Phát triển năng lực cảm xúc thẩm mĩ cho học sinh qua dạy học tác phẩm văn học

Tóm tắt. Cảm xúc thẩm mĩ là một phương diện biểu hiện của phẩm chất, năng lực người học mà chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn tới cần hướng đến. Môn Ngữ văn, thông qua việc dạy học tác phẩm văn học có ưu thế trong việc phát triển năng lực cảm xúc thẩm mĩ cho học sinh. Bài viết trình bày: quan niệm về cảm xúc thẩm mĩ; vai trò của tác phẩm văn học trong việc phát triển năng lực cảm xúc thẩm mĩ; một số biện pháp nhằm phát triển năng lực cảm xúc thẩm mĩ cho học sinh qua dạy học tác phẩm văn học.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 271 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển năng lực cảm xúc thẩm mĩ cho học sinh qua dạy học tác phẩm văn học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0199 Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 8, pp. 81-88 This paper is available online at PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CẢM XÚC THẨMMĨ CHO HỌC SINH QUA DẠY HỌC TÁC PHẨM VĂN HỌC Nguyễn Thị Hồng Vân Phòng Quản lí Khoa học, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam Tóm tắt. Cảm xúc thẩm mĩ là một phương diện biểu hiện của phẩm chất, năng lực người học mà chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn tới cần hướng đến. Môn Ngữ văn, thông qua việc dạy học tác phẩm văn học có ưu thế trong việc phát triển năng lực cảm xúc thẩm mĩ cho học sinh. Bài viết trình bày: quan niệm về cảm xúc thẩm mĩ; vai trò của tác phẩm văn học trong việc phát triển năng lực cảm xúc thẩm mĩ; một số biện pháp nhằm phát triển năng lực cảm xúc thẩm mĩ cho học sinh qua dạy học tác phẩm văn học. Từ khóa: Năng lực, cảm xúc thẩm mĩ, tác phẩm văn học. 1. Mở đầu Môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông vừa là môn học công cụ, vừa là môn học nghệ thuật, có chức năng giáo dục thẩm mĩ, vì thế nó có vai trò quan trọng trong việc phát triển năng lực cảm xúc thẩm mĩ cho học sinh (HS). Thông qua việc tiếp cận với tiếng Việt và đặc biệt là những hình tượng nghệ thuật trong các tác phẩm văn học (TPVH), các em được bồi dưỡng năng lực tưởng tượng, sáng tạo, được làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh nhằm hoàn thiện nhân cách của mình. Đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến quan niệm về cảm xúc và cảm xúc thẩm mĩ như: Giải mã trí tuệ cảm xúc của Andrea Bacon & Ali Dawson [3]; Một tư duy hoàn toàn mới – bán cầu não phải sẽ thống trị tương lai của Daniel H.Pink [7]; một số nghiên cứu về tác phẩm văn học và phát triển năng lực trong dạy học môn Ngữ văn. Tuy nhiên, chưa có công trình nào bàn một cách hệ thống về năng lực cảm xúc thẩm mĩ và phát triển năng lực này trong dạy học tác phẩm văn học. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Năng lực cảm xúc thẩm mĩ và tác phẩm văn học 2.1.1. Cảm xúc và cảm xúc thẩm mĩ Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, cảm xúc (hay xúc cảm) là: “Phản ứng tình cảm chủ quan mạnh của con người và động vật cấp cao phát sinh khi nhận được kích thích từ bên ngoài và bên trong cơ thể. Cảm xúc là một hình thức phản ảnh thực tế khách quan trong bộ não và Ngày nhận bài: 10/6/2016. Ngày nhận đăng: 20/10/2016. Liên hệ: Nguyễn Thị Hồng Vân, e-mail: nhvan1965@gmail.com 81 Nguyễn Thị Hồng Vân được biểu hiện bằng thái độ của người và động vật với sự vật và các hiện tượng xung quanh. Cảm xúc thường kèm theo biểu hiện sinh lí (thay đổi sắc