Tóm tắt
Di sản văn hóa Phật giáo Trúc Lâm tại Yên Tử thuộc loại di sản đặc sắc ở Việt Nam, nằm trong Quần
thể di tích danh thắng Yên Tử đang được hoàn thiện hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là Di sản thế
giới. Đồng thời, đây cũng là điểm du lịch quốc gia mỗi năm đón hàng trăm nghìn lượt khách. Việc phát
triển du lịch tại Yên Tử sơn đã đem lại nhiều lợi ích kinh tế, song cũng bắt đầu bộc lộ những bất cập ảnh
hưởng nghiêm trọng đến cảnh quan môi trường, xâm phạm những nguyên tắc căn bản của bảo tồn di
sản văn hóa, đến sức chứa du lịch và nhất là đến di chuyển bền vững. Bài viết nêu lên những giá trị tư
tưởng của di sản văn hóa Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử, hiện trạng phát triển du lịch, những tác động của
du lịch tới di sản, những đánh giá và định hướng cho phát triển du lịch bền vững gắn với việc bảo tồn
di sản văn hóa Phật giáo Trúc Lâm tại Yên Tử.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 250 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển du lịch gắn với bảo tồn di sản văn hóa Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 26 - Tháng 12 - 201872
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
PHÁT TRIỂN DU LỊCH GẮN VỚI BẢO TỒN
DI SẢN VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRÚC LÂM YÊN TỬ
NGUYỄN PHẠM HÙNG
Tóm tắt
Di sản văn hóa Phật giáo Trúc Lâm tại Yên Tử thuộc loại di sản đặc sắc ở Việt Nam, nằm trong Quần
thể di tích danh thắng Yên Tử đang được hoàn thiện hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là Di sản thế
giới. Đồng thời, đây cũng là điểm du lịch quốc gia mỗi năm đón hàng trăm nghìn lượt khách. Việc phát
triển du lịch tại Yên Tử sơn đã đem lại nhiều lợi ích kinh tế, song cũng bắt đầu bộc lộ những bất cập ảnh
hưởng nghiêm trọng đến cảnh quan môi trường, xâm phạm những nguyên tắc căn bản của bảo tồn di
sản văn hóa, đến sức chứa du lịch và nhất là đến di chuyển bền vững. Bài viết nêu lên những giá trị tư
tưởng của di sản văn hóa Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử, hiện trạng phát triển du lịch, những tác động của
du lịch tới di sản, những đánh giá và định hướng cho phát triển du lịch bền vững gắn với việc bảo tồn
di sản văn hóa Phật giáo Trúc Lâm tại Yên Tử.
Từ khóa: Di sản văn hóa, Yên Tử, Phật giáo Trúc Lâm, du lịch tôn giáo, du lịch bền vững
Abstract
The Truc Lam Buddhism cultural heritage in Yen Tu is a unique heritage in Vietnam, located in Yen
Tu scenic relic complex which is being completed to request the UNESCO recognizing as World Heritage.
Simultaneously, this is also a national tourist destination welcome hundreds of thousands of tourists
every year. The development of tourism in Yen Tu mountain has brought many economic benefits,
but also revealed inadequacies that seriously affect the environmental landscape, violated the basic
principles of cultural heritage preservation as well as tourism capacity and especially to sustainable
travel. The article highlights the ideological values of Truc Lam - Yen Tu Buddhist cultural heritage,
the current status of tourism development, the impact of tourism on heritage, and assessments and
directions for sustainable tourism development that firmly associated with the preservation of Truc
Lam Buddhist cultural heritage in Yen Tu.
