Phát triển bền vững nông nghiệp tỉnh An Giang trong điều kiện biến đổi khí hậu và lũ có xu hướng xuống thấp

Tóm tắt An Giang là tỉnh đầu nguồn của vùng châu thổ sông Cửu Long, nơi dòng sông Mê Kông chia làm 2 nhánh sông Tiền, sông Hậu, mang phù sa theo mùa nước nổi hàng năm đổ về tạo nên những cánh đồng màu mỡ, trù phú, có điều kiện thuận lợi trong phát triển nông nghiệp, là Tỉnh luôn dẫn đầu cả nước về sản lượng lúa gạo, có tiềm năng rất lớn về thủy sản. Tuy nhiên, do điều kiện biến đổi khí hậu và có lũ thấp trong những năm gần đây, đã ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nông nghiệp tỉnh An Giang, bài viết phân tích, đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong điều kiện biến đổi khí hậu và có lũ thấp, đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nông nghiệp tỉnh An Giang.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 401 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển bền vững nông nghiệp tỉnh An Giang trong điều kiện biến đổi khí hậu và lũ có xu hướng xuống thấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017 91 PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG NGHIỆP TỈNH AN GIANG TRONG ĐIỀU KIỆN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ LŨ CÓ XU HƯỚNG XUỐNG THẤP Nguyễn Chí Hải Trường Đại học An Giang Tóm tắt An Giang là tỉnh đầu nguồn của vùng châu thổ sông Cửu Long, nơi dòng sông Mê Kông chia làm 2 nhánh sông Tiền, sông Hậu, mang phù sa theo mùa nước nổi hàng năm đổ về tạo nên những cánh đồng màu mỡ, trù phú, có điều kiện thuận lợi trong phát triển nông nghiệp, là Tỉnh luôn dẫn đầu cả nước về sản lượng lúa gạo, có tiềm năng rất lớn về thủy sản. Tuy nhiên, do điều kiện biến đổi khí hậu và có lũ thấp trong những năm gần đây, đã ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nông nghiệp tỉnh An Giang, bài viết phân tích, đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong điều kiện biến đổi khí hậu và có lũ thấp, đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nông nghiệp tỉnh An Giang. Từ khóa: Nông nghiệp bền vững, biến đổi khí hậu, lũ thấp, phù sa. Abstract Sustainable development of agriculture in An Giang Province, adapt to climate change, floods low An Giang Province is located at the waterhead of Cửu Long Delta, where the MeKong River splits into two branches called Tiền River and Hậu River. Alluvial soil carried by the seasonal tide has consolidated the formation of the fertile fields in this region, favorable conditions for agricultural development. Location always leads the country in rice production, potential for seafood development. In recent years, climate Change, floods low, affect the sustainable development of agriculture in An Giang province. The article aims to analyze, assess the advantages and disadvantages, proposed solution to sustainable development of agriculture in An Giang province. Keyword: Sustainable agriculture, climate change, floods low, alluvial soil. 1. Đặt vấn đề An Giang là một tỉnh biên giới Tây Nam của Việt Nam, thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tỉnh có hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt là nơi khởi nguồn của sông Mê Kông chảy vào Việt Nam mang theo trữ lượng nước dồi dào, lượng phù sa màu mỡ phục vụ trồng trọt và nuôi trồng thủy sản. An Giang có những lợi thế để trở thành địa phương dẫn đầu cả nước về phát triển nông nghiệp, là vựa lúa và vùng thủy sản lớn của cả nước. Từ trước