mặt, nhịp tim, nhịp thở, hoạt động các tuyến nội tiết, trạng thái cơ thể...) và trạng thái tâm lí. Cảm xúc đơn giản nhất là cảm giác bẩm sinh do tác nhân có ý nghĩa quan trọng đối với tồn tại của cơ thể (thức ăn, nhiệt độ, đau...)” [1]. Từ điển Tiếng Việt (2000) nêu ngắn gọn: Cảm xúc là những “rung động trong lòng do tiếp xúc với sự việc gì” [2]. Như vậy, hiểu một cách chung nhất thì cảm xúc/xúc cảm là một trạng thái tinh thần, một “cung bậc” tình cảm, thể hiện những rung động của con người trước cuộc sống... có khi là những rung động với chính mình. Sự hình thành cảm xúc là một yếu tố quan trọng và cũng là điều kiện tất yếu đối với sự phát triển của mỗi người, góp phần hình thành và phát triển một nhân cách. Cảm xúc thẩm mĩ được hiểu là trạng thái rung động trực tiếp của con người trước các hiện tượng thẩm mĩ khách quan trong thế giới tự nhiên, trong đời sống và trong nghệ thuật. Sắc thái cảm xúc thẩm mĩ hết sức phong phú, đa dạng như chính hiện tượng thẩm mĩ khách quan đa sắc đa diện. Đó là cảm giác sảng khoái trước cái đẹp, ngưỡng mộ trước cái cao cả, đau xót trước cái bi, khinh bỉ trước cái hài, ghê tởm trước cái thấp hèn, buồn rầu trước cái xấu, căm ghét trước cái ác, mến phục trước cái thiện. . . Nói cách khác, đó là biểu hiện trực quan nhận thức của con người về những giá trị của cuộc sống. Trong văn học nghệ thuật, nói đến cảm xúc chính là nói đến cảm xúc thẩm mĩ. Đó là những tình cảm, thái độ và niềm rung động mà nhà văn muốn khơi dậy ở người đọc trước những hình ảnh, hình tượng thiên nhiên, con người, những sự việc, sự kiện, hành động, thể hiện các phương diện thẩm mĩ: bi - hài, tốt - xấu, cao cả - thấp hèn, thiện - ác,.. Trong nghệ thuật, xu hướng cảm xúc thẩm mĩ luôn gắn với sự khám phá các giá trị thẩm mĩ và quan điểm, thái độ do luôn được sự soi chiếu bởi tư tưởng, cảm xúc của nhà văn. 2.1.2. Năng lực cảm xúc thẩm mĩ Theo Andrea Bacon & Ali Dawson [3], bắt đầu từ năm 1990, nhà tâm lí học Peter Salovey ở ĐH Yale và John Mayer ở ĐH New Hampshire đã đưa ra thuật ngữ Trí tuệ cảm xúc hay Trí thông minh cảm xúc (Emotional Intelligence, hoặc Emotional Quotient ). Ngày nay, trí tuệ cảm xúc được đánh giá bằng chỉ số EQ (Emotional Quotient). Steve Mcshane và Mary Ann Von Glinow cho rằng trí tuệ cảm xúc chính là “khả năng của con người có thể nhận thức và biểu lộ cảm xúc, đồng hóa cảm xúc trong tư tưởng thông suốt, lí luận với cảm xúc và điều tiết cảm xúc cho bản thân và những người xung quanh” [3]. Bằng việc phân tích cấu tạo của bộ não, người ta đã chứng minh được lí trí, đại diện là trí thông minh không ở dạng thuần túy mà được nuôi dưỡng bởi cảm xúc, và chính phần neocortex (phụ trách suy luận trên não) là nhạc trưởng, nó chỉ đạo, phối hợp, kiểm soát các cảm xúc đột ngột và gán cho chúng một ý nghĩa. Theo Daniel H.Pink [7], năng lực cảm xúc khác với những cảm xúc bất chợt, ngẫu hứng, thoáng qua ở chỗ nó mang tính định hướng và được chi phối bởi nhận thức, ý thức của mỗi người trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh. Theo cách hiểu trên, năng lực cảm xúc thẩm mĩ được dùng với hàm nghĩa nói về chỉ số cảm xúc của mỗi cá nhân đối với những hiện tượng thẩm mĩ trong đời sống. Chỉ số này mô tả khả năng tự nhận thức để xác định, đánh giá và điều tiết cảm xúc của mỗi người trước cái đẹp của con người và thế giới xung quanh. Khi nêu ra các biểu hiện của năng lực cảm xúc thẩm mĩ có nhiều cách trình bày khác nhau, song nhìn chung các quan điểm