Keywords: Cultural heritage, Yen Tu, Truc Lam Buddhism, religious tourism, sustainable tourism
Việt Nam là một quốc gia có Phật giáo/đạo Phật truyền vào từ rất sớm. Đạo Phật có lịch sử trên 2.000 năm
và có vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống
dân tộc (1). Phật giáo đã tạo nên một di sản
văn hóa to lớn có giá trị cho phát triển du lịch
Phật giáo. Du lịch văn hóa Phật giáo là một bộ
phận của du lịch tôn giáo, tín ngưỡng - một
loại hình du lịch giúp cho du khách có được
sự thưởng thức, trải nghiệm, khám phá những
khác biệt, mới lạ, độc đáo của một tôn giáo,
tín ngưỡng. Nó đòi hỏi sản phẩm du lịch phải
thể hiện được những nét đặc sắc nhất của
tôn giáo, tín ngưỡng đó. Muốn có được một
sản phẩm du lịch tôn giáo chuẩn, người làm
du lịch phải có những hiểu biết sâu sắc về đối
tượng được khai thác. Nếu không hiểu đúng
đối tượng, rất có thể sẽ tạo ra những sản phẩm
du lịch giả, hay kém chất lượng, không phản
ánh đúng bản chất của đối tượng cần khám
phá, thậm chí có thể làm ảnh hưởng nghiêm
trọng tới việc bảo tồn di sản văn hóa tôn giáo,
tới việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cũng
như phát triển du lịch bền vững. Một ví dụ
điển hình cho vấn đề này là du lịch văn hóa
Phật giáo Trúc Lâm tại Yên Tử sơn, Quảng Ninh,
đang đặt ra những vấn đề cấp bách cần được
giải quyết.
73Số 26 - Tháng 12 - 2018
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
1. Yên Tử sơn - tư tưởng Phật giáo Trúc Lâm -
du lịch di sản Phật giáo
Yên Tử sơn là ngọn núi cao 1.068m so với
mực nước biển, nằm ở ranh giới giữa hai tỉnh
Bắc Giang và Quảng Ninh, với hệ thống động
thực vật phong phú và đa dạng đã được công
nhận là khu bảo tồn thiên nhiên. Đồng thời,
nó có một hệ thống các di tích lịch sử văn hóa
cổ kính gắn với sự hình thành và phát triển của
Thiền phái Phật giáo Trúc Lâm, một tôn giáo
mang dậm dấu ấn Việt Nam thời Trần. Đỉnh núi
Yên Tử thuộc xã Thương Yên Công, thành phố
Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, là một thắng cảnh
thiên nhiên kỳ vĩ. Đây được mệnh danh là “đất
tổ Phật giáo Việt Nam”. Chiều dài đường bộ để
lên đỉnh Yên Tử (chùa Đồng) khoảng 6.000m,
với hàng ngàn bậc đá, đường rừng núi quanh
co, cheo leo, thậm chí hiểm trở... Yên Tử có
nhiều điểm di tích từ chân núi lên đỉnh núi, rất
cuốn hút du khách như: Chùa suối Giải Oan,
tháp mộ Tam tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông,
Pháp Loa và Huyền Quang, chùa Hoa Yên (hay
chùa Vân Yên), chùa Một Mái, chùa Bảo Sái,
tượng đá Yên Kỳ Sinh, am Ngọa Vân, bàn cờ
tiên, chùa Vân Tiêu, cuối cùng là chùa Đồng,
nằm tại đỉnh cao nhất của núi Yên Tử. Quần
thể di tích danh thắng Yên Tử đang được hoàn
thiện hồ sơ để đề nghị UNESCO công nhận là
Di sản thế giới (11).
Yên Tử sơn trở nên nổi tiếng từ thế kỷ XIII
bởi vai trò đất tổ của Thiền phái Trúc Lâm do
vua Trần Nhân Tông sáng lập. Trần Nhân Tông
(1258 - 1308) tên thật là Trần Khâm, là con trai
trưởng của vua Trần Thánh Tông với Nguyên
Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu Trần Thị
Thiều, sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm
Mậu Ngọ, niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (tức
ngày 7 tháng 12 năm 1258). Ông ở ngôi 15
năm (1278 - 1293), rồi nhường ngôi cho con,
xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm, Ninh Bình,
sau đó rời đến Yên Tử (Quảng Ninh) và thành
lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy đạo hiệu là
Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà).
