Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, do sức ép cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính ngày càng lớn, yêu cầu đòi hỏi của người sử dụng cũng ngày càng cao và nhất là do sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin (CNTT), DVNH không ngừng được cải tiến và DVNH hiện đại đã ra đời. Các ngân hàng có thể đưa ra thị trường những dịch vụ hoàn toàn mới hoặc cung cấp những dịch vụ truyền thống theo phương thức mới có hàm lượng công nghệ cao. DVNH hiện đại được hiểu bao gồm những DVNH truyền thống được nâng cấp, phát triển trên nền tảng công nghệ hiện đại (process innovation) và những dịch vụ hoàn toàn mới được cung cấp nhằm đem lại những tiện ích mới cho người sử dụng (product innovation).
28 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1762 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại theo kịp xu hướng thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại theo kịp xu hướng thế giới
bài Đức đã lấy
ND - Hội nhập quốc tế đã mở ra nhiều cơ hội, nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng khi phải cạnh tranh gay gắt với các ngân hàng nước ngoài không chỉ mạnh về tiềm lực tài chính mà còn có nhiều kinh nghiệm trong việc phát triển các dịch vụ ngân hàng (DVNH) hiện đại.
Ða dạng dịch vụ
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, do sức ép cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính ngày càng lớn, yêu cầu đòi hỏi của người sử dụng cũng ngày càng cao và nhất là do sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin (CNTT), DVNH không ngừng được cải tiến và DVNH hiện đại đã ra đời. Các ngân hàng có thể đưa ra thị trường những dịch vụ hoàn toàn mới hoặc cung cấp những dịch vụ truyền thống theo phương thức mới có hàm lượng công nghệ cao. DVNH hiện đại được hiểu bao gồm những DVNH truyền thống được nâng cấp, phát triển trên nền tảng công nghệ hiện đại (process innovation) và những dịch vụ hoàn toàn mới được cung cấp nhằm đem lại những tiện ích mới cho người sử dụng (product innovation).
Thời gian qua, sự phát triển của thị trường DVNH hiện đại ở Việt Nam đã có những thay đổi tích cực. Những kết quả đạt được có thể kể đến là:
Thứ nhất, với sự nỗ lực cố gắng không ngừng của các NHTM, vốn điều lệ của các NHTM đã có sự cải thiện đáng kể. Ðến cuối năm 2008, 100% số NHTM cổ phần đã có vốn điều lệ từ 1.000 tỷ đồng trở lên. Ðây là cơ sở quan trọng cho các NHTM có nguồn tài lực để áp dụng công nghệ tiên tiến nhằm phát triển các DVNH hiện đại.
Thứ hai, số lượng dịch vụ được cung cấp ngày càng đa dạng và số lượng các NHTM tham gia cung cấp cũng ngày một tăng lên, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Dịch vụ thẻ thời gian qua đã đem lại hiệu quả đáng kể cho nền kinh tế xã hội. Ngoài những loại thẻ truyền thống, các NHTM cũng đã đưa ra nhiều loại thẻ tích hợp mới với nhiều tính năng mới làm cho thị trường thẻ thêm phong phú. Mạng lưới ATM và POS ngày càng được đầu tư mở rộng, các dịch vụ gia tăng trên ATM ngày càng được chú trọng nhằm đem lại cho khách hàng nhiều tiện ích hơn. Số lượng tài khoản cá nhân, doanh số giao dịch thẻ tăng trong thời gian qua cho thấy, việc phát triển dịch vụ thẻ đã làm tăng khối lượng thanh toán qua ngân hàng, người dân đang quen dần với các DVNH nói chung và dịch vụ thẻ nói riêng.
Thứ ba, sự hợp tác trong hoạt động kinh doanh giữa các NHTM bước đầu đã hình thành với sự ra đời của các liên minh. Sự liên minh giữa các NHTM trong kinh doanh thẻ đã cho phép thẻ của một NHTM phát hành có thể rút tiền mặt tại máy ATM của một số ngân hàng khác, hoặc thẻ của một ngân hàng này có thể thanh toán tại các POS của một số ngân hàng khác trong cùng một liên minh.