đều thống nhất như sau: 1/Nhận thức được các cảm xúc của bản thân trước cái đẹp của con người và cuộc sống; 2/ Nhận biết các xúc cảm của người khác và những biểu hiện của cuộc sống từ phương diện thẩm mĩ; 3/Đề xuất được ý tưởng, sáng tạo được các sản phẩm có tính thẩm mĩ; 4/Làm chủ những liên hệ, những giá trị thẩm mĩ của con người và cuộc sống. 82 Phát triển năng lực cảm xúc thẩm mĩ cho học sinh qua dạy học tác phẩm văn học 2.1.3. Tác phẩm văn học và việc phát triển năng lực cảm xúc thẩm mĩ Theo ”Từ điển Thuật ngữ văn học”, TPVH là ”công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hoặc tập thể sáng tạo nhằm thể hiện những khái quát bằng hình tượng về cuộc sống con người, biểu hiện tâm tư, tình cảm, thái độ của chủ thể trước thực tại” [4]. Với người sáng tạo, TPVH là nơi khẳng định quan điểm nhân sinh, lí tưởng thẩm mĩ. Với hiện thực khách quan, TPVH là hình ảnh phản ánh sống động, là tấm gương ghi giữ diện mạo lịch sử của một thời kì một đi không trở lại và dự báo tương lai. Với người đọc, TPVH là đối tượng tích cực của cảm thụ thẩm mĩ. TPVH mang đến cho người đọc những khoái cảm thẩm mĩ trước mỗi hình ảnh, hình tượng của thiên nhiên, con người, cuộc sống được phản ánh thông qua quá trình hư cấu nghệ thuật. Đến với TPVH, người đọc sẽ khám phá thế giới hình tượng được thể hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật, từ đó nhận ra tư tưởng, tình cảm, thái độ của nhà văn trước hiện thực cuộc sống. Do vậy, người ta thường nhắc tới những đặc trưng cơ bản của TPVH là: tính hình tượng, tính thẩm mĩ, tính đa nghĩa, tính giáo dục. Trong CT môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông, tiếp nhận các văn bản văn học là một trong những nội dung học tập quan trọng được thực hiện ở tất cả các cấp học. Quá trình tiếp xúc với TPVH cũng chính là quá trình hình thành và phát triển năng lực cảm xúc thẩm mĩ của HS, với tư cách là người thưởng thức, người đồng sáng tạo cùng tác phẩm; là quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng của tác phẩm và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của mình. Năng lực cảm xúc thẩm mĩ do đó được thể hiện ở nhiều khía cạnh phong phú và tinh tế. Trong quá trình người học tiếp nhận TPVH, năng lực cảm xúc thẩm mĩ được thể hiện ở những phương diện chính sau: - Cảm nhận vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học, biết rung động trước những hình ảnh, hình tượng được khơi gợi trong tác phẩm về thiên nhiên, con người, cuộc sống qua ngôn ngữ nghệ thuật. - Nhận ra được những giá trị thẩm mĩ được thể hiện trong TPVH: cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi, cái cao cả, cái thấp hèn,... từ đó cảm nhận được những giá trị tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật của nhà văn được thể hiện qua tác phẩm. - Nhận thức được những giá trị của bản thân qua việc cảm hiểu TPVH; hình thành và nâng cao nhận thức và xúc cảm thẩm mĩ của cá nhân; biết cảm nhận và rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, cuộc sống; có những hành vi đẹp đối với bản thân và các mối quan hệ xã hội; hình thành thế giới quan thẩm mĩ cho bản thân qua việc tiếp nhận TPVH. Như vậy, từ việc tiếp xúc với các văn bản văn học, HS sẽ biết rung động trước cái đẹp, biết sống và hành động vì cái đẹp, nhận ra cái xấu và phê phán những hình tượng, biểu hiện không đẹp trong cuộc sống, biết đam mê và mơ ước cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Dạy học TPVH cho HS trước