Ông mất ngày 03 tháng 01 âm lịch, năm Mậu
thân (1308) tại am Ngọa Vân núi Yên Tử. Xá lị
được cất trong bảo tháp tại am Ngọa Vân. Ông
được sử sách ca ngợi là một trong những vị
vua anh minh bậc nhất trong lịch sử Việt Nam
với những võ công và văn trị kiệt xuất và là một
vị Giáo chủ uy vọng của Phật giáo. Về sau ông
được gọi cung kính là Phật hoàng (Vua Phật),
danh xưng này ở Việt Nam chỉ được dành cho
Trần Nhân Tông. Trần Nhân Tông là một hiện
tượng độc đáo, cũng có thể nói rằng là độc
nhất vô song trong giới tu hành theo Phật giáo
trên thế giới, bởi ông là vị Hoàng đế duy nhất
trở thành Giáo chủ, và là vị Hoàng đế - Giáo chủ
thống nhất được cả giáo quyền và thế quyền,
có nhiều đóng góp cho sự phát triển văn hóa,
tư tưởng Việt Nam (8). Tinh thần nhập thế của
Trần Nhân Tông được mọi tín đồ Phật giáo hết
mực ca ngợi. Ngay cả việc chọn nơi đất tổ cho
Thiền Trúc Lâm, nhà vua cũng không quên
trách nhiệm với đất nước. Nói như Hải Lượng
thiền sư, tức danh sĩ Ngô Thì Nhậm ở thế kỷ
XVIII, trong cuốn sách nổi tiếng Trúc Lâm tông
chỉ nguyên thanh: “Đức ngài lúc bấy giờ xem
thiên hạ là công, trong nước vô sự, nhưng ở
phía Bắc vẫn có nước láng giềng mạnh mẽ,
chưa được yên tâm. Cái ý ấy là không tiện nói
rõ, sợ người ta dao động. Cho nên nhằm được
ngọn núi Yên Tử là núi cao nhất, phía đông
nhìn về Yên Quảng, phía bắc liếc sang tỉnh
Lạng, dựng lên ngôi chùa, thời thường dạo
chơi để xem động tĩnh, cốt để ngừa cái mối lo
nước ngoài xâm phạm. Thật là một vị Vô Lượng
Đại lực Thế Chí Bồ Tát” (15). Đó là thể hiện sâu
sắc tư tưởng nhập thế của Phật giáo Trúc Lâm.
Nhưng Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử còn thể
hiện tinh thần “vô úy và phi cứu cánh” của
đạo trong quan niệm “đạt đạo” của Trần Nhân
Tông thông qua “con đường nghiệm đạo”
tồn tại hiện thực trong quá trình tu hành của
Đức Phật hoàng. Đó là con đường dài khoảng
6.000m đầy gian nan, khó nhọc từ chân núi lên
đỉnh Yên Tử đã được Phật hoàng Trần Nhân
Tông chủ ý tạo nên. Phật hoàng chủ ý khai
mở một con đường “độc hành” (chỉ đi được
một người) nhỏ bé, gập ghềnh lên Yên Tử như
một sự “hành xác”, một sự “nghiệm đạo”, nhằm
mục đích “đạt đạo” cho mình và cho người.
Hòa thượng Thích Thanh Từ, một học giả uyên
thâm về Phật giáo Trúc Lâm, trong sách giảng
về Phật hoàng Trần Nhân Tông, Hai quãng đời
của sơ tổ Trúc Lâm, đã chỉ rõ: “Tổ không đi ngựa,
chỉ đi bộ thôi Ở đây đường nhỏ xíu, chỉ một
Số 26 - Tháng 12 - 201874
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
người đi, không có người thứ hai cùng đi, làm
sao kiệu cáng khiêng cho được. Như vậy để
thấy rằng ý nguyện của Ngài dứt khoát, khi
tu là phải đạt đạo” (7). Con đường này là sản
phẩm tinh thần của Phật giáo Trúc Lâm mà
Phật hoàng trực tiếp tạo nên, như một trong
những di sản văn hóa quan trọng nhất mà ông
để lại tại Yên Tử sơn. Đó là tư tưởng tu hành đối
với người xuất gia của Trần Nhân Tông1.