đến nay, mùa lũ ở tỉnh An Giang luôn xuất hiện đều đặn với cường độ lớn và thường xuyên, tỉnh An Giang đã tận dụng “về khai thác lợi thế mùa nước nổi” nhằm giúp người dân giảm nhẹ thiệt hại và chung sống hòa bình với lũ, phát triển các mô hình, ngành nghề có hiệu quả trong mùa lũ. Kết quả đã làm hài hòa giữa lợi ích kinh tế của người dân với môi trường, vừa đảm bảo tăng thu nhập trong mùa lũ vừa bù đắp phù sa, rửa phèn cải tạo đất, nên định hướng sản xuất nông nghiệp của Tỉnh Nghiên cứu Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017 92 trong giai đoạn này là “sống chung với lũ” sẽ bền vững lâu dài. Do một số nguyên nhân khách quan về biến đổi khí hậu và nguyên nhân chủ quan của con người về khai thác thủy điện, tình trạng lũ lớn không còn xảy ra trên địa bàn Tỉnh từ giai đoạn 2003 đến nay (trừ đỉnh lũ 2011), chúng ta cần đưa nhiều giải pháp điều chỉnh và thích ứng nhằm giúp nền nông nghiệp ổn định và phát triển bền vững, giúp người nông dân tăng thu nhập thông qua năng suất, và chất lượng sản phẩm. Hạn chế làm suy kiệt tài nguyên đất và làm ô nhiễm môi trường. Dự báo tình trạng lũ thấp và biến đổi khí hậu còn kéo dài trong những thập niên tới, ngành nông nghiệp tỉnh An Giang đang và sẽ đối mặt nhiều nguy cơ tiềm ẩn, tình trạng gia tăng chi phí sản xuất và đe dọa môi trường sinh thái. Do đó, cần có những giải pháp đột phá, đúng đắn để cân bằng các yếu tố về kinh tế và môi trường, có phương hướng phát triển nông nghiệp bền vững. Tác động của biến đổi khí hậu và lũ có xu hướng xuống thấp đến phát triển nông nghiệp tỉnh An Giang 2. Tác động của biến đổi khí hậu và lũ có xu hướng xuống thấp đến phát triển nông nghiệp tỉnh An Giang 2.1. Tác động của biến đổi khí hậu đến phát triển nông nghiệp tỉnh An Giang Tình hình biến đổi khí hậu đang diễn biến khó lường và theo chiều hướng tiêu cực, đặc biệt là hiện tượng hạn hán, xâm nhập mặn, mưa trái mùa, và sạt lở đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển nông nghiệp tỉnh An Giang. 2.1.1. Hạn hán và xâm nhập mặn vào mùa khô Trong những năm gần đây, tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn vào mùa khô xuất hiện ngày càng nhiều, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp tỉnh An Giang. Theo dự báo của Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam Bộ, hiện tượng El Nino đang xảy ra và có thể kéo dài, gây ra hiện tượng thời tiết cực đoan. Thực tế, từ năm 2015 đã xảy ra những hiện tượng nhiệt độ tăng cao có thời điểm lên đến 37,6 0C, lượng bốc hơi ở mức cao, độ ẩm không khí thấp, số giờ nắng luôn ở mức cao hơn so với cùng kỳ các năm trước. Mực nước tại Tân Châu, Châu Đốc, Chợ Mới, Long Xuyên xuống thấp so với những năm trước đây, hệ thống kênh mương nội đồng phục vụ sản xuất nông nghiệp cạn nước làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp. Với diễn biến phức tạp hạn hán đã ảnh hưởng nhất định gây nguy cơ thiếu nước sinh hoạt cho khoảng 150000 dân ở khu vực vùng cao của các xã Văn Giáo, Nhơn Hưng, Chi Lăng, Núi Voi và An Cư của huyện Tịnh Biên; các xã Cô Tô, Lương Phi, Lê Trì, Ba Chúc và Lạc Quới của huyện Tri Tôn. Tình hình xâm nhập mặn đang diễn ra ở nhiều địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long có khả năng sẽ ảnh hưởng một vài huyện của tỉnh An Giang. Đài Khí tượng Thủy văn tỉnh An Giang đã phối hợp đoàn công tác của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang đã đo khảo sát di động vào ngày 16/2/2016. Kết quả, độ mặn trên