Thứ tư, cơ sở hạ tầng, CNTT nhìn chung đã có sự phát triển vượt bậc trong thời gian qua, tạo cơ sở quan trọng cho việc cải tiến quy trình nghiệp vụ, phát triển các dịch vụ mới, nâng cao tính tiện ích cũng như chất lượng phục vụ khách hàng. Vốn đầu tư cho CNTT không ngừng tăng lên. Ðây là nền tảng quan trọng để các NHTM nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng tốc độ xử lý thông tin, tăng cường tính bảo mật, đem lại nhiều tiện ích cho khách hàng và tiết kiệm chi phí cho ngân hàng.
Chất lượng dịch vụ còn nhiều hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, thị trường DVNH hiện đại vẫn còn khá manh mún, chưa mang tính đồng bộ và chưa tạo ra những tiện ích thật sự đối với các đối tượng tiếp cận và sử dụng dịch vụ.
Thứ nhất, vốn điều lệ hoạt động còn thấp. Tuy không còn NHTM cổ phần nào có mức vốn điều lệ dưới 1.000 tỷ đồng nhưng nhìn chung, vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam vẫn còn hạn hẹp. Với mức vốn như vậy thì khả năng trang bị và ứng dụng các công nghệ hiện đại rõ ràng còn hạn chế.
Thứ hai, chất lượng và số lượng các dịch vụ tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Có thể nói, một điểm yếu phổ biến và nổi bật của các NHTM Việt Nam là sự đơn điệu trong hoạt động kinh doanh. Doanh thu của các NHTM vẫn dựa chủ yếu từ cho vay trong khi hoạt động cho vay là một lĩnh vực nhiều rủi ro. Ðối với thị trường thẻ - một lĩnh vực được đánh giá là có bước phát triển vượt bậc thời gian qua nhưng vẫn mang tính rời rạc do có sự khác biệt trong quan điểm giữa các NHTM, các liên minh. Phạm vi phát hành và sử dụng thẻ mới chủ yếu tập trung ở một số tỉnh, thành phố lớn; đối tượng sử dụng thẻ chủ yếu tập trung vào những đối tượng đang làm việc trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, trong các khu công nghiệp, khu chế xuất và mới đây là đối tượng hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Thứ ba, hiệu quả tối đa mang lại cho từng ngân hàng từ việc ứng dụng công nghệ hiện đại còn chưa cao. Trên thực tế, việc ứng dụng các công nghệ hiện nay còn nhiều bất cập, mặt bằng trình độ công nghệ của các ngân hàng còn ở mức thấp, khoảng chênh lệch trình độ công nghệ giữa các ngân hàng khá xa dẫn đến hai tình trạng trái ngược nhau: hoặc là chỉ có thể ứng dụng công nghệ ở mức độ thấp do hạn chế về vốn hoặc lại chưa khai thác sử dụng hết tính năng công nghệ hiện đại do một số quy trình, chuẩn mực nghiệp vụ chưa được ban hành đầy đủ. Chính điều này cũng là nguyên nhân khiến các ngân hàng khó kết nối với nhau.
Thứ tư, vấn đề quản lý rủi ro còn nhiều bất cập. Các DVNH hiện đại được sử dụng ngày càng nhiều là một dấu hiệu khả quan, là thành công của ngân hàng, song cũng là thách thức không nhỏ đối với các ngân hàng khi chưa có khả năng quản lý rủi ro có hiệu quả, chưa có đủ các biện pháp phòng chống gian lận, bảo mật, an toàn tốt thì có khả năng rủi ro xảy ra cho ngân hàng.
Những nguyên nhân đằng sau những bất cập này thì rất nhiều, cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, như nguồn nhân lực cho hoạt động kinh doanh DVNH hiện đại còn thiếu, chưa có tính chuyên nghiệp; kỹ năng xử lý của các nhân viên ngân hàng cũng còn thấp; hành lang pháp lý chưa hoàn thiện và đồng bộ; hạ tầng cơ sở thông tin viễn thông còn kém phát triển, thiếu sự đồng bộ, kết nối giữa các ngân hàng,... Song có thể thấy, vấn đề năng lực tài chính của các NHTM còn hạn chế, thiếu vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng, CNTT phục vụ cho việc triển khai các DVNH hiện đại và thói quen ưa thích sử dụng tiền mặt của người dân cộng với những lo sợ vì DVNH hiện đại thường chứa đựng nhiều rủi ro là những nguyên nhân cơ bản nhất cản trở sự phát triển của DVNH hiện đại.