hết là giúp HS có niềm yêu thích, say mê văn chương, mong muốn tìm tòi, tìm hiểu cái hay, cái đẹp của thế giới nghệ thuật, từ đó để hình thành và phát triển các năng lực không chỉ cần thiết đối với việc đọc TPVH mà còn là những năng lực cần thiết trong cuộc sống và hướng tới hình thành nhân cách (năng lực và phẩm chất) của mỗi cá nhân. Bên cạnh việc tiếp thu các tri thức của nhiều môn khoa học trong nhà trường để phát triển các năng lực trí tuệ thì các môn học nghệ thuật (âm nhạc, mĩ thuật, văn học) sẽ giúp cho tâm hồn mỗi người trở nên đẹp hơn, phong phú hơn, biết sống hòa hợp với môi trường sống của mình. Đó cũng chính là mục tiêu mà CT giáo dục phổ thông cần hướng đến trong giai đoạn tới. 83 Nguyễn Thị Hồng Vân 2.2. Một số biện pháp nhằm phát triển năng lực cảm xúc thẩm mĩ cho học sinh qua dạy học tác phẩm văn học 2.2.1. Đọc diễn cảm văn bản tác phẩm Hoạt động đọc là hoạt động quan trọng và là bước đi đầu tiên khi tiếp xúc với TPVH, cũng là khâu đầu tiên của quá trinh giải mã tác phẩm. Có hai hình thức đọc tác phẩm là đọc thầm và đọc thành tiếng. Đọc thầm là hình thức đọc bằng mắt, đọc cho cá nhân người tiếp nhận, quá trình tiếp nhận diễn ra ở bên trong người đọc. Đọc thành tiếng là một cách đọc để thưởng thức, để chia sẻ những cảm nhận về văn bản trong một nhóm người đọc, biến câu chữ thành âm thanh, giai điệu. Đọc diễn cảm là mức độ cao của hình thức đọc thành tiếng, đó là quá trình đọc không chỉ đảm bảo đọc đúng hình thức câu chữ mà còn thể hiện được linh hồn của thế giới ngôn từ tác phẩm, có nghĩa là thể hiện được qua việc đọc những tình cảm, cảm xúc của nhân vật, giọng điệu cảm xúc của tác giả và những cảm nhận của cá nhân người đọc về tác phẩm. Yêu cầu đọc diễn cảm có thể được thể hiện ở nhiều cấp độ. Đó là, biết nhấn mạnh vào những từ then chốt, những câu văn giàu hình ảnh, thể hiện ý chính của văn bản; thể hiện được tính cách, tình cảm, thái độ của nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại; tái hiện được giọng điệu cảm xúc của tác giả qua giai điệu, nhịp điệu của câu văn, câu thơ; tái hiện được không khí, bước đi của văn bản; và cao nhất là qua giọng đọc và cách đọc chuyển tải được hình tượng nghệ thuật độc đáo, đặc sắc của tác phẩm đến với người nghe, lúc đó người đọc đã thể hiện với tư cách nghệ sĩ. Có nhiều cách luyện cho HS đọc diễn cảm. Tuy nhiên, trước khi đọc diễn cảm, HS cần đọc thầm, đọc lướt để có cảm nhận chung về văn bản, để nhận biết những thông tin chung, những hình ảnh, câu chữ quan trọng, nhận biết cách đọc văn bản. Khi đọc diễn cảm, HS sẽ biết cần đọc như thế nào, cần nhấn vào từ ngữ nào, cần thay đổi giọng điệu như thế nào cho phù hợp với ngôn ngữ, tính cách, tâm trạng của nhân vật, mạch cảm xúc của tác phẩm. Tùy vào thể loại văn bản, có thể đọc theo giọng kể, giọng ngâm, giọng kịch. Chẳng hạn, bài thơ Từ ấy của Tố Hữu (Ngữ văn 11) đọc lên như thấy có tiếng reo vui của một tâm hồn thanh niên bừng tỉnh trước lí tưởng cách mạng chói loà, cảnh vật tươi vui, rộn ràng, chan hoà ánh sáng, nhịp điệu hăm hở, dồn dập, say sưa; với bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ (Ngữ văn 8) cần thể hiện qua giọng đọc cảm giác vừa hào sảng da diết của nỗi nhớ, vừa bức bối, ngột ngạt của sự giam cầm tù túng trong lời tâm sự của một con hổ. Bên cạnh đó, GV có thể cho HS nghe hoặc xem những băng ghi âm hoặc ghi hình việc thể hiện các văn bản qua những giọng đọc tạo nên được sức truyền cảm đặc biệt để khơi gợi, tạo độ lan