1. Nhà trường đại học trong bối cảnh chung của đất nước và thời đại.
Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, chưa bao giờ việc nâng cao chất lượng
toàn diện con người lại trở nên bức xúc như hiện nay. Sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước muốn thực hiện có kết quả một phần quan trọng phụ
thuộc vào chất lượng của các thế hệ lao động được giáo dục, đào tạo một cách
chính quy có hệ thống.
Bước sang thế kỷ XXI nhân loại tiến vào một nền văn minh mới – nền
văn minh trí tuệ, hậu công nghiệp, một “xã hội thông tin”, một “xã hội học
tập”, ở đó chứa đựng những vận hội lớn về chính trị và sự phục hưng lớn về
văn hoá. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ ở giai đoạn mới, thể hiện ở làn
sóng vĩ đại của sự đổi mới công nghệ, nó đang từng ngày, từng giờ xâm nhập
vào đời sống xã hội con người về mọi mặt, từ kinh tế đến văn hoá. Do đó, đời
sống xã hội của mỗi quốc gia cũng phải được tổ chức lại một cách cơ bản. sự
tiến bộ của xã hội không thể chỉ đo bằng sự phát triển công nghệ hoặc mức
sống vật chất, mà phải bằng cả đạo đức, thẩm mỹ, chính trị, môi trường, bằng
sự đa dạng của các giá trị văn hoá. Điều đó đòi hỏi có một cuộc cách mạng về
giáo dục và đào tạo theo hướng nâng cao, phát huy tiềm năng và làm giàu thêm
kiến thức mới cho sự phát triển con người và phát triển xã hội.
Nền kinh tế thị trường đang trở thành một không gian mang tính toàn
cầu. Trong bối cảnh chung đó, Việt Nam chuyển mình hội nhập là biểu hiện
của sự phát triển tất yếu. Giai đoạn mới hiện nay chứa đựng những yếu tố mà
ành hưởng của nó đến đời sống con người vừa tích cực vừa tiêu cực. Đặc biệt
trong lĩnh vực văn hoá giáo dục, nhất là giáo dục đại học, chúng ta có nhiều cơ
hội để tìm hiểu, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, học tập cho cả đội ngũ giảng
viên, sinh viên với nhiều nước có chế độ chính trị khác nhau, có nền văn hoá đa
dạng, phong phú. Những thông tin nhiều chiều, nhiều cạnh thông qua các kênh
khác nhau là nguồn kiến thức quý báu giúp cho sinh viên của chúng ta thêm
nhiều hiểu biết. Do đó, chúng ta dễ nhận thấy người học bây giờ thông minh
hơn, nhanh nhẹn hơn, linh hoạt hơn, mạnh dạn hơn. Không khí dân chủ hoá
trong đời sống xã hội, trong nhà trường ngày càng cởi mở phát triển. Bên cạnh
những mặt tích cực đó, nền kinh tế thị trường không tránh khỏi những mặt tiêu
cực đang hàng ngày, hàng giờ len lỏi vào thế hệ trẻ cả trong nhận thức, tình
cảm và hành vi, các em dễ bị lôi kéo, bị kích động. Do đó xuất hiện một bộ
phận có thói quen ỉ lại, thích hưởng thụ, lười học tập và lao động .v.v
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 263 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát huy khả năng tự đào tạo của sinh viên để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 25
PHÁT HUY KHẢ NĂNG TỰ ĐÀO TẠO CỦA SINH VIÊN 
ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC 
TRONG NHÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC. 
 Hà Thị Mai 
 Đại học Đà Lạt 
1. Nhà trường đại học trong bối cảnh chung của đất nước và thời đại. 
Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, chưa bao giờ việc nâng cao chất lượng 
toàn diện con người lại trở nên bức xúc như hiện nay. Sự nghiệp công nghiệp 
hoá, hiện đại hoá đất nước muốn thực hiện có kết quả một phần quan trọng phụ 
thuộc vào chất lượng của các thế hệ lao động được giáo dục, đào tạo một cách 
chính quy có hệ thống. 