Hiện nay, Yên Tử sơn là một điểm du lịch văn
hóa Phật giáo quan trọng thu hút hàng trăm
nghìn lượt du khách mỗi năm. Du lịch Phật
giáo Trúc Lâm Yên Tử là du lịch có tính chuyên
biệt, nó chuyên biệt cả về sản phẩm du lịch và
chuyên biệt cả trong yêu cầu đối với du khách.
Không phải ai cũng có thể tham gia những
chuyến du lịch này, và tham gia một cách tùy
tiện (10). Dù là người tu hành hay người thế
tục, khi tham gia vào chuyến du lịch này, đều
phải chuẩn bị cho mình tâm thế, hành trang
cần thiết và phù hợp để được thưởng thức,
trải nghiệm những danh lam, thắng cảnh Phật
giáo, được tắm mình trong không gian Phật
giáo Trúc Lâm uy nghiêm, kỳ bí và thiêng liêng,
giữa thiên nhiên kỳ vĩ, với những dấu tích kiến
trúc xưa cũ rêu phong cổ kính còn lại ẩn mình
trong sương mờ hay trong những rừng cây,
dưới những vách núi hoang sơ... Và nhất là, du
khách phải được đi trên con đường “nghiệm
đạo” từ chân núi lên đỉnh núi, được đặt chân
lên những dấu chân của các bậc sư tổ đã “khai
đạo và tạo đường” lên núi năm xưa. Yếu tố trải
nghiệm của du lịch Phật giáo Trúc Lâm tiêu
biểu nhất tại điểm du lịch này chính là con
đường “hành hương”, con đường “nghiệm đạo”
đó. Vì vậy, mỗi bước đi của du khách hôm nay
phải là một bước trải nghiệm trên con đường
“nghiệm đạo” đó, trong sự hỗ trợ của toàn bộ
cảnh quan văn hóa Trúc Lâm Yên Tử, thể hiện
“tinh thần vô úy và phi cứu cánh” của đời sống
đạo còn lưu giữ được.
2. Những tác động của du lịch đối với di sản
văn hóa Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử
Du lịch văn hóa Phật giáo Trúc Lâm tại Yên
Tử hiện nay đang đứng trước những lựa chọn,
thử thách không dễ vượt qua, đó là vấn đề bảo
tồn “tính nguyên bản” hay “hiện đại hóa” di
sản văn hóa; bảo vệ sự khác biệt, đặc thù của
sản phẩm “du lịch tinh hoa” hay phát triển sản
phẩm “du lịch đại chúng”; vấn đề sức chứa du
lịch, an toàn du lịch; nhất là vấn đề di chuyển
bền vững trong phát triển du lịch bền vững...
Bài viết này chỉ đề cập tới một trong những
tác động của du lịch đối với di sản có tính cấp
bách cần nghiên cứu thấu đáo, đó là vấn đề di
chuyển bền vững tại Yên Tử, trong đó nổi cộm là
việc xây dựng các tuyến cáp treo. Từ đánh giá
việc xây dựng cáp treo đã đặt ra nhiều vấn đề
cấp bách trong giải quyết di chuyển bền vững,
trong bảo tồn di sản văn hóa quan trọng này.
