TÓM TẮT
Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế tri thức trong thế kỉ XXI đòi hỏi nền giáo
dục phải đổi mới nội dung dạy học và phương pháp dạy học. Việc đổi mới phương pháp
dạy học ở bậc đại học phải hướng tới những phương pháp dạy học nâng cao tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập nhằm đào tạo ra những con
người năng động, độc lập trong xã hội. Tự định hướng học tập là một phương pháp dạy
học theo quan điểm hướng vào người học, tạo cho sinh viên những phẩm chất như tích
cực, chủ động, độc lập, tự tin và có định hướng mục tiêu. Hoạt động tự định hướng học tập
cũng đòi hỏi ở giảng viên năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức, quản lí để có thể hướng
dẫn sinh viên học tập đạt mục tiêu giáo dục.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 298 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát huy tính tích cực, chủ động của sinh viên qua hoạt động Tự định hướng học tập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 - Thaùng 6/2011
99
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG CỦA SINH VIÊN
QUA HOẠT ĐỘNG TỰ ĐỊNH HƯỚNG HỌC TẬP
NGUYỄN THỊ CẨM VÂN
(*)
TÓM TẮT
Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế tri thức trong thế kỉ XXI đòi hỏi nền giáo
dục phải đổi mới nội dung dạy học và phương pháp dạy học. Việc đổi mới phương pháp
dạy học ở bậc đại học phải hướng tới những phương pháp dạy học nâng cao tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập nhằm đào tạo ra những con
người năng động, độc lập trong xã hội. Tự định hướng học tập là một phương pháp dạy
học theo quan điểm hướng vào người học, tạo cho sinh viên những phẩm chất như tích
cực, chủ động, độc lập, tự tin và có định hướng mục tiêu. Hoạt động tự định hướng học tập
cũng đòi hỏi ở giảng viên năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức, quản lí để có thể hướng
dẫn sinh viên học tập đạt mục tiêu giáo dục.
ABSTRACT
The fast development of the intellectual economy in the 21st century requires the
education to reform its teaching methods and contents. The teaching reform at university
should aim at the teaching methods which enhance students’ positiveness, activeness, and
creativity in the process of studying for the purpose of training people who are self-
motivated and independent for the society. Self-oriented study is a teaching method that
focuses on leaners who need qualities such as positives, activeness, independence, self-
confidence with oriented targets. Self-oriented study requires teachers to have professional
ability, organizational skills, management so as to guide students to achieve educational
objectives.
1. MỞ ĐẦU (*)
Cùng với xu thế hội nhập, toàn cầu
hoá, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ
thông tin, sự gia tăng gấp bội của tri thức
đòi hỏi giáo dục đào tạo phải đổi mới nội
dung dạy học và phương pháp dạy học để
đào tạo những con người có đủ năng lực và
phẩm chất đáp ứng nhu cầu của thực tiễn.
Đại hội Đảng toàn quốc lần X đã nêu rõ:
“Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất
quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung,
phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ
chức, cơ chế quản lí để tạo được chuyển
biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục
()
ThS, Trường Đại học Sài Gòn.
nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục
của khu vực và thế giới.... Ưu tiên hàng
đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và
học, đổi mới phương pháp dạy và học”(1).
Bản chất của việc đổi mới phương
pháp dạy học là chuyển từ các phương
pháp truyền thụ thông tin một chiều sang
các phương pháp dạy học tích cực: tổ chức,
điều khiển để người học tự mình tìm tòi,
phát hiện và chiếm lĩnh tri thức thông qua
những hành động và thao tác của họ. Quá
trình đó diễn ra theo xu hướng tích cực hoá
hoạt động nhận thức, gia tăng tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học. Các
phương pháp dạy học tích cực định hướng
cho việc tổ chức quá trình tự học, quá trình
100
cá nhân hoá và xã hội hoá việc học. Thế
nào là phương pháp dạy học tích cực?