Bước sang thế kỷ XXI nhân loại tiến vào một nền văn minh mới – nền 
văn minh trí tuệ, hậu công nghiệp, một “xã hội thông tin”, một “xã hội học 
tập”, ở đó chứa đựng những vận hội lớn về chính trị và sự phục hưng lớn về 
văn hoá. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ ở giai đoạn mới, thể hiện ở làn 
sóng vĩ đại của sự đổi mới công nghệ, nó đang từng ngày, từng giờ xâm nhập 
vào đời sống xã hội con người về mọi mặt, từ kinh tế đến văn hoá. Do đó, đời 
sống xã hội của mỗi quốc gia cũng phải được tổ chức lại một cách cơ bản. sự 
tiến bộ của xã hội không thể chỉ đo bằng sự phát triển công nghệ hoặc mức 
sống vật chất, mà phải bằng cả đạo đức, thẩm mỹ, chính trị, môi trường, bằng 
sự đa dạng của các giá trị văn hoá. Điều đó đòi hỏi có một cuộc cách mạng về 
giáo dục và đào tạo theo hướng nâng cao, phát huy tiềm năng và làm giàu thêm 
kiến thức mới cho sự phát triển con người và phát triển xã hội. 
Nền kinh tế thị trường đang trở thành một không gian mang tính toàn 
cầu. Trong bối cảnh chung đó, Việt Nam chuyển mình hội nhập là biểu hiện 
của sự phát triển tất yếu. Giai đoạn mới hiện nay chứa đựng những yếu tố mà 
ành hưởng của nó đến đời sống con người vừa tích cực vừa tiêu cực. Đặc biệt 
trong lĩnh vực văn hoá giáo dục, nhất là giáo dục đại học, chúng ta có nhiều cơ 
hội để tìm hiểu, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, học tập cho cả đội ngũ giảng 
viên, sinh viên với nhiều nước có chế độ chính trị khác nhau, có nền văn hoá đa 
dạng, phong phú. Những thông tin nhiều chiều, nhiều cạnh thông qua các kênh 
khác nhau là nguồn kiến thức quý báu giúp cho sinh viên của chúng ta thêm 
nhiều hiểu biết. Do đó, chúng ta dễ nhận thấy người học bây giờ thông minh 
hơn, nhanh nhẹn hơn, linh hoạt hơn, mạnh dạn hơn. Không khí dân chủ hoá 
trong đời sống xã hội, trong nhà trường ngày càng cởi mở phát triển. Bên cạnh 
những mặt tích cực đó, nền kinh tế thị trường không tránh khỏi những mặt tiêu 
cực đang hàng ngày, hàng giờ len lỏi vào thế hệ trẻ cả trong nhận thức, tình 
cảm và hành vi, các em dễ bị lôi kéo, bị kích động. Do đó xuất hiện một bộ 
phận có thói quen ỉ lại, thích hưởng thụ, lười học tập và lao động .v.v 
 26
Những yếu tố tích cực và tiêu cực như trên luôn ảnh hưởng đến nhà 
trường đại học. Do vậy, bên cạnh việc khai thác và tận dụng những yếu tố tích 
cực của xã hội thì cần phải thường xuyên ngăn ngừa và cải tạo những yếu tố 
tiêu cực, không để chúng ảnh hưởng với một phổ rộng đến nhà trường. 
Xã hội đã nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục đối với sự phát triển cá 
nhân, gia đình, cộng đồng, xã hội do đó mà “mọi con đường đều đổ về giáo 
dục”. Giáo dục đại học với mục tiêu: đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân 
tài, nâng cao dân trí cho xã hội; gánh trên vai sứ mệnh mà: “Cả dân tộc Việt 
Nam đang trông chờ vào các trường đại học; Cả xã hội đang trông chờ vào các 
trường đại học; Mọi gia đình trông chờ vào các trường đại học” - một sứ mệnh 
hết sức nặng nề. Đặc biệt, dung lượng kiến thức khoa học đưa vào nhà trường 
ngày càng nhiều, càng tăng, càng đa dạng và phong phú; thời gian để cho giảng 
viên giảng dạy, sinh viên học tập có hạn, cho nên đòi hỏi chúng ta phải có giải 
pháp hữu hiệu để tiết kiệm thời gian lao động sư phạm, giảm nhẹ cường độ lao 
động cho nhà giáo, phát huy vai trò độc lập, tự chủ, tính tự giác, tích cực cao 
nhất trong nhận thức của người học trong nhà trường đại học, từ đó nâng cao 
chất lượng đào tạo. Giải pháp đó theo chúng tôi là cải tiến phương pháp dạy 
của Thầy, học của Trò, trong đó đặc biệt chú ý đến phát huy khả năng tự đào 
tạo của sinh viên hiện nay. 