Với một thị trường rộng lớn với hơn 85 triệu dân, đây là một tiềm năng to lớn để phát triển các DVNH bán lẻ nói chung và DVNH hiện đại nói riêng. Tuy vậy, thói quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch thanh toán hàng ngày không dễ gì thay đổi trong một sớm một chiều và chính tâm lý ngại thay đổi thói quen chi tiêu khiến nhiều người dân chưa muốn tiếp cận với những dịch vụ mới. Mặt khác, nhu cầu đối với các DVNH hiện đại của nhiều bộ phận dân cư không thật sự cấp bách. Ngay như đối với dịch vụ thẻ, nhiều người còn cảm thấy rắc rối khi phải dùng thẻ bởi cho tới thời điểm hiện nay, khả năng thanh toán bằng thẻ chưa cao, các tiện ích của thẻ chưa được khai thác hết, nhiều người vẫn quan niệm rằng thẻ ATM là để rút tiền mặt.
Một hạn chế nữa là do tâm lý người Việt rất ngại để người khác biết thu nhập của mình, kể cả trong trường hợp các nguồn thu nhập là hoàn toàn hợp pháp chứ chưa nói tới những nguồn thu nhập "không tên". Vì thế, dù có rất nhiều phương thức thanh toán không dùng tiền mặt như thẻ, ủy nhiệm chi, séc, nhưng khách hàng vẫn rút tiền để thanh toán và người bán lại mang tiền đến nộp vào ngân hàng.
Ðể phát triển DVNH hiện đại, bên cạnh sự nỗ lực của mỗi NHTM trong việc tăng vốn, đổi mới công nghệ, đa dạng hóa và cá biệt hóa các sản phẩm dịch vụ, đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản trị và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh, cần phải tạo ra sự hợp tác, liên kết chặt chẽ giữa các tổ chức đơn vị có liên quan; phải thực hiện quản lý thống nhất, bảo đảm tính đồng bộ và tiện ích trong việc cung cấp dịch vụ tối ưu cho khách hàng. Có như vậy, các DVNH hiện đại mới có thể phát triển và nhanh chóng trở thành những dịch vụ được khách hàng và ngân hàng chấp nhận như một loại giao dịch không thể thiếu trong cuộc sống.
Theo Lao động online
Hệ thống các TCTD đã phát triển đa dạng về hình thức sở hữu và loại hình dịch vụ. Quy mô và chất lượng hoạt động của các TCTD ngày càng tăng; năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành, năng lực cạnh tranh, trình độ ứng dụng công nghệ thông tin ngày càng được nâng lên. Các TCTD đã cơ bản thực hiện tốt vai trò trung gian, huy động và phân bổ nguồn vốn có hiệu quả, cơ bản đáp ứng được nhu cầu vốn và tiện ích của nền kinh tế và xã hội. Nhờ đó, hoạt động tín dụng ngân hàng đã đóng góp tích cực cho việc duy trì sự tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao trong nhiều năm qua.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam từ sau quá trình đổi mới đến nay đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Hiện có 5 ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước, 1 Ngân hàng chính sách xã hội (NHCS XH), 06 ngân hàng liên doanh, 38 NHTM cổ phần, 47 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Sự phát triển này còn thể hiện qua tốc độ tăng trưởng của tổng tài sản, dư nợ, huy động vốn của hệ thống ngân hàng. Cơ cấu thu nhập cũng đã chuyển biến theo hướng tích cực, tỷ lệ thu nhập phi lãi suất trong tổng thu nhập có xu hướng tăng lên. Sản phẩm và dịch vụ ngân hàng hiện đại không ngừng phát triển đa dạng và phong phú. Trước đây, khoảng mươi năm, sản phẩm dịch vụ chủ yếu của ngân hàng chỉ đơn thuần là tín dụng thì ngày đã phát triển thành hàng trăm loại sản phẩm, dịch vụ khác nhau. Bên cạnh việc đa dạng hóa các loại hình sản phẩm truyền thống như vay vốn trả góp mua ô tô, dịch vụ mua nhà trả góp,… cũng đã xuất hiện các sản phẩm dịch vụ hiện đại khác như lưu ký chứng khoán, thanh toán bù trừ chứng khoán, ngân hàng giám sát, nghiệp vụ bao thanh toán, nghiệp vụ hoán đổi và quyền chọn, quản lý vốn, dịch vụ ngân hàng Internet Banking, Mobile Banking, thẻ tín dụng,… Không chỉ quan tâm đến việc phát triển các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng hiện đại mà các ngân hàng còn chú trọng đến việc tăng cường các tiện ích của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng cung cấp.
Hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam và những vấn đề đặt ra
PGS.TS. Nguyễn Thị MùiTrường Đào tạo & PTNNL VietinBank
Thập kỷ qua, cùng với quá trình đổi mới và hội nhập, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam (NHTM) đã có nhiều thay đổi quan trọng. Sự xuất hiện của các ngân hàng (NH) 100% vốn nước ngoài và việc loại bỏ dần các hạn chế đối với hoạt động của chi nhánh NH đã khiến mức độ cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, buộc các NH Việt Nam (VN) phải tái cấu trúc để tiếp tục phát triển. 2 trong số 5 NHTM Nhà nước (NN) đã thực hiện cổ phần hóa và chính thức hoạt động theo mô hình đa sở hữu được gần hai năm. Các NHTM cổ phần (CP) một mặt đang cấu trúc lại, có sự tham gia của các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài i cùng lộ trình tăng vốn điều lệ lên mức tối thiểu là 3.000 tỉ VND ii. Tất cả các động thái này nhằm hướng tới sự phát triển bền vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Vài nét về hệ thống NHTM trong quá trình hội nhập
Trong vài năm qua, những đóng góp của hệ thống NHTM VN vào quá trình đổi mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá là rất lớn. Các NHTM không chỉ tiếp tục khẳng định là một kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế, mà còn góp phần ổn định sức mua đồng tiền . Đến nay, vốn cho sản xuất kinh doanh chủ yếu vẫn do các NHTM đáp ứng, với tổng tài sản của hệ thống lên tới khoảng 140% GDP.
Cùng với quá trình cải cách và đổi mới, số lượng các NHTM VN đã tăng nhanh iii, đã và đang từng bước chuyển dần hướng tới một hệ thống tương thích của các nền kinh tế đang nổi và mới phát triển. Sự lớn mạnh của hệ thống NHTM VN thể hiện ở sự tăng lên của vốn chủ sở hữu, tổng tài sản, mức độ đa dạng hóa các dịch vụ cung cấp và sự đóng góp của ngành vào GDP hàng năm: về tổng vốn đăng ký đã tăng gấp 12 lần, tổng tài sản và tiền gửi tăng hơn 16 lần và các khoản vay tăng khoảng 14 lần iv.
Bảng 1: Tỷ trọng tổng tài sản của các NHTM so với toàn hệ thống (%)
Loại hình TCTD
2006
2007
2008
2009
6t/ 2010
NHTM Nhà nước
62,3
53,3
51,48
49,4
48,2
NHTM cổ phần
22,8
31,5
32,45
33,2
34,7
Chi nhánh NHNN
9,8
9,6
10,26
11,43
11,89
NH liên doanh
1,1
1,2
1,25
1,36
1,38
Nguồn: Báo cáo số 49/BC-NHNN năm 2009 của NH Nhà nước về việc rà soát 10 năm thực hiện Luật các TCTD và tính toán của tác giả.
Bảng 2: Thị phần tiền gửi của các NHTM (%)
Loại hình TCTD
2006
2007
2008
2009
NHTM Nhà nước
65,1
53,4
56,91
51,7
NHTM cổ phần
21,3
31,5
31,23
33,2
Chi nhánh NH nước ngoài
9,6
9,9
13,22
14,3
NH liên doanh
1,1
1,2
1,43
1,67
Nguồn: Báo cáo số 49/BC-NHNN năm 2009 của NH Nhà nước về việc rà soát 10 năm thực hiện Luật các TCTD.
Các NHTM NN vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng vốn, đặc biệt trong điều kiện khó khăn của nền kinh tế, của các doanh nghiệp. Chính họ là kênh chuyển tải nhanh nhất các cơ chế chính sách hỗ trợ của Chính phủ cho các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phục hồi và phát triển. Vì vậy, GDP của sáu tháng đầu năm 2010 đã đạt khoảng 6,4%, mức tăng cao nhất kể từ quí 4 năm 2008 đến nay. Song thị phần của các nhóm NH này từng bước giảm và nhóm NHTM CP, NH nước ngoài tăng v, nhờ các cam kết mở cửa thị trường.
Năm 2009, lợi nhuận của các NH có mức tăng trưởng khá, tỉ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) của 6 NH lớn nhất lên mức 1,9% Tỉ suất này năm 2008 là 1,5%( vi). Tuy nhiên, trong năm 2010, do những khó khăn từ nền kinh tế, đã ảnh hưởng đến khách hàng có quan hệ tiền gửi và tiền vay tại các NH, ảnh hưởng đến tăng trưởng tài sản, 6 tháng đầu năm 2010, nhiều NH chưa đạt được tốc độ như năm 2009.