2. NỘI DUNG
2.1. Đặc trưng của phương pháp dạy
học tích cực
Các phương pháp dạy học tích cực
theo quan điểm dạy học định hướng từ
người học phải thể hiện các đặc trưng cơ
bản sau:
- Dạy học thông qua việc tổ chức các
hoạt động học tập:
Người học không phải được đặt trước
những kiến thức có sẵn trong sách giáo
khoa hay trong bài giảng của thầy mà được
đặt vào những tình huống của đời sống
thực tế, từ đó có nhu cầu hứng thú giải
quyết những mâu thuẫn trong nhận thức
của mình, tìm ra cái chưa biết, cái cần
khám phá. Người học trực tiếp quan sát,
thảo luận, làm thí nghiệm, đặt giả thiết, đặt
vấn đề để tìm ra kiến thức, chân lí.
- Dạy học chú trọng rèn luyện
phương pháp tự học:
Sự phát triển nhanh chóng của khoa
học kĩ thuật và công nghệ trong xã hội hiện
đại dẫn đến sự tăng nhanh của tri thức. Mặt
khác, nó cũng ngày càng dễ bị lạc hậu vì tri
thức mới có thể phủ nhận tri thức cũ. Điều
này đòi hỏi ở người lao động năng lực tự
học, năng lực làm việc độc lập, năng lực
sáng tạo, giải quyết các vấn đề phức hợp và
năng lực hợp tác làm việc để thích nghi
được với sự thay đổi của công nghệ sản
xuất, của tri thức và của kĩ năng làm việc.
Các phương pháp dạy học tích cực chú
trọng đến việc rèn luyện phương pháp tự
học hơn là việc tiếp thu tri thức một chiều.
- Tăng cường việc học tập cá thể, kết
hợp với học tập hợp tác nhóm:
Người học, chủ thể của hoạt động học,
tự học, tự nghiên cứu, tìm ra kiến thức bằng
hành động của chính mình, tức là cá nhân
hoá việc học. Tất nhiên tri thức mà người
học tự mình tìm ra dễ mang tính chủ quan,
phiến diện, thiếu khoa học. Mặt khác, trong
học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng,
thái độ đều được hình thành bằng những
hoạt động cá nhân mà còn thông qua quá
trình hoạt động phối hợp giữa các cá nhân,
giữa người học và giảng viên.
- Kết hợp sự đánh giá của thầy và sự
tự đánh giá của trò:
Việc đánh giá không chỉ nhằm mục
đích nhận định thực trạng việc học tập và
điều chỉnh hoạt động của trò mà còn tạo
điều kiện nhận định thực trạng việc giảng
dạy và điều chỉnh hoạt động của thầy.
Giảng viên hướng dẫn cho học sinh phát
triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh
cách học của mình.(2)
2.2. Về phương pháp dạy học tự định
hướng học tập
Khái niệm
Thuật ngữ “Tự định hướng học tập”
hay “Học tập tự định hướng” (tiếng Anh:
self-direct learning) được dùng để phân
biệt với học tập theo sự định hướng của
giảng viên (tiếng Anh: teacher direct
learning) là một hình thức dạy học hay một
phương pháp dạy học trong đó người học
tự xác định mục tiêu học tập để vạch ra kế
hoạch học tập, nghiên cứu.
Phương pháp này được xem như bắt
đầu hình thành từ nửa sau của thế kỉ XX.
Houle nghiên cứu động cơ học tập của
những người trưởng thành (1961), Allen
Tough công bố những dự án học tập dành
cho người lớn (1971), Knowles xuất bản
tác phẩm Học tập tự định hướng (1975).
Những công trình trên đã góp phần xây
dựng cơ sở lí luận cho Học tập tự định
hướng. Cho đến nay, sự phát triển của
nhiều ý tưởng mới đã làm xuất hiện nhiều
khuynh hướng về học tập tự định hướng.
101
Ví dụ: học tập tự vạch kế hoạch, học tập tự
chủ, học tập mở, học tập từ xa v.v
- Học tập tự vạch kế hoạch hay học
tập theo dự án: người học được giảng viên
giao nhiệm vụ để thực hiện. Dựa vào các
điều kiện cho trước và mục tiêu của dự án,
người học tự vạch ra kế hoạch để thực hiện
nhằm đạt được mục tiêu.