2. Cơ sở khoa học và thực tiễn của vấn đề. 
Giá trị đích thực của giáo dục, đặc biệt ở bậc đại học là làm cho người 
học biết cách học, biết nghiên cứu khoa học. Nhất là ở giai đoạn mới này, giáo 
dục đại học phải thực sự đủ khả năng đánh thức mọi tiềm năng “còn đang ngái 
ngủ” ở trong mỗi con người, để mỗi người là một đỉnh cao trí tuệ, thực sự là 
Con người – Con người mang đầy đủ ý nghĩa khoa học, triết học và mỹ học. Ở 
đó, người học xác định rõ: 
- Học để làm và làm có hiệu quả. 
- Học để biết sống làm người và chung sống với cộng đồng dân tộc, 
cộng đồng nhân loại. 
- Học để biết tự đào tạo thành con người có nhân cách, con người tự 
do, con người dân chủ 
Đó là đòi hỏi tất yếu của lịch sử và thực sự là những thách thức ghê gớm 
đối với tất cả mọi người trong xả hội, nhất là đối với sinh viên đại học. 
Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khoá VII đã chỉ 
rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ 
một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng 
các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy – học, bảo 
đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên 
đại học”. 
(Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành 
Trung ương khoá VII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, trang 41). 
 27
Xuất phát từ đặc điểm tâm lý sinh viên – Sinh viên nằm trong lứa tuổi từ 
18 đến 24,25 – gọi là thời kỳ chuyển tiếp sau tuổi thanh niên, còn gọi là “thời 
kỳ bão táp và căng thẳng”. Đây là thời kỳ năng lực trí tuệ được nâng cao, tư 
duy sâu sắc, rộng mở, đam mê, nhạy bén cao độ, thời kỳ của sự phát triển tự ý 
thức, biết tự quan sát, tự phân tích, tự kiểm tra, tự đánh giá về hành động và 
kết quả hành động của bản thân cũng như vị trí của mình trong cuộc sống. 
Về mặt xã hội, lứa tuổi sinh viên thể hiện ngày càng hiểu biết về môi 
trường xã hội rộng lớn hơn nhiều ngôi nhà nơi anh ta sống, hàng xóm láng 
giềng, ngôi trường nơi anh ta học, thể hiện sự đĩnh đạc, dám đối diện với môi 
trường xã hội ngày một rộng mở. Do đó, họ có kế hoạch riêng cho hoạt động 
của mình, độc lập trong phán đoán và hành vi, đây là thời kỳ có nhiều biến dổi 
mạnh mẽ về động cơ, về thang giá trị xã hội, thích tự quản. Họ xác định con 
đường sống cho tương lai, tích cực nắm vững tri thức nghề nghiệp và bắt đầu 
thể nghiệm mình trong mọi lĩnh vực của cuộc sống; Đặc biệt khả năng tự giáo 
dục, tính độc lập, sự sẵn sàng và luôn kỳ vọng đối với nghề nghiệp tương lai 
của sinh viên luôn được củng cố và phát triển. Đồng thời đây cũng là lứa tuổi 
bộc lộ rõ sự thiếu kinh nghiệm, thiếu hiểu biết xã hội một cách sâu sắc dẫn đến 
dễ phản ứng, mơ mộng, hành vi thái quá, hoặc là thờ ơ 
Xuất phát từ đặc điểm của nhà trường đại học hiện đại, đó là nhà trường 
của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và cách mạng xã hội trong thời đại 
ngày nay với chức năng vừa đào tạo, vừa bồi dưỡng, vừa nghiên cứu khoa học, 
vừa phổ biến khoa học và tham gia sản xuất; nội dung dạy học được hiện đại 
hoá; có cuộc cách mạng trong phương pháp đào tạo; cách thức tổ chức quản lý 
theo kiểu mới theo tinh thần dân chủ, công khai, mở rộng, liên kết và hợp tác; 
đáp ứng được ba yêu cầu: bình đẳng, chất lượng tốt và hiệu quả cao; lấy nhiệm 
vụ đào tạo nguồn nhân lực cao cấp cho xã hội làm trọng tâm, phát huy đầy đủ 
tài năng trí tuệ của dân tộc. 
