng thần, tả linh châu thái tử thần tướng, hải linh bảo thái tử thần tướng”.13 Hương ước: Để quản lý các thành viên, trong làng đã xây dựng hương ước làng, mọi người đều phải tuân theo với ý nghĩa “Phép vua thua lệ làng”. Hương ước là bản ghi chép các điều lệ liên quan đến tổ chức xã hội cũng như đời sống xã hội trong làng, các điều lệ hình thành dần trong lịch sử, được điều chỉnh và bổ sung mỗi khi cần thiết. Hiện nay, ở đình làng An Hải và An Vĩnh còn lưu giữ hương ước bằng chữ Nôm. Sắc phong: “Sắc phong là nguồn tư liệu có giá trị về nhiều phương diện: lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng. Nó bao gồm sắc phong chức tước cho quý tộc, quan chức của các vương triều và sắc phong thần do nhà vua phong tặng và xếp hạng cho các vị thần được thờ phụng trong các đình, đền, miếu”.14 Qua sắc phong có thể thấy được thái độ chính trị, khuynh hướng tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa của cả triều đại. Trước đây, ở Lý Sơn có sắc phong ở đình làng An Hải, An Vĩnh, lăng cá Ông nhưng hiện nay, các sắc phong đều không còn. Tóm lại, thông qua các loại hình kể trên, để thấy rằng ở Lý Sơn hiện nay, vẫn còn lưu giữ nhiều di sản Hán Nôm rất có giá trị. Tuy nhiên, trong số đó, có lẽ chỉ có những tờ lệnh là được phiên âm, dịch nghĩa và phổ biến rộng rãi hơn cả, còn lại là chưa được quan tâm, hoặc nếu có, thì cũng chỉ riêng lẻ, dưới góc độ khai thác tư liệu nhằm phục vụ cho các bài viết nghiên cứu, tham luận hoặc kiểm chứng tư liệu lịch sử có liên quan Vì vậy mà những di sản này, vẫn chưa phát huy được giá trị của nó và ngày càng đối diện với nguy cơ hư hỏng, hao hụt bởi thời gian. 4. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản Hán Nôm trong các di tích “Theo thống kê của Hội Bảo tồn di sản Hán Nôm Việt Nam thì ngày nay, trên thế giới chưa đến 100 người đọc được chữ Nôm. Riêng phần chữ Hán, tuy có nhiều người biết đọc và dịch hơn nhưng cũng không phổ biến trong đời sống. Điều đó khiến một phần quan trọng của lịch sử và văn hóa Việt Nam không được người dân biết đến”.15 28 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên Lý Sơn có rất nhiều đình, chùa, miếu, đền và nhà thờ họ còn lưu giữ tài liệu Hán Nôm, nhưng người đọc được hầu như rất ít. Nhiều nguồn tư liệu Hán Nôm đã bị mất do rất nhiều nguyên nhân như chiến tranh, khí hậu và một số chính sách mà chưa kịp phiên âm, dịch nghĩa hoặc sao chép. Nhiều di tích như đình làng An Vĩnh, An Hải, lăng cá Ông, đã bị hủy hoại. Sau này, mặc dù nhà nước có chính sách khôi phục, nhưng các hiện vật, sắc phong, hoành phi, câu đối gắn liền với di tích còn lại cũng không nhiều... Vì vậy, để bảo tồn và phát huy giá trị di sản Hán Nôm ở đảo Lý Sơn, chúng tôi xin được đề xuất một số biện pháp như sau: Cần tiến hành nghiên cứu, thống kê chi tiết các loại hình di sản Hán Nôm trong di tích cũng như trong dân gian. Trên cơ sở đó, tiến hành đánh giá, phân loại những loại hình có nguy cơ mai một, hư hỏng để có những biện pháp bảo quản hiệu quả nhất. Đồng thời qua đó, hướng dẫn cho người dân - chủ sở hữu di sản Hán Nôm, những biện pháp bảo quản cơ bản nhằm hạn chế tình trạng hư hỏng của di sản trước sự tác động của thiên nhiên và con người. Những tư liệu Hán Nôm như gia phả, văn tế, hương ước của làng xã, họ tộc là không thể hiến tặng, mua bán. Ngay cả việc tiếp cận cũng rất khó, vì những di sản này thường để trong tráp rồi khóa lại, chỉ đến ngày vía thần tại đền miếu với đầy đủ các thành phần trong ban quý tế mới được mở ra. Do vậy, cần tạo dựng quan hệ, niềm tin và một tinh thần trách nhiệm vì cộng đồng để người dân có thể cho phép sao chụp, ghi chép lại các di sản. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc bảo tồn các di sản Hán Nôm, cụ thể là tư liệu hóa, số hóa các di sản này theo chuẩn Dublin Core.16 Bên cạnh đó, cần biên dịch toàn bộ tư liệu Hán Nôm hiện có ra chữ Quốc ngữ, đưa lên mạng internet để nhiều người có thể truy cập, tìm hiểu, nghiên cứu, nhất là giới trẻ nhằm nâng cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Có chính sách đào tạo, khuyến khích những người làm công tác quản lý, nghiên cứu, sưu tầm văn hóa Hán Nôm. Đặc biệt là đội ngũ làm công tác bảo tồn - bảo tàng cần được trang bị một trình độ nhất định, để khi tiếp xúc với tư liệu Hán Nôm, có thể đọc và hiểu được nội dung và giá trị của di sản này. Xã hội hóa hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị của di sản Hán Nôm thông qua việc kêu gọi và khuyến khích người dân cùng tham gia như: có ý thức trong việc giữ gìn và phổ biến di sản; hiến tặng hoặc cho phép sao chụp, nhằm làm phong phú thêm kho tàng di sản Hán Nôm của Lý Sơn - Quảng Ngãi nói riêng và cả nước nói chung; cung cấp những thông tin có liên quan đến di sản hoặc tham gia biên dịch, diễn giải các di sản Hán Nôm Tổ chức trưng bày, giới thiệu các loại hình di sản Hán Nôm ở Lý Sơn đến với đông đảo quần chúng nhân dân trên đảo cũng như du khách, giúp họ hiểu, trân quý và tự hào hơn về những di sản của cha ông. Kết hợp với phòng Giáo dục và Đào tạo xây dựng chương trình giáo dục về lịch sử và văn hóa của địa phương, đặc biệt thông qua các tờ lệnh và nhiều tài liệu Hán Nôm khác, để nhấn mạnh đến vai trò của người dân Lý Sơn qua các thời kỳ đã góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước. Ngoài ra, chương trình còn đưa các em học sinh đến tham quan tại các di tích và diễn giải về nội dung, ý nghĩa, giá trị của di sản Hán Nôm. Cần khuyến khích, ưu tiên đầu tư kinh phí cho những đề tài nghiên cứu về di sản Hán Nôm, đặc biệt là những đề tài Hán Nôm có liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Kết luận Di sản Hán Nôm ở Lý Sơn là nguồn tài liệu vô cùng quý giá. Nhưng di sản ấy đang ngày càng bị đe dọa bởi nhiều nguyên nhân. Vì thế, cần ý thức rằng, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản Hán Nôm cũng chính là bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc. 29Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên cHÚ THÍcH 1 Nguyễn Đăng Vũ, “Bằng chứng đi Hoàng Sa thời Minh
Tài liệu liên quan