- Tự học (học tập tự chủ): thường kết
hợp với tư duy độc lập. Người học tự
nghiên cứu vấn đề, tự thể hiện và tự điều
chỉnh. Tự học hay học tập tự chủ được xem
xét ở khía cạnh hình thức hoạt động giúp
cho người học có điều kiện tự nghiền ngẫm
các vấn đề trong nội dung học tập theo một
cách riêng và với tốc độ thích hợp.
- Học tập mở, học tập từ xa: quá
trình học tập, sự nghiên cứu cá nhân được
diễn ra bên ngoài lớp học chính thức.
Những chương trình học tập từ xa đầu tiên
được biết đến rộng rãi nhất là chương trình
của Đại học mở Anh quốc vào năm 1969.
Hiện nay, hình thức học tập này đã lan
rộng trên khắp thế giới với sự hỗ trợ mạnh
mẽ của các phương tiện viễn thông, công
nghệ thông tin.
Tuy nhiên, khái niệm Học tập tự định
hướng có sự khác biệt với những khái
niệm trên. Theo tác giả Maurice Gibbons,
“Học tập tự định hướng là sự gia tăng
kiến thức, kĩ năng, thành quả hoặc sự phát
triển cá nhân mà cá nhân đó lựa chọn và
thu nhận được bằng bất kì phương pháp
nào, trong bất kì trường hợp nào, vào bất
kì thời gian nào từ chính sự nỗ lực của cá
nhân đó”(3). Còn Malcolm Knowles mô tả
một cách khái quát: “Học tập tự định
hướng là một quá trình trong đó cá nhân
chủ động, có hoặc không có sự trợ giúp
của các cá nhân khác; xác định nhu cầu
học tập của mình; xây dựng mục tiêu học
tập; xác định các nguồn tài nguyên học
tập; lựa chọn, thực hiện chiến lược học
tập và đánh giá kết quả học tập”(4). Các
tác giả khác cũng cho rằng hoạt động học
tập tự định hướng là quá trình học tập tự
chủ và độc lập của người học.
Trong quá trình học tập tự định hướng,
người học và giảng viên sẽ cùng thảo luận
với nhau để đưa ra quyết định nên học cái
gì và có kế hoạch hoạt động như thế nào
cho phù hợp với mục tiêu trước mắt, mục
tiêu lâu dài. Mục đích của giảng viên là
đáp ứng nhu cầu của người học hơn là dạy
một khối lượng kiến thức và kĩ năng có
được. Phương pháp này rất thích hợp để
phát triển các kĩ năng học tập của con
người như: viết bài luận, kĩ năng làm việc
sáng tạo, kĩ năng nghiên cứu.
Phân biệt giữa học tập tự định hướng
và học tập theo định hướng của giảng viên
Giữa Học tập tự định hướng và Học
tập theo sự định hướng của giảng viên có
những điểm khác nhau cơ bản như sau:
Học theo định hướng của
giảng viên
Học tập tự định hướng
Chủ thể
của quá
trình học
tập
Người học phụ thuộc vào
giảng viên về những nội dung và
phương pháp dạy – học.
Người học được phát triển năng
lực chủ động, tự định hướng hoạt
động học tập.
Tài nguyên
học tập
Quan niệm rằng kinh nghiệm
của người học ít giá trị hơn kinh
nghiệm của giảng viên, của sách
Quan niệm rằng kinh nghiệm
của người học trở thành nguồn tài
nguyên ngày càng phong phú cho
102
giáo khoa và những người viết
sách. Do đó, giảng viên phải
truyền dạy những nguồn tài
nguyên này cho học sinh.
học tập, cần được khai thác cùng với
các nguồn tài nguyên từ kinh
nghiệm của giảng viên và các
chuyên gia.
Nội dung
học tập
Người học tham gia vào quá
trình giáo dục theo định hướng
đối tượng để học tập. Do đó, các
nội dung học tập được tổ chức
thành từng đơn vị nội dung.
Định hướng tự nhiên của người
học là các nhiệm vụ hay vấn đề. Do
đó, kinh nghiệm học tập được tổ
chức như những công việc hoặc
những dự án học tập.
Động cơ
học tập
Động lực học tập của người
học nhằm đáp ứng các mục tiêu
bên ngoài như các lớp, các văn
bằng, các giải thưởng, hoặc từ
tâm lí sợ thất bại.