Về phát triển các sản phẩm dịch vụ
Hệ thống NHTM VN đã phát triển khá nhanh về số lượng các NH và số lượng chi nhánh/phòng giao dịch, cùng với quá trình hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ truyền thống và phát triển các dịch vụ mới, nên doanh số và tỷ trọng dịch vụ tăng lên qua các năm. Cụ thể:
Dịch vụ huy động vốn và cho vay: Đây vẫn là dịch vụ mang lại nguồn thu chủ yếu cho các NHTM hiện nay và có mức tăng trưởng khá.
Sơ đồ 1: Tăng trưởng huy động vốn và tăng trưởng tín dụng ở VN
Nguồn: Báo cáo hàng năm của NHNN
Huy động vốn của các NHTM có tăng trưởng khá qua các năm (trừ năm 2008, có giảm sút, do tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu) do việc đa dạng hóa sản phẩm huy động và phát triển mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch. Măc dù có mạng lưới rộng và thương hiệu mạnh, được người dân biết đến, nhưng tốc độ tăng trưởng về huy động vốn của các NHTM CP có sự bứt phá mạnh, thị phần đã tăng lên 31,23% so với 21,3% năm 2006, khiến cho thị phần của các NHTM NN giảm. Hoạt động cho vay cũng có tốc độ tăng trưởng cao, thậm chí còn tăng nóng trong năm 2007 và năm 2008, một số NHTM CP có tốc độ tăng từ 60% trở lên. Nhưng 6 tháng đầu năm 2010, tăng trưởng tín dụng đạt 10,8%, nhưng đến cưới tháng 7, tốc độ tăng trưởng đã khá hơn, với mức tăng gần 13,0% vii cho 7 tháng đầu năm 2010. So với tốc độ tăng trưởng kinh tế, thì tốc độ tăng trưởng tín dụng gấp 5 đến 6 lần được cho là tăng trưởng nóng, nhưng nhìn nhận một cách sâu sắc có thể thấy, nếu không có sự tăng trưởng cao của tín dụng trong vài năm qua, thì không có được tốc độ tăng GDP như ngày hôm nay.
Bảng 3. Thị phần tín dụng của các NHTM (đơn vị %)
Loại hình TCTD
2006
2007
2008
2009
NHTM Nhà nước
67,1
59,7
58,2
49,93
NHTM CP
19,6
27,5
26,54
30,4
Chi nhánh NHNN
8,3
8,56
10,27
12,8
NH liên doanh
1,39
1,2
1,3
1,48
Nguồn: Báo cáo số 49/BC-NHNN năm 2009 của NH Nhà nước về việc rà soát 10 năm thực hiện Luật các TCTD.
Cho vay theo lĩnh vực kinh tế không thay đổi nhiều qua các năm. Trong tổng số dư nợ cho vay của NH, nông lâm thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, khoảng trên dưới 30%,tiếp theo là công nghiệp, thương mại và xây dựng.
Các dịch vụ phi tín dụng
* Dịch vụ thanh toán
Trong 3 năm trở lại đây, dịch vụ thanh toán đã có bước phát triển quan trọng. Nhiều dịch vụ thanh toán mới đã ra đời, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người sử dụng. Trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất được triển khai tích cực, việc kết nối hệ thống ATM, POS thành một hệ thống thống nhất trên toàn quốc đạt kết quả kích lệ. 3 liên minh thẻ Banknet, VNBC và Smartlink đã kết nối liên thông 10 thành viên là các NHTM có số lượng thẻ phát hành chiếm 87% tổng số thẻ phát hành của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và 75% số lượng ATM trên toàn quốc là nền tảng quan trọng cho việc thúc đẩy phát triển dịch vụ này.