kênh Tám Ngàn (tại ranh giới An Giang - Kiên Giang và khu vực tiếp giáp kênh Rạch Giá - Hà Tiên) ở mức 1,4‰. Tại cầu Tân Tuyến (kênh 10), cầu Tân Vọng 2 (ranh An Giang - Kiên Giang), cầu Kênh Ranh (ngã ba kênh Ninh Phước 2 - kênh Tri Tôn) và cầu Tân Chí Thành (cách cầu Xã Diễu về phía Kiên Giang khoảng 2,5 km), độ mặn 1,2‰. Nghiên cứu Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017 93 Theo trang Thông tin điện tử Tuyên giáo An Giang về tình hình và giải pháp ứng phó với hạn hán và xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh An Giang, xâm nhập mặn có thể ảnh hưởng đến 14564 ha đất sản xuất, trong đó khu vực giáp ranh tỉnh Kiên Giang là 8000 ha (huyện Thoại Sơn 2730 ha, huyện Tri Tôn 5270 ha) An Giang là tỉnh có bị ảnh hưởng của hạn hán và xâm nhập mặn, và đã có những tác hại đến sản xuất nông nghiệp của nông dân. Vì vậy, việc đánh giá đúng các tác động của hạn hán, xâm nhập mặn để tìm ra giải pháp ứng phó trước mắt, cũng như xây dựng kế hoạch chủ động ứng phó lâu dài là nhiệm vụ quan trọng mà các cấp, các ngành cần đặc biệt quan tâm. 2.1.2. Hiện tượng mưa trái mùa thường xuyên diễn ra Hiện tượng thời tiết bất thường đang ngày càng khó đoán, mưa lớn bắt đầu đến muộn hoặc sớm hơn trung bình khoảng 1 tháng, thông thường mùa mưa bắt đầu từ tháng V và kết thúc cuối tháng XI. Hiện nay, nhiều cơn mưa trái mùa xuất hiện, có mưa lớn kéo dài làm lúa đổ ngã, gây ngập úng đã ảnh hưởng đến nâng suất, chất lượng lúa của tỉnh An Giang cũng như toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nhiều loại cây ăn trái bị mưa làm ảnh hưởng tới khả năng ra hoa kết trái, ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình sinh trưởng của nhiều loại cây trồng. Biên độ nhiệt độ giữa ngày và đêm có sự chênh lệch lớn (ngày nóng, đêm lạnh) dễ làm phát sinh bệnh cháy lá trên lúa, hay khí hậu ấm nóng, ẩm độ cao dễ phát sinh rầy nâu. 2.1.3. Tình trạng sạt lở ven sông ở tỉnh An Giang Trong những năm qua ở tỉnh An Giang, tình hình sạt lở càng nghiêm trọng, đặc biệt là sạt lở dọc các tuyến sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Nao. Năm 2012 sạt lở tại phường Bình Đức, thành phố Long Xuyên với chiều dài 80 m; phường Bình Khánh, thành phố Long Xuyên. Năm 2017 đã xảy ra sạt lở nghiêm trọng bờ sông Vàm Nao, với chiều dài 70 m, vách sạt thẳng đứng, lấn sâu về phía bờ 35 m, sạt lở đã nhấn chìm hoàn toàn 16 căn nhà và cắt đứt tuyến đường liên xã. Tình hình sạt lở tiếp tục diễn biến hết sức phức tạp, trong 5 tháng đầu năm 2017 đã xảy ra 15 điểm sụt lún, sạt lở đất bờ sông, kênh, rạch, ở An Phú 6 điểm, Chợ Mới 3 điểm, Tân Châu 4 điểm, Phú Tân 2 điểm, với chiều dài sạt lở 1224 m, có 18 căn nhà đã sụp hoàn toàn xuống sông cùng với nhiều tài sản, công trình hạ tầng khác, đã di dời khẩn cấp 136 căn, phải di dời thêm các hộ dân vùng lân cận có nguy cơ tiếp tục xảy ra sạt lở. Kết quả khảo sát của Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản đã sơ bộ nhận định một số nguyên nhân gây ra các vụ sạt lở nghiêm trọng trên địa bàn tỉnh An Giang nói chung và sạt lở tại bờ sông Vàm Nao, đoạn chảy qua ấp Mỹ Hội, xã Mỹ Hội Đông, huyện Chợ Mới nói riêng là do các đập thượng nguồn giữ lại bùn cát nên dòng chảy hạ lưu bị đói bùn cát, để cân bằng năng lượng dư thừa buộc dòng nước phải bào xói bờ. Kết quả điều tra khảo sát, tính toán ổn định mái dốc cho thấy tại nhiều vị trí mặt cắt hệ số ổn định K < 1, bờ sông có nguy cơ mất ổn định cao. Tình trạng sạt lở đang