Động lực học tập của người học
là những mục tiêu nội tại như: mong
muốn phát triển, mong muốn hiểu
biết về một vấn đề, tâm lí tò
mò.v.v
Quy trình
Quá trình học tập tự định hướng diễn
ra qua các giai đoạn cơ bản như sau:
- Tự đánh giá: tự đánh giá kĩ năng
kiến thức, giá trị của người học (xác định
đầu vào). Quá trình tự đánh giá yêu cầu
người học phải chấp nhận những điểm mạnh
và điểm yếu của họ một cách trung thực.
- Thiết lập mục tiêu: xem xét nguyện
vọng và thiết lập mục tiêu hay mục đích
phấn đấu. Thiết lập mục tiêu cũng đồng
thời thiết lập các tiêu chí đánh giá sản
phẩm học tập. Đây là giai đoạn quan trọng
trong học tập tự định hướng.
- Lập kế hoạch học tập: người học
vạch ra kế hoạch học tập để đạt những mục
tiêu gần và mục tiêu xa. Kế hoạch học tập
cũng bao gồm những yếu tố như phương
pháp thực hiện, hình thức thực hiện, thời
gian thực hiện, nguồn tài liệu và công cụ
học tập, v.v...
- Thực hiện: thực hiện theo kế hoạch
đã đề ra. Giai đoạn này yêu cầu người học
phải chịu trách nhiệm tự giác thực hiện
103
theo kế hoạch đã đề ra nhằm phát triển
bản thân.
- Đánh giá kết quả: tự đánh giá
những thành quả đạt được và so sánh với
giá trị ban đầu (đánh giá đầu ra).
2.3. Phát huy tính chủ động tích cực
của sinh viên qua hoạt động tự định
hướng học tập
Có thể thấy hoạt động tự định hướng
học tập không những thể hiện được những
đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học
tích cực mà còn yêu cầu tính chủ động của
người học phải được thể hiện cao hơn so
với các phương pháp dạy học tích cực theo
định hướng của giảng viên.
Phương thức đào tạo theo hệ thống tín
chỉ hiện nay ở một số trường đại học đã
làm cho mỗi sinh viên có thêm nhiều cơ
hội lựa chọn những điều kiện khác nhau
khi bắt đầu học tập một học phần. Sự lựa
chọn đó cho thấy sự khác nhau về kinh
nghiệm, năng lực, nguyện vọng học tập của
mỗi sinh viên. Vì thế, hoạt động đào tạo
của nhà trường nói chung và hoạt động
giảng dạy của giảng viên nói riêng cần dựa
trên cơ sở quá trình nhận thức của từng cá
nhân, diễn ra theo hướng cá thể hoá. Sử
dụng phương pháp tự định hướng học tập
thì sinh viên được chủ động chọn hoạt
động học phù hợp với mình về nội dung
học tập, hình thức học tập, thời gian và
phương pháp học tập.
Giảng viên là người phối hợp cùng
sinh viên để tìm ra lí do học tập, tìm ra
nguyện vọng và phương pháp học mà sinh
viên mong muốn. Như vậy, quá trình học
tập tự định hướng mang lại cho sinh viên
những phẩm chất như: năng động, độc lập,
sáng tạo, tự giác, tự tin và có định hướng
mục tiêu. Bước đầu có thể vận dụng
phương pháp tự định hướng học tập vào
quá trình dạy học tại trường đại học thông
qua những hoạt động như sau:
Chọn chương trình học tập: một
trong những ưu điểm của hình thức tổ chức
dạy học theo hệ thống tín chỉ chính là tạo
điều kiện cho sinh viên chủ động cho kế
hoạch học tập của mình khi lựa chọn các
học phần để đăng kí học tập. Thông thường
ở học kì đầu tiên, các sinh viên đều học tập
trung theo những môn học do nhà trường
sắp xếp do chưa có sự ổn định sau khi
tuyển sinh cũng như do các sinh viên chưa
quen với phong cách học tập tại trường đại
học. Với sự giúp đỡ của các cố vấn học
tập, sinh viên sẽ xác định nhu cầu cụ thể
của bản thân, vạch ra kế hoạch học tập phù
hợp với điều kiện và hoàn cảnh của bản
thân để lựa chọn đăng kí học những học
phần kế tiếp trong chương trình đào tạo.