Du lịch là sự di chuyển từ nơi này tới nơi
khác trên phạm vi toàn cầu hay trong phạm vi
một quốc gia. Di chuyển du lịch trên thế giới
cũng như ở Việt Nam hiện nay đang thể hiện
những đặc điểm chính: Thứ nhất, số lượng
du khách tăng không ngừng; thứ hai, không
gian di chuyển rộng hơn, nên quãng đường
di chuyển dài hơn; thứ ba, thời gian di chuyển
và lưu trú nhiều hơn; thứ tư, chi phí cho du
lịch cao hơn. Đồng nghĩa với nó là hiệu quả
của sự phát triển du lịch rất rõ rệt trong việc
trong việc tăng thu nhập cho quốc gia, cho
doanh nghiệp, cho người lao động, tạo nhiều
công ăn việc làm, tăng cường giao lưu, hợp
tác, phát triển... Tuy nhiên, sự phát triển mạnh
mẽ của du lịch hiện nay đang có nhiều tác
động tiêu cực tới sự bền vững của môi trường
tự nhiên và môi trường văn hóa xã hội, mà
nguyên nhân đầu tiên có thể được xem là xuất
phát từ sự di chuyển du lịch. Những tác động
tới môi trường tự nhiên bởi sự vươn xa các di
chuyển du lịch không ngừng do sự phụ thuộc
vào nhiên liệu hóa thạch và tác động của nó
đối với thay đổi khí hậu. Phần lớn việc thải khí
CO2 đến từ nhu cầu vận tải và nhu cầu khách
sạn tăng. Theo số liệu từ các tổ chức quốc tế,
72% của việc thải khí CO2 đến từ vận tải, 24%
từ khách sạn, và 4% từ các hoạt động tại địa
phương. Việc thải khí của hàng không được
thực hiện ở độ cao đã tác động lên khí hậu
được khuếch đại nhiều lần, nên chiếm tới 75%
tác động xấu đến khí hậu của ngành du lịch.
Những tác động tới môi trường văn hóa xã hội
bởi sự thâm nhập ngày càng nhiều của du
khách từ nơi khác tới các nền văn hóa bản
địa, sự quá tải du khách tới các điểm đến di
75Số 26 - Tháng 12 - 2018
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
sản văn hóa gây ra những xáo trộn và biến đổi
văn hóa ở mức báo động. Vấn đề “di chuyển
bền vững” đang là vấn đề của du lịch toàn cầu.
Muốn phát triển du lịch bền vững, trước hết
phải được bắt đầu từ “di chuyển bền vững”.
Khái niệm “du lịch bền vững” phải liên kết chặt
chẽ với khái niệm “di chuyển bền vững”. Cần
có di chuyển bền vững trước khi có du lịch bền
vững. Vì thế, bên cạnh việc phát triển du lịch
cộng đồng, du lịch có trách nhiệm, du lịch
xanh, du lịch thông minh, thì Việt Nam cũng
phải chú trọng hơn tới giải quyết vấn đề di
chuyển bền vững trong du lịch.
Việc di chuyển du lịch tại Yên Tử sơn hiện
đang đặt ra những vấn đề cấp bách trong
việc bảo tồn di sản văn hóa quan trọng này.
Để thuận lợi cho việc đưa được thật nhiều du
khách lên đỉnh Yên Tử, người ta đã xây dựng
và sẽ xây dựng nhiều đường cáp treo lên
ngọn núi này (2). Việc làm cáp treo đưa khách
lên đỉnh Yên Tử nhận được sự tán thưởng của
nhiều người, từ chính quyền địa phương đến
nhiều doanh nghiệp đầu tư và “du khách đại
chúng”. Điều đó cho thấy tiện ích “giao thông”
của phương tiện này. Nhưng việc xây dựng
những đường cáp treo lên đỉnh Yên Tử cần
phải hết sức cân nhắc, khi nó vi phạm những
nguyên tắc căn bản trong phát triển du lịch
gắn với bảo tồn di sản văn hóa (6, tr.25-26), đã
được quy định trong hai bộ luật quan trọng
liên quan là Luật Di sản văn hóa (Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam, 2001) và Luật Du lịch (Quốc
hội nước CHXHCN Việt Nam, 2017). Qua khảo
sát trực tiếp thực tiễn, qua phản ánh của dư
luận xã hội và qua các phương tiện thông tin
đại chúng, với tư cách là người đã nghiên cứu
văn hóa Phật giáo và văn hóa du lịch lâu năm,
chúng tôi thấy việc xây dựng và sẽ tiếp tục xây
dựng cáp treo lên đỉnh Yên Tử sơn đã bộc lộ
những bất cập sau đây:
Thứ nhất, nó phá vỡ cảnh quan di tích tôn
giáo nơi đây. Bức tranh thiên nhiên và văn hóa
đặc thù của di tích tôn giáo được xem là kinh
đô Phật giáo Trúc Lâm trang nghiêm, u tịch,
huyền bí đã và sẽ bị những đường cáp treo
hiện đại xé rách.