Tính đến cuối tháng 7/2010, đã có trên 24 triệu thẻ với 48 tổ chức phát hành thẻ và hơn 190 thương hiệu thẻ, gần 11.000 ATM phát hành trên phạm vi cả nước và 37.000 thiết bị chấp nhận thẻ POS viii. Các dịch vụ tiện ích đi kèm ngày càng được đa dạng hóa như thẻ mua xăng dầu, thẻ mua hàng qua mạng, thanh toán tiền điện nước…; việc triển khai thí điểm cung ứng phương tiện thanh toán “ví điện tử” của các tổ chức không phải tổ chức tín dụng cũng có bước phát triển nhanh, trong đó số lượng phát hành đạt gần 84.500 “ví điện tử” của 17 NH tham gia triển khai dịch vụ và được chấp nhận thanh toán tại 119 đơn vị cung ứng hàng hóa dịch vụ. Điều này đã góp phần phát triển mạnh mẽ thanh toán điện tử trong thời gian tới, tạo tói quen thanh toán không dùng tiền mặt cho người dân. Tỷ lệ tiền mặt trong tổng thanh toán có xu hướng giảm, từ 20,3% năm 2004 xuống còn 14,6% năm 2008 và 14,5% năm 2009. Sự phát triển của Hệ thống thanh toán điện tử liên NH có vai trò quan trọng trọng việc nâng cấp cơ sở hạ tầng cho dịch vụ phát triển. Tài khoản cá nhân có mức tăng trưởng hàng năm cao: 150% xét về số tài khoản và 120% xét về số dư. Số lượng các tài khoản cá nhân đã tăng từ 135.000 năm 2000 lên khoảng 5 triệu vào năm 2005, trên 8 triệu vào năm 2007 và 14 triệu vào cuối năm 2009.
2. Một số vấn đề đặt ra trong phát triển hệ thống NHTM trong giai đoạn tới
Trong bối cảnh kinh tế Châu âu đang từng bước phục hồi sau những khủng hoảng về nợ công tại một số quốc gia, việc phục hồi kinh tế Mỹ gặp nhiều khó khăn ix, CPI tháng 6 năm 2010 giảm 0,1% thể hiện tiêu dùng của người dân giảm xuống. Trước diễn biến này, Fed đã dự báo, GDP của Mỹ năm 2010 chỉ tăng 3,0 đến 3,2% thấp hơn dự báo đầu năm, tỷ lệ thất nghiệp 9,2% đến 9,5% cao hơn mức dự báo trước đó. Kinh tế Trung Quốc đã có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại trong quí II/2010, với mức tăng trưởng 6 tháng đầu năm là 11,1%... Vấn đề này cho thấy diễn biến kinh tế thế giới vẫn khó lường, sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến vấn đề tăng trưởng kinh tế, lạm phát, xuất nhập khẩu của VN. Như vậy, hoạt động của các NHTM VN sẽ tiếp tục chịu ảnh hưởng không chỉ của nền kinh tế VN, mà còn chịu tác động từ các nhân tố từ bên ngoài. Điều này đặt ra một số vấn đề mà các NHTM phải quan tâm.
Thứ nhất, về năng lực cạnh tranh
Một hệ thống NH không thể phát triển bền vững, năng lực cạnh tranh cao trong bối cảnh năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Về các chỉ số phát triển tài chính, Báo cáo phát triển tài chính 2009 của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) xếp hạng VN đứng thứ 49 trên 52 nước được đánh giá. Hầu hết các chỉ số được xếp hạng cạnh tranh thấp, chỉ có chỉ số ổn định tài chính, chỉ số về quy mô và hiệu quả của lĩnh vực NH được xếp hạng cao.
Bảng 4: Chỉ số phát triển tài chính năm 2008 của một số nước (xếp hạng trên 52)
Tên nước
Xếp hạng
Tên nước
Xếp hạng
Hoa Kỳ
1
Thái Lan
29
Nhật Bản
4
Indonesia
38
Singapore
10
Philippine
48
Malaysia
20
Việt nam
49
Trung Quốc
24
Nguồn: WEF, 2009, Báo cáo phát triển tài chính
So với các nước khác trong khu vực, qui mô của các NH VN còn nhỏ, tổng tài sản ở mức thấp, các chỉ số ROA, ROE cuối năm 2009 vẫn ở mức khiêm tốn nếu dựa trên tiêu chí đánh giá theo thông lệ quốc tế.
Bảng 5: So sánh lĩnh vực NH VN với các nước trong khu vực
VN
Malaysia
Indonesia
Philippines
Tổng tài sản (tỷ USD)
127,66
386,25
213,98
119,52
Tổng dư nợ tín dụng (tỷ USD)
73,10
208,85
119,42
61,59
ROE (%)
9,7
18,5
21,94*
6,91
ROA (%)
1,0
1,5
2,08*
0,77
NPLs (%)
3,5
2,2
3,8
4,51
Nguồn: Chiến lược tổng thể phát