tỏa tình cảm, cảm xúc của mọi người về văn bản (nghe nghệ sĩ đọc các bài thơ trữ tình, diễn kịch,...). HS có thể đọc trước khi đi vào tìm hiểu tác phẩm hoặc từng nội dung của tác phẩm (có thể tập đọc trước ở nhà), để tạo tâm thế cảm xúc của người đọc đối với tác phẩm, có thể đọc diễn cảm sau khi đã tiếp nhận những giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, như một sự thưởng thức, làm sống động thế giới nghệ thuật của văn bản qua thế giới âm thanh ngôn ngữ. Như vậy, đọc diễn cảm và đọc hiểu có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, qua việc đọc diễn cảm, người nghe có thể nhận ra, đánh giá được sự cảm, hiểu của người đọc về tác phẩm và sự hòa nhập tâm hồn của người đọc vào hình tượng nghệ thuật của tác phẩm. Điều này cũng góp phần khẳng định mối liên hệ giữa hoạt động đọc và đọc hiểu TPVH trong nhà trường. 2.2.2. Khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng trong việc phân tích, khám phá hình tượng thẩm mĩ của tác phẩm Liên tưởng là một hoạt động tâm lí, từ việc này mà nghĩ đến việc kia, từ người này nghĩ đến người khác; cơ chế liên tưởng là dựa trên những mối quan hệ gần gũi của sự vật, hiện tượng, con người (liên tưởng tương đồng, tương cận). Tưởng tượng là hoạt động tâm lí của con người, nhằm tái hiện, biến đổi các biểu tượng (hình ảnh) trong trí nhớ và sáng tạo ra những hình tượng mới, cơ 84 Phát triển năng lực cảm xúc thẩm mĩ cho học sinh qua dạy học tác phẩm văn học chế của tưởng tượng là hình thành trong trí óc những biểu tượng. Trong sáng tác và cảm thụ văn học, người ta thường nói đến tưởng tượng tái tạo và tưởng tượng sáng tạo. Trong việc tiếp nhận TPVH, liên tưởng và tưởng tượng sẽ giúp người đọc khám phá vẻ đẹp thẩm mĩ của tác phẩm, từ vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật đến vẻ đẹp hình tượng nghệ thuật và những giá trị thẩm mĩ của tác phẩm bằng những trải nghiệm, cảm xúc, niềm say mê và nhạy cảm riêng của mỗi người đọc. Trong quá trình dạy học TPVH, có thể qua liên tưởng, tưởng tượng để khơi gợi những rung động, hứng thú, cảm xúc của người đọc đối với vẻ đẹp của tác phẩm, tạo cơ hội để HS thể hiện trường liên tưởng thẩm mĩ phong phú, qua đó bộc lộ và làm giàu thêm vốn sống, vốn văn hóa và cảm xúc thẩm mĩ của mỗi người. Văn học là nghệ thuật của ngôn từ, TPVH xây dựng những hình tượng nghệ thuật thông qua ngôn ngữ nghệ thuât. Bước đầu tiên của việc chiếm lĩnh tác phẩm chính là chiếm lĩnh thế giới ngôn từ (ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa), từ những câu chữ vô hồn, người đọc bằng cảm nhận, bằng rung động và trí tưởng tượng sẽ thổi hồn vào ngôn ngữ, làm cho chúng trở nên sống động. Khi hướng dẫn HS cảm nhận TPVH, GV cần dẫn dắt để khơi gợi những liên tưởng, tưởng tượng của HS trong việc tái hiện hình tượng nghệ thuật của văn bản/tác phẩm. Với các tác phẩm thơ trữ tình, GV cần hướng dẫn HS huy động trí tưởng tượng của cá nhân để tái hiện trong tâm trí mình những hình ảnh được gợi lên qua ngôn ngữ, từ đó huy động vốn sống, vốn văn hóa và những trải nghiệm của cá nhân để cảm hiểu được những gì nhà thơ gửi gắm qua những hình ảnh đó. Với các tác phẩm văn xuôi, ngôn ngữ văn xuôi (tự sự, kịch) là ngôn ngữ biến hóa, đa dạng, giàu tính cách vì gắn với nhân vật, sự kiện, không gian, thời gian, GV cần hướng dẫn HS thâm nhập vào không gian, thời gian, nhân vật và câu chuyện, huy động trí tưởng tượng, liên tưởng để tái hiện vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật, hình