Thực hiện chuyên đề trong từng
môn học: trong quá trình dạy học, giảng
viên sẽ tuỳ theo điều kiện thực tế về thời
gian, kế hoạch giảng dạy học phần để tổ
chức học tập tự định hướng. Có thể cho
sinh viên xác định nhu cầu hiểu biết về một
vấn đề nào đó của một chương, một phần
trong nội dung môn học. Sau đó, giảng
viên và sinh viên cùng thống nhất về kế
hoạch thực hiện, cách thức thực hiện, cũng
như về việc đánh giá kết quả thực hiện
chuyên đề.
Thực hiện dự án học tập của môn
học: hoạt động này có thể tiến hành vào
thời gian sau khi học một phần nội dung
của môn học hoặc toàn bộ nội dung môn
học. Sau khi học những nội dung cơ bản,
những kiến thức cơ sở trong nội dung môn
học, giảng viên có thể yêu cầu sinh viên
xác định nhu cầu học tập những nội dung
tiếp theo của môn học, giúp sinh viên xác
định mục tiêu học tập tiếp theo để đề xuất
các dự án học tập. Do số lượng sinh viên
thường rất đông nên giảng viên có thể lập
104
thành nhóm những sinh viên có nhu cầu
học tập giống nhau để thực hiện chung một
dự án. Việc này cũng giúp sinh viên được
rèn luyện năng lực làm việc hợp tác nhóm.
Thực hiện các đề tài nghiên cứu
khoa học: hoạt động nghiên cứu khoa học
là hoạt động thường xuyên của sinh viên
trong quá trình học tập. Giảng viên có thể
tổ chức cho sinh viên chọn những vấn đề
mà mình mong muốn được hiểu biết và
phù hợp với điều kiện của cá nhân: về năng
lực, thời gian, nguồn tài nguyên, điều kiện
thực hiện.và đề xuất với giảng viên để
tiến hành thực hiện. Sinh viên tự đánh giá
bản thân về các yếu tố: kiến thức, kĩ năng,
thái độ, từ đó xác định mục tiêu cho đề tài
nghiên cứu. Có thể lựa chọn những đề tài
nghiên cứu đáp ứng các mục tiêu sau:
+ Kiến thức: có thể là kiến thức về lĩnh
vực chuyên môn hoặc kiến thức khoa học
xã hội.
+ Kĩ năng: kĩ năng chuyên sâu hoặc kĩ
năng tổng hợp; kĩ năng chuyên môn hay kĩ
năng xã hội.
+ Thái độ: tích cực, tự giác, tự tin
Đặc biệt là hoạt động tự định hướng
học tập rất phù hợp với việc giảng dạy các
môn kĩ thuật, các học phần thực hành tạo
sản phẩm.
2.3.1. Ví dụ học phần Thực hành thiết
kế thời trang (học phần thực hành): đây là
học phần được giảng dạy sau khi sinh viên
đã học qua các nội dung: Cắt may cơ bản,
Trang phục nữ, Trang phục nam. Giảng
viên có thể tổ chức quá trình học tập qua
các giai đoạn như sau:
- Nêu mục đích của môn học: giúp
sinh viên biết được các giai đoạn thiết kế
một bộ sưu tập thời trang và củng cố, bổ
sung những kiến thức về xây dựng bản vẽ
cắt may và kĩ thuật cắt may những trang
phục cho các đối tượng.
- Sinh viên xác định mục tiêu học tập
của mình: để rèn luyện thêm về kĩ thuật cắt
may, để học những kĩ thuật cắt may chưa
được biết trong chương trình học, hoặc để
biết kĩ thuật thiết kế trang phục phù hợp. Ở
giai đoạn này, sinh viên phải đánh giá một
cách trung thực khả năng của mình để có
thể định hướng đúng cho việc học tập.
- Sinh viên tự lựa chọn những chủ đề
phù hợp với mục tiêu mà mình mong muốn
hướng tới và đề xuất với giảng viên. Sinh
viên và giảng viên cùng thống nhất về chủ
đề, phương pháp học tập, tiêu chí đánh giá
kết quả của việc học tập.