Xuất phát từ bản chất của quá trình dạy học ở bậc đại học. Trong quá 
trình dạy học nói chung, dạy và học là hai hoạt động, là hai mặt của một quá 
trình luôn luôn tác động qua lại và bổ sung cho nhau, trong đó thầy - dạy đóng 
vai trò chủ đạo, trò - học phải đóng vai trò tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo. 
Riêng đối với dạy học ở nhà trường đại học với nhiệm vụ cơ bản là dạy nghề, 
dạy phương pháp và thái độ. Tức là giúp cho sinh viên nắm vững những tri 
thức, những kỹ năng và kỹ xảo tương ứng về một lĩnh vực khoa học kỹ thuật 
nhất định ở trình độ hiện đại để sau khi ra trường họ có khả năng lập nghiệp; 
giúp cho sinh viên phát triển các năng lực và phẩm chất hoạt động trí tuệ, thể 
chất, các phương pháp tự học và nghiên cứu khoa học; đồng thời góp phần bồi 
dưỡng cho sinh viên lý tưởng, niềm tin, đạo đức, thái độ, tác phong của người 
cán bộ khoa học kỹ thuật dù ở lĩnh vực nào. 
Nhu cầu xã hội đối với các chuyên gia, các cán bộ khoa học kỹ thuật - 
sản phẩm của nhà trường đại học. 
 28
Do yêu cầu phát triển của xã hội và đặc biệt là tác động của cách mạng 
khoa học công nghệ, nhu cầu của xã hội đối với đội ngũ chuyên gia, cán bộ 
khoa học kỹ thuật đã có nhiều thay đổi. Nếu như trước đây xã hội yêu cầu 
người cán bộ khoa học kỹ thuật tích luỹ càng nhiều tri thức càng tốt bằng trí 
nhớ của mình, “ai nhớ giỏi là uyên bác, là nhà bác học”; trong nhà trường, nội 
dung tri thức, cách sắp xếp, tổ chức và truyền đạt thông tin do thầy giáo quy 
định; phương pháp giảng dạy là thầy giải thích tài liệu, củng cố tài liệu, kiểm 
tra còn sinh viên tiếp nhận tài liệu, ghi nhớ chúng thì xã hội ngày nay có nhu 
cầu khác hẳn, đòi hỏi chuyên gia, cán bộ khoa học kỹ thuật trong bất cứ lĩnh 
vực nào cũng phải có kỹ năng tư duy sáng tạo, biết đặt ra những nhiệm vụ mới 
một cách độc lập, có nguyên tắc, năng động, có khả năng thích ứng với những 
điều kiện, môi trường làm việc luôn biến đổi không ngừng. 
Thời đại chúng ta đang sống là thời đại bùng nổ về thông tin, do vậy mà 
khoảng cách vốn có giữa giảng đường đại học với xã hội càng được nới rộng. 
Người sinh viên không thể chỉ trông đợi vào những tri thức mà nhà trường 
cung cấp cho họ và càng không thể xem đó như một thứ “cẩm nang” có thể 
dùng nó trong suốt cuộc đời với nghề nghiệp của mình. Bởi vì, chỉ sau một thời 
gian ngắn một bộ phận các tri thức lĩnh hội được trong nhà trường sẽ trở nên 
bất cập và hiển nhiên là sau khi họ tốt nghiệp đại học, bao nhiêu thông tin mới, 
bao nhiêu phát minh sáng chế mới sẽ ra đời và đòi hỏi họ phải biết tự chiếm 
lĩnh chúng để ít nhất là thích nghi và không bị đào thải trong cơ chế thị trường 
lao động khắc khe như hiện nay chứ chưa nói đến việc họ phải tham gia phát 
triển chúng một cách hiệu quả. 