xảy ra ở nhiều nơi vùng đồng bằng sông Cửu Long ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là ở tỉnh An Giang; nên cần có Nghiên cứu Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017 94 sự quan tâm của các nhà khoa học, sự vào cuộc của chính quyền địa phương nhằm đánh giá đúng mức những nguyên nhân, hậu quả. Tìm giải pháp khắc phục, hạn chế tình trạng sạt lở, đảm bảo vùng đê bao, mùa vụ cho nhân dân an tâm sản xuất. 2.2. Ảnh hưởng của lũ về ít đến phát triển nông nghiệp tỉnh An Giang 2.2.1. Xu hướng lũ sẽ thấp dần Trong những năm gần đây, tình hình lũ về An Giang cũng như đồng bằng sông Cửu Long về lưu lượng có xu hướng thấp dần, đỉnh lũ liên tục biến đổi và có chiều hướng giảm dần qua các năm. Hình 1. Biểu đồ mực nước cao nhất vào mùa mưa tại hai trạm Tân Châu và Châu Đốc trên sông Cửu Long Qua hình 1. Biểu đồ mực nước cao nhất vào mùa mưa tại hai trạm Tân Châu và Châu Đốc trên sông Cửu Long, chúng ta thấy mực nước cao nhất năm 2005 là 435 cm trạm Tân Châu và 390 cm trạm Châu Đốc, và đang giảm dần qua các năm từ năm 2005 đến 2015, gần như giảm đều, tuy nhiên năm 2013, mực nước ở hai trạm Tân Châu và Châu Đốc tăng cao, nguyên nhân do có mưa lớn kéo dài ở vùng hạ Lào, có xả lũ từ phía thượng nguồn, đến năm 2014, năm 2015 mực nước lại tiếp tục giảm. Hiện tượng lũ thấp nguyên nhân là do tác động xây dựng hệ thống thủy lợi khép kín phục vụ phát triển sản xuất lúa 3 vụ, một nguyên nhân khác là tác động từ xây dựng các công trình thủy điện do Trung Quốc, Lào triển khai ở thượng nguồn sông Mê Kông đã làm hạn chế lưu lượng nước ở hạ nguồn đồng bằng sông Cửu Long. Có thể lũ sẽ không còn nhiều như trước đây, đất đai sẽ kém màu mỡ, chi phí cho nông nghiệp tăng cao, có nguy cơ hạn hán và xâm nhập mặn. Đây là một thách thức mới đối với sự phát triển bền vững của nông nghiệp An Giang. 2.2.2. Tác động tích cực của lũ thấp Sản xuất nông nghiệp tỉnh An Giang trong điều kiện biến đổi khí hậu và có lũ xuống thấp đã làm thay đổi tập quán canh tác của nông dân theo hướng chạy theo số lượng. Nông dân đã mạnh dạn chuyển từ sản xuất lúa 1-2 vụ/năm sang 2-3 vụ/năm. Năm 2006 diện tích lúa 3 vụ là 43143 ha, sản lượng 179906 tấn thì 10 năm sau, đến năm 2016 diện tích lúa 3 vụ là 185111 ha, sản lượng 1,04 triệu tấn, tăng gấp 6 lần so với 2006. Từ đó, diện tích sản xuất nông nghiệp ở tỉnh An Giang không ngừng tăng lên, đặc biệt là diện tích sản xuất lúa. Nghiên cứu Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017 95 Bảng 1. Diện tích đất trồng lúa ở tỉnh An Giang và đồng bằng sông Cửu Long Diện tích: Nghìn ha Khu vực/Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Đồng bằng sông Cửu Long 3945,9 4093,9 4184,0 4340,3 4249,5 4308,5 An Giang 586,6 607,6 625,1 641,4 625,8 644,2 [Nguồn: Tổng cục Thống kê] Nông nghiệp tỉnh An Giang đã đóng góp giá trị kim ngạch xuất khẩu cao năm 2016, “Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: Gạo ước đạt 450 ngàn tấn, tương đương 200 triệu USD; Thuỷ sản đông lạnh ước đạt 140 ngàn tấn, tương đương 253 triệu USD; Rau quả đông lạnh xuất 9,4 ngàn tấn đạt 14,8 triệu USD”(Ủy ban nhân nhân tỉnh An Giang, 2016). Đảm bảo an ninh lương thực quốc gia với sản lượng lúa tăng đều hàng năm, năm 2016 đạt 4,068 triệu tấn (tăng 141% so với 2006 là 2,88 triệu tấn), có sản lượng cao nhất, nhì cả nước, cho thấy tỉnh An Giang giữ vai trò quan trọng trong hệ thống an ninh lương thực của quốc gia. Hình 2. Sản lượng lúa của tỉnh An Giang và đồng