Thứ hai, nó ảnh hưởng lớn tới môi trường
tự nhiên và văn hóa. Môi trường tự nhiên bị
xâm hại do sự tác động cơ học của con người,
sự tàn hủy sinh thái tự nhiên, cộng với việc
xả thải rác thải sinh hoạt của hàng nghìn du
khách mỗi ngày. Môi trường văn hóa cũng bị
xâm hại bởi sự xô bồ, lộn xộn, mất anh ninh,
trật tự, sự dung tạp không được kiểm soát của
nhiều du khách đã vi phạm tính thiêng của di
sản tôn giáo này.
Thứ ba, nó ảnh hưởng tới sức chứa du lịch.
Lượng khách quá đông vào mùa lễ hội, khi
hàng nghìn người di chuyển trong một giờ,
phủ kín Yên Tử chật hẹp đã tạo ra sự quá tải về
sức chứa, tiềm ẩn (và đã xảy ra) nguy cơ mất an
ninh và an toàn du lịch (16).
Thứ tư, nó ảnh hưởng tới giá trị văn hóa
cốt lõi của “đất tổ Phật giáo Trúc Lâm” trong sự
toàn vẹn của nó. Trung tâm Phật giáo Trúc Lâm
Yên Tử được tạo nên bởi toàn bộ không gian
thiên nhiên hùng vĩ, hiểm trở, bởi các công
trình tôn giáo cổ kính, tôn nghiêm, và nhất là
bởi con đường hơn 6.000 mét cheo leo gập
ghềnh từ chân núi tới đỉnh núi có hơn 700 năm
lịch sử. Đây là con đường của “đạo”, một bộ
phận cấu thành không thể tách rời của không
gian văn hóa Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử, là con
đường mà tổ sư Trần Nhân Tông và các tu sĩ
đã “hành xác”, “nghiệm đạo”, chứ không phải là
con đường “giao thông” thông thường. Không
phải ngẫu nhiên mà Phật hoàng Trần Nhân
Tông và các môn đồ không chủ trương có một
con đường đi ngựa hay khiêng kiệu nhàn nhã,
mà mở con đường “độc hành” vất vả này lên
đỉnh núi, như Hòa thượng Thích Thanh Từ đã
phân tích. Đây là con đường mang tư tưởng
Phật giáo Trúc Lâm, góp phần tạo nên giá trị
của di sản văn hóa mang tầm cỡ thế giới. Làm
cáp treo có thể góp phần lãng quên, góp phần
từng bước xóa bỏ con đường “nghiệm đạo”
này, xóa bỏ một phần quan trọng trong giá trị
của di sản.
Thứ năm, nó vi phạm những nguyên tắc
của du lịch tôn giáo, tín ngưỡng. Người làm
cáp treo chưa hiểu rõ giá trị di sản Phật giáo
Trúc Lâm Yên Tử, chưa hiểu rõ du lịch Phật giáo
Trúc Lâm Yên Tử. Giá trị của di sản Phật giáo
Trúc Lâm là “tính nguyên bản” của các công
Số 26 - Tháng 12 - 201876
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
trình cổ xưa và sự linh thiêng của đất tổ Trúc
Lâm. Du lịch Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử quan
trọng nhất là thưởng thức, trải nghiệm, khám
phá sự khác biệt, mới lạ của không gian văn
hóa đất tổ Phật giáo Trúc Lâm. Hạt nhân của
sự khác biệt, mới lạ đó là tính thiêng của Yên
Tử sơn. Tính thiêng đó tồn tại một phần bởi sự
trang nghiêm huyền bí tôn giáo từ những di
tích cổ xưa còn lại, và một phần bởi sự cách trở
“giao thông” với đời tục xô bồ bằng con đường
“nghiệm đạo” kỳ vĩ độc nhất ở Việt Nam. Sự
gian nan, cách trở của của con đường hành
xác, nghiệm đạo lên Yên Tử sơn chính là một
bộ phận cấu thành của Phật giáo Trúc Lâm tại
Yên Tử sơn.