Tất cả những vấn đề nêu trên cũng có nghĩa là đặt ra cho chúng ta suy 
nghĩ Dạy như thế nào, Học như thế nào để góp phần giải quyết được bức xúc 
về chất lượng đào tạo hiện nay. 
3. Nhà trường đại học với việc phát huy khả năng tự đào tạo của sinh viên. 
Trong bài viết này người viết không có tham vọng đề xuất giải pháp cho 
cả phương pháp dạy và phương pháp học ở bậc đại học. Một trong những quan 
điểm mới trong dạy học hiện nay đó là “Dạy học lấy học sinh làm trung tâm”, 
hay nói một cách khác “học sinh là trung tâm của hệ thống giáo dục”, tức là 
dạy học phải lấy hoạt động nhận thức của người học làm trung tâm. Ở đó, nhà 
trường và người thầy phải làm cho người học được phát triển, luôn có được 
niềm vui và hạnh phúc trong học tập. Do đó, học như thế nào cho tốt trở thành 
vấn đề mà người viết quan tâm. 
Tất nhiên, từ những cơ sở nêu ở phần trên, ngày nay quá trình đào tạo ở 
đại học ngày càng trờ nên phức tạp về nội dung, phương pháp cũng như 
phương tiện được sử dụng trong quá trình đó. Để đáp ứng yêu cầu mới của quá 
trình đào tạo đại học, sinh viên phải tự hoàn thiện về nhân cách của mình, đặc 
biệt những phẩm chất và năng lực “tự đào tạo” theo hướng “nghiên cứu phát 
triển” để trở thành những chuyên gia, những cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi, 
 29
những công dân tốt trong xã hội hiện đại. Người tốt nghiệp đại học cũng có nhu 
cầu tự hoàn thiện, nhưng giảng đường đại học phải là nơi từng bước chuẩn bị 
kỹ càng kỹ năng này cho họ. Trên cơ sở tham khảo kết quả của nhiều công 
trình nghiên cứu chúng tôi mạnh dạn nêu rõ: 
Thứ nhất là xác định mục tiêu đào tạo của nhà trường: Trên cơ sở mục 
đích của nền giáo dục quốc gia, của giáo dục đại học, các trường xác định mục 
tiêu đào tạo của trường, của từng khoa, của ngành, của môn học, của từng 
chương, từng bài học. Mục tiêu này phải được công bố cho sinh viên biết để họ 
tự vạch kế hoạch học tập và chủ động học. 
Thứ hai là thực sự áp dụng việc thiết kế chương trình (hệ thống tín chỉ) 
theo hướng tinh giản, cập nhật, phù hợp với yêu cầu hiện tại và tương lai của 
đất nước. Tức là chuyển khung chương trình đào tạo đại học từ hơn 210 đơn vị 
học trình như hiện nay thành 120 – 140 tín chỉ. 
Thứ ba là, trên cơ sở thiết kế xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo 
theo học chế tín chỉ cần thay đổi phương thức quản lý sinh viên. Đó là thay đổi 
việc quản lý sinh viên được thực hiện theo cơ chế giáo viên chủ nhiệm như 
hiện nay bằng cơ chế cố vấn học tập. Cố vấn học tập được tuyển chọn trong số 
những giảng viên am hiểu quy trình đào tạo, nắm vững chương trình đào tạo, 
có tinh thần trách nhiệm cao, có uy tín với sinh viên. Dưới sự hướng dẫn của cố 
vấn học tập, từng sinh viên sẽ lựa chọn đăng ký học những học phần thích hợp 
với năng lực và ý muốn riêng của mình vào đầu mỗi học kỳ để từ đó sinh viên 
chủ động thực sự trong quá trình đào tạo đáp ứng mục tiêu đào tạo của nhà 
trường. 