- Sau đó tiến hành những bước tiếp
theo như: lập kế hoạch thực hiện, tiến hành
thực hiện đề tài và đánh giá sản phẩm.
2.3.2. Ví dụ học phần Văn hoá ẩm
thực Việt Nam (học phần lí thuyết): đây là
học phần được giảng dạy ở học kì đầu tiên
trong chương trình đào tạo giảng viên
Công nghệ - Kinh tế gia đình. Sau khi đã
giảng dạy phần đại cương về những yếu tố
ảnh hưởng đến văn hoá ẩm thực Việt nam
cũng như những đặc điểm chung về văn
hoá ẩm thực Việt Nam, giảng viên có thể
tổ chức quá trình học tập nội dung tiếp theo
qua các giai đoạn sau:
- Nêu mục đích của học phần: giảng
viên giúp sinh viên hiểu được những ảnh
hưởng của điều kiện văn hoá, lịch sử, tự
nhiên tác động đến văn hoá ẩm thực của
các vùng miền, bổ sung những kiến thức về
bản sắc văn hoá ẩm thực của vùng miền thể
hiện qua các món ăn.
- Sinh viên xác định mục tiêu học tập
của mình: sinh viên tự xác định nhu cầu
của bản thân đối với học phần này: để hiểu
biết về một món ăn cụ thể của dân tộc (ví
dụ: món bún, món phở, món xôi); để
hiểu biết về nét đặc trưng văn hoá ẩm thực
của một địa phương cụ thể; hoặc để có thể
105
so sánh những điểm khác nhau về văn hoá
ẩm thực của các địa phương. Sinh viên
phải đánh giá trung thực năng lực của bản
thân, những kiến thức cơ bản đã có để có
thể định hướng cho việc lựa chọn những
chủ đề ở giai đoạn tiếp theo.
- Sinh viên tự lựa chọn những chủ đề
phù hợp với mục tiêu mà mình mong muốn
hướng tới và đề xuất với giảng viên.
Những chủ đề có thể lựa chọn là: tìm hiểu
về một món ăn hay một thức uống cụ thể
của Việt Nam thông qua đó hiểu thêm về
văn hoá ẩm thực của Việt Nam, hoặc tìm
hiểu về văn hoá ẩm thực của một địa
phương để biết về bản sắc văn hoá của địa
phương đó. Sinh viên và giảng viên cùng
thống nhất về chủ đề, phương pháp thực
hiện (theo cá nhân hay theo nhóm), tiêu chí
đánh giá kết quả của đề tài nghiên cứu.
- Sau đó tiến hành những bước tiếp
theo như: lập kế hoạch thực hiện, phân chia
công việc cho các cá nhân trong nhóm (nếu
là đề tài thực hiện theo nhóm), thực hiện đề
tài và đánh giá kết quả.
3. KẾT LUẬN
Phương pháp học tập tự định hướng
đòi hỏi người học phải năng động, tự giác
trong việc học tập của mình, đồng thời
phương pháp này cũng đòi hỏi ở giảng viên
năng lực chuyên môn cao để có thể giảng
dạy theo nhu cầu của người học. Giảng
viên cũng phải là người có năng lực tổ
chức, quản lí khi việc học tập của sinh viên
diễn ra theo nhiều hướng khác nhau trong
cùng một lớp học.
Phương pháp học tập tự định hướng
nâng cao vai trò chủ động của người học
nhưng không có nghĩa là xem nhẹ vai trò
của giảng viên. Người thầy phải thể hiện
vai trò chủ đạo trong quá trình dạy học khi
giúp người học xác định hướng học tập,
mục tiêu học tập nhằm đáp ứng tốt nhất
nhu cầu của người học. Tất cả các hoạt
động dạy học dù theo phương pháp tự định
hướng của người học cũng phải đáp ứng
mục tiêu của môn học và mục tiêu đào tạo
của nhà trường.
Chú thích:
(1) Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam. Phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm 2006 – 2010. Hà Nội ngày 25/4/2006.
(2)
Trần Bá Hoành (2006