bằng sông Cửu Long Bảng 2. Sản lượng thủy sản của tỉnh An Giang và đồng bằng sông Cửu Long Sản lượng: tấn 2011 2012 2013 2014 2015 Đồng bằng sông Cửu Long 3.169.715 3.385.989 3.439.665 3.604.813 3.680.470 An Giang 335.399 339.323 327.200 340.427 343.078 Nguồn: Tổng cục Thống kê Ngoài sản lượng lúa gạo, tỉnh An Giang còn là vùng trọng điểm sản xuất thủy sản nước ngọt như cá tra, cá ba sa, cá diêu hồng,... do có lợi thế về nguồn nước và diện tích mặt nước khá lớn, nên có sản lượng thủy sản lớn, đóng góp giá trị kim ngạch cao. Nhìn chung, lũ có xu hướng thấp cộng với tác động của biến đổi khí hậu, đã ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp đã tỏ ra thích nghi, năng động chuyển đổi cơ cấu sản xuất, đã mang lại hiệu quả tốt. Cụ thể về diện tích đất trồng lúa, sản lượng lúa, sản lượng thủy sản luôn tăng. Nghiên cứu Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017 96 2.2.3. Tác động tiêu cực khi lũ có xu hướng xuống thấp Tỉnh An Giang sẽ chịu nhiều ảnh hưởng do lũ xuống thấp, sẽ đe dọa nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp của Tỉnh, nghiêm trọng nhất là lượng phù sa sẽ giảm mạnh, đất đai bạc màu, diện tích đất bị nhiễm phèn ngày càng tăng, đa dạng sinh học giảm mạnh, nhiều bệnh dịch mới xuất hiện. Qua hình 3. Biểu đồ lượng phù sa trung bình đo được tại Châu Đốc, cho thấy lượng phù sa chảy vào sông Hậu ở mùa khô và mùa mưa đang theo hướng giảm dần. Vào mùa mưa lượng phù sa từ 9,3 triệu tấn năm 2009 xuống còn 4,8 triệu tấn năm 2015, vào mùa khô lượng phù sa từ 3,2 triệu tấn năm 2009 xuống còn 1,6 triệu tấn năm 2015. Hình 3. Biểu đồ lượng phù sa trung bình đo được tại Châu Đốc Hình 4. Biểu đồ lượng phù sa trung bình đo được tại Tân Châu Qua hình 4, lượng phù sa trung bình đo được tại Tân Châu, cho thấy lượng phù sa chảy vào sông Tiền vào mùa khô, và mùa mưa đang theo hướng giảm dần. Vào mùa mưa lượng phù sa từ 82,8 triệu tấn năm 2009 xuống còn 34,8 triệu tấn năm 2015, vào mùa khô lượng phù sa từ 31,4 triệu tấn năm 2009 xuống còn 12,1 triệu tấn năm 2015. Qua biểu đồ hình 2, hình 3, ta thấy lượng phù sa đang giảm trên sông Cửu Long, điều này sẽ tác động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp của tỉnh An Giang. Làm tăng chi phí sản xuất nông nghiệp, tăng giá sản phẩm, giảm năng suất. Nguyên nhân do độ phì nhiêu, màu mỡ của đất giảm nhiều nên người nông dân phải bù đắp dinh dưỡng cho cây lúa bằng cách bón nhiều phân, phun nhiều thuốc, chi phí lao động cũng tăng cao, làm cho giá sản phẩm tăng cao khó cạnh tranh với thị trường, mặt khác chất lượng sản phẩm kém, năng suất lại không cao. Qua khảo sát so sánh chi phí sản xuất vụ lúa Đông xuân 2014 - 2015 với lúa Đông xuân 2015 - 2016. Nghiên cứu Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017 97 Bảng 3. So sánh chi phí sản xuất giữa 2 vụ Đông xuân 2014 - 2015 và Đông xuân 2015 - 2016 Các yếu tố Đông xuân 2014 - 2015 (đồng) Đông xuân 2015 - 2016 (đồng) % Tăng Chi phí vật chất/1 ha (Giống, làm đất, thuốc, phân bón...) 22.074.647 22.256.921 0,83 Chi phí lao động 4.506.076 4.645.979 3,1 Tổng chi phí cho 1 ha 26.580.722 26.902.900 1,21 Năng suất 7,747 7,204 -7,01 [Nguồn: Báo cáo điều tra chi phí sản xuất vụ Đông xuân 2015 - 2016 trên địa bàn tỉnh An Giang] Qua bảng 4, so sánh chi phí sản xuất vụ lúa vụ Đông xuân 2014 - 2015 với lúa vụ Đông xuân 2015-2016. Ta thấy chi phí vật chất cho 1 ha đã tăng 0,8%, chi phí cho lao động tăng 3,1%, tổng chi phí cho 1 ha tăng 