Thứ tư là việc đổi mới phương thức dạy học được tiến hành song song 
đồng bộ với việc tổ chức biên soạn tài liệu, đề cương chi tiết giáo trình môn 
học để dần rút bớt số giờ lên lớp của sinh viên trong mỗi tuần lễ sao cho xuống 
dưới hoặc bằng 20 tiết / tuần lễ, buộc sinh viên phải tăng cường năng lực tự 
học, tự nghiên cứu. Tất nhiên, việc biên chế vào lớp học theo tín chỉ này phải 
phù hợp với quy mô cho phép, số lượng không quá lớn tạo điều kiện cho Thầy 
đóng vai trò chủ đạo, Trò chủ động, tích cực, tự giác nhận thức. Trong đề 
cương chi tiết môn học ghi rõ mục tiêu, nội dung cơ bản môn học, danh mục 
các tài liệu tham khảo mà sinh viên cần đọc trước ở nhà cho mỗi buỗi lên lớp, 
thời gian tham gia thảo luận, xêmina, kiểm tra, thời gian hoàn thành các bài tập 
ở nhà. 
Thứ năm, đối với sinh viên nhất thiết phải thực hiện nhiệm vụ đọc giáo 
trình và các tài liệu được giao, được chỉ dẫn trước mỗi buổi học. Trên lớp sinh 
viên được nghe thầy bình luận, giải thích những tài liệu mà sinh viên đã đọc, 
được thầy bổ sung các thông tin khác, thông tin mới cập nhật có liên quan đến 
nội dung bài học; đồng thời sinh viên tham gia thảo luận một cách tích cực 
dưới sự chỉ dẫn của thầy. Việc nghe giảng có thể tổ chức lớp đông, việc thảo 
luận, xemina, thực tế điền dã môn học theo nhóm, lớp nhỏ. 
 30
Thứ sáu, để phối hợp nhịp nhàng, tạo nên sự tương tác, tính cộng hưởng 
trong hoạt động dạy và học của Thầy và Trò nêu trên người thầy cần chú ý đến 
vốn sống, vốn kinh nghiệm của người học đối với môn học: Cần tạo môi 
trường học tập thuận lợi cho sinh viên, thường xuyên tạo ra các tình huống dạy 
học và đưa sinh viên vào tình huống có vấn đề bằng cách sử dụng hệ thống câu 
hỏi có nghệ thuật, yêu cầu, hướng dẫn sinh viên làm bài tập nhỏ, bài tập lớn, 
tiểu luận để họ vừa huy động được vốn sống, vốn kinh nghiệm đồng thời phát 
huy khả năng độc lập, tích cực của việc tự học, tự nghiên cứu, tránh ỉ lại, luôn 
cầu cứu chờ viện trợ của Thầy. 
Thứ bảy, xác định rõ “Học như thế nào” trở thành một tiêu chí đánh giá 
người học. Trên cơ sở phương pháp học của sinh viên, việc đánh giá kết quả 
nhất thiết phải công bằng, khách quan. Cách đánh giá kết quả học tập của sinh 
viên phải được thay đổi từ chỗ chỉ đánh giá 1 lần/1 bài thi/1 học kỳ sang đánh 
giá cả quá trình học môn học của sinh viên: thảo luận nhóm, xemina, thực tập, 
thực hành (nếu có), bài tập nhỏ, bài tập lớn và bài thi kết thúc môn học 
Và điểm cuối cùng, tất nhiên việc chi trả phụ cấp cho từng loại hình 
công việc, công đoạn nêu trên phải phù hợp, xứng đáng với công sức, cường 
độ, thời gian mà người thầy đã đầu tư cho việc giảng dạy môn học theo quy chế 
tự chủ tài chính trong quyền tự chủ của nhà trường; đồng thời nhà trường cần 
tạo điều kiện hỗ trợ cho các giảng viên trong việc áp dụng các phương tiện kỹ 
thuật, công nghệ dạy học để nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học. 
Tóm lại, lòng bền, chí lớn, thích ứng, mạnh dạn, năng động, đột phá, 
sáng tạo đó là cơ sở, là nền tảng cho sự phát triển và ắt đi đến thành công! 
Tài liệu tham khảo: 
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo dục học đại học, Quyển 1 – H, 1997. 
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo dục đại học và những thách thức đầu thế kỷ 21, Hà 
Nội, 2000. 
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung 
ương khoá VII, NXB Chính trị Quốc gia, H, 1997. 
4. Lâm Quang Thiệp, Suy nghĩ về quản lý trường đại học trong thời kỳ đổi mới, Tạp 
chí Giáo dục, số 160, kỳ 1 – 4/2007.