3. Đánh giá và định hướng
Ngày nay, người ta đã nhìn con đường
6.000m lên núi Yên Tử như là con đường “giao
thông” khó nhọc, nên mới quyết định làm cáp
treo cho tiện. Họ không biết rằng, con đường
càng hiểm trở, càng khó khăn bao nhiêu, thì
càng thể hiện được cái “tinh thần vô úy và phi
cứu cánh” của Phật giáo Trúc Lâm bấy nhiêu.
Chính con đường này đã tạo ra sự mới lạ và
khác biệt, đã tạo ra sự tò mò muốn thưởng
thức, trải nghiệm, khám phá của du khách.
Cáp treo đã xóa bỏ con đường “nghiệm đạo”
tôn giáo bằng con đường “giao thông” thế tục.
Người ta sẽ nhàn nhã trèo lên buồng cáp treo
để lên đỉnh non thiêng. Và cái nhàn nhã đó sẽ
“giết chết” “đỉnh non thiêng” trong tâm hồn họ.
Người ta đã nhìn Yên Tử sơn chỉ như nhìn
những điểm tham quan Phật giáo thông
thường khác, thậm chí như nhìn bao điểm
tham quan du lịch thông thường khác. Vì thế
mới có thái độ hành xử thiếu cẩn trọng đối với
điểm đến du lịch đặc biệt này. Không dừng
lại ở đó, trước nhu cầu ngày càng lớn của “du
khách đại chúng”, của nhà đầu tư, người ta
đang chuẩn bị xây dựng thêm một tuyến cáp
treo lên núi Yên Tử từ phía địa phận tỉnh Bắc
Giang (3). Một lượng lớn du khách sẽ cùng lúc
đổ về đây. Và đỉnh non thiêng Yên Tử sẽ bị ảnh
hưởng vô cùng nặng nề. Nếu điều đó xảy ra,
trong tương lai, chúng ta khó có thể còn được
chiêm ngưỡng dấu tích “nguyên bản” của “kinh
đô Phật giáo Trúc Lâm” như nó vốn có. Và không
có gì làm chắc rằng Yên Tử sơn sẽ mãi còn là
một điểm đến linh thiêng và hấp dẫn du khách.
Bảo tồn “tính nguyên bản” của di sản văn hóa
không chỉ là cho văn hóa, mà còn cho chính
du lịch, bởi vì, “tính nguyên bản” của di sản văn
hóa tạo nên sự khác biệt, mới lạ, chính nó tạo
nên sức hấp dẫn du lịch. Bảo tồn “tính nguyên
bản” của di sản văn hóa phải được xem là một
hoạt động phát triển du lịch bền vững. Tất cả
các hoạt động đầu tư, tôn tạo, khai thác đối với
điểm di sản Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử số một
tại Việt Nam này đều phải đảm bảo không là
ảnh hưởng tới “tính nguyên bản” đó (7).
Không phải chỗ nào cũng có thể đại chúng
hóa du lịch, hay phát triển du lịch đại chúng,
nhất là đối với những điểm đến du lịch thuộc
loại di sản đặc biệt cần được bảo vệ, như hang
Sơn Đoòng trong Vườn quốc gia Phong Nha -
Kẻ Bàng ở Quảng Bình, hay Yên Tử sơn trong
Quần thể di tích danh thắng Yên Tử ở Quảng
Ninh. Để bảo vệ Sơn Đoòng, theo khuyến cáo
của UNESCO, người ta đã không làm “đường
giao thông thuận tiện” vào hang, và không
phải du khách nào cũng có thể vào đó. Chỉ
một lượng khách nhất định được khống chế
bởi những yêu cầu cao về chuyên môn, về tâm