1,21%, ngược lại năng suất giảm 7,01%. Điều này, có thể hiểu đất sản xuất nông nghiệp đã bạc màu, cần nhiều phân bón để tăng dinh dưỡng, lượng thuốc bảo vệ thực vật cũng tăng cao, và tăng chi phí lao động. Kết quả cho thấy lượng phù sa ít đã tác động đến hoạt động sản xuất nông nghiệp, phá hoại cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm môi trường, cản trở sự phát triển bền vững. Ngoài ra, lũ xuống thấp còn tác động tiêu cực đến nguồn lợi thủy sản tự nhiên. Tỉnh An Giang nằm ở hạ lưu sông Mê Kông, là tỉnh đầu nguồn của vùng đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống sông ngòi, kênh mương chằng chịt. Vào mùa lũ, toàn tỉnh có khoảng 70 - 80% diện tích bị ngập nước, đây là điều kiện thuận lợi cho các loài thủy sản sinh sống và phát triển. Nguồn lợi thủy sản ở đây rất phong phú (có khoảng 140 loài cá), được bổ sung từ thượng nguồn sông Mê Kông và biển Hồ thuộc Campuchia vào mùa lũ hàng năm. Những năm gần đây, sản lượng thủy sản giảm đáng kể (năm 2002 là 79.000 tấn, năm 2004 chỉ còn 58.000 tấn). Bảng 4. Sản lượng khai thác thủy sản tự nhiên của An Giang Sản lượng: Tấn 2010 2011 2012 2013 2014 2015 An Giang 37.209,0 40.183,0 38.486,0 33.700,0 34.689,0 21.513,0 [Nguồn: Tổng cục thống kê] Nguyên nhân gây giảm sút nguồn lợi thủy sản tự nhiên chính là do hoạt động của con người, việc khai thác với cường độ cao và mang tính chất hủy diệt hàng loạt, hiện tượng phá hoại rừng đầu nguồn, đắp đập ngăn sông và xây dựng các hồ chứa ở thượng nguồn, ảnh hưởng của các biện pháp thủy lợi như bao đê chống lũ, môi trường nước bị ô nhiễm... đã làm suy giảm đáng kể nguồn lợi thủy sản. 2.3. Một số giải pháp định hướng phát triển bền vững nông nghiệp tỉnh An Giang trong giai đoạn tới Thứ nhất, giải pháp thị trường: Cần tăng cường công tác xúc tiến mời gọi đầu tư tham gia trực tiếp liên kết và tiêu thụ sản phẩm chủ lực và sản phẩm tiềm năng của tỉnh như lúa gạo, thủy sản, rau màu, cây ăn quả làm cơ sở cho việc đầu tư, triển khai các hoạt động thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định. Nghiên cứu Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017 98 Thứ hai, giải pháp quy hoạch và chuyển đổi sản xuất: Do sự thay đổi nhanh chóng của điều kiện tự nhiên, cần rà soát, cập nhật và điều chỉnh các quy hoạch, kế hoạch của ngành theo yêu cầu của thực tế, thị trường như các vùng sản xuất chuyên canh, các vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao, các mô hình sản xuất phù hợp với điều kiện lũ thấp như hiện nay. Luân canh các loại rau màu phù hợp, có giá trị cao trên thị trường trên đất trồng lúa, nhất là vụ Hè thu thường xảy ra tình trạng khô hạn đầu vụ và mưa bão cuối vụ. Chuyển đổi mô hình canh tác từ 3 vụ lúa sang 2 lúa 1 màu. Thứ ba, giải pháp về công trình: Trong xu hướng lũ thấp xuất hiện nhiều hơn thì giải pháp đầu tư hạ tầng công trình thủy lợi là cần thiết, tăng cường công tác phối hợp các cơ quan có liên quan để dự báo và cảnh báo sớm về thời tiết, khí hậu, diễn biến của lũ để có kế hoạch ứng phó kịp thời. Chủ động có kế hoạch và triển khai thi công các công trình thủy lợi phục vụ tưới tiêu cho khu vực đồng bằng và cả vùng cao, tăng cường phối hợp với các tỉnh trong vùng tứ giác Long Xuyên để có sự thống nhất trong việc chia sẽ nguồn nước trong khu vực góp phần phát triển hài hòa cho cả vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thứ tư, giải pháp ứng dụng khoa học công nghệ: Ứng dụng biện pháp canh tác giảm phát thải