tượng nhân vật, tình cảm thái độ của tác giả. Chẳng hạn, để tái hiện vẻ đẹp của hình tượng người lái đò sông Đà trong tác phẩm cùng tên của Nguyễn Tuân (Ngữ văn 12), GV hướng dẫn HS huy động các giác quan và cảm nhận của cá nhân, từ thế giới ngôn ngữ của Nguyễn Tuân, để từ những câu chữ đầy biến hóa đó trong tâm trí mỗi người đọc đều hiện lên sừng sững giữa sóng thác hình tượng một con người phóng khoáng và tự do. Những cảm nhận đó chỉ có thể có được bằng những liên tưởng, tưởng tượng, bằng vốn sống và sự trải nghiệm của cá nhân, đồng thời cũng qua việc tiếp cận với từng tác phẩm, HS sẽ làm giàu thêm vốn sống, năng lực cảm thụ thẩm mĩ của cá nhân. GV cũng có thể hướng dẫn HS liên tưởng, so sánh những hình ảnh, hình tượng tương đồng hay tương phản trong cảm nhận TPVH. Thông qua so sánh để sẽ kết nối những hình ảnh, hình tượng được thể hiện bởi những phong cách nghệ thuật khác nhau, thể loại khác nhau, không gian, thời gian khác nhau, nhưng đều gặp nhau ở thế giới của cái đẹp, của những suy nghĩ, ý tưởng giàu chất nhân văn và giá trị thẩm mĩ. Trong tiếp nhận TPVH, HS cũng cần liên tưởng, liên hệ, nhập vai vào nhân vật, sự kiện... để đồng cảm với các số phận, biết xúc động trước những biểu hiện của con người, sự kiện được thể hiện trong văn học và trong cuộc sống từ góc độ thẩm mĩ. Bởi văn học là bức tranh phản ánh cuộc sống thông qua lăng kính nghệ thuật của người nghệ sĩ. Đọc văn là quá trình giao tiếp của người đọc với tác phẩm. Người đọc khi đến với tác phẩm để rung động với vẻ đẹp của ngôn ngữ, hình ảnh, để đồng cảm với từng số phận, mỗi nỗi niềm, mỗi dòng tâm tư của nhân vật, để vui buồn trong mỗi câu chuyện, mỗi cảnh đời trong tác phẩm. Khi biết hòa nhập tâm hồn, tình cảm của người đọc vào thế giới tác phẩm, người đọc sẽ bị lôi cuốn một cách thú vị vào niềm căm giận, nỗi mừng vui hay cái bâng khuâng man mác gợi nên từ tính cách, số phận của một nhân vật, màu sắc, đường nét của một hình ảnh, âm điệu réo rắt, véo von hay trầm hùng của một vần thơ, giọng sôi nổi, hùng tráng hay thì thầm, nhỏ nhẹ của một áng văn. Đó cũng chính là lúc người đọc được sống cùng tác phẩm và nhận ra được những buồn vui, những yêu thương mong nhớ của chính mình trong đó. Khi hướng dẫn HS đọc tác phẩm, GV cần khơi gợi những tình cảm thẩm mĩ của HS không chỉ đối với những gì được thể hiện trong tác phẩm mà từ tác phẩm để liên hệ, kết nối tác phẩm với hiện thực cuộc sống. Với những TPVH quá khứ (văn học dân gian, văn học trung đại), HS đến với 85 Nguyễn Thị Hồng Vân mỗi trang văn trang thơ để thêm trân trọng cuộc sống, con người, thêm tự hào về truyền thống văn hóa của dân tộc. Với văn học hiện đại, HS được tiếp xúc với những câu chuyện, những con người, những cảnh sắc thiên nhiên được viết nên từ chính cuộc sống, từ đó mà nhận ra được cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hùng,...và biết sống, biết hành động vì những điều đẹp đẽ cao cả. 2.2.3. Tạo cơ hội, tình huống để học sinh được trải nghiệm CXTM trong việc đọc hiểu tác phẩm văn học Văn học là sự thể hiện hiện thực cuộc sống thông qua lăng kính nghệ thuật của nhà văn. Bằng việc tái hiện những hình ảnh, nhân vật, những câu chuyện của cuộc sống, nhà văn gửi gắm trong đó cảm xúc, suy tư, ý tưởng, thông điệp để chuyển tải tới người đọc. Khi hướng dẫn HS đọc hiểu các TPVH, GV cần giúp HS cảm nhận được, những giá trị thẩm mĩ đươc khơi gợi từ TPVH cũng là những vẻ đẹp từ chính cuộc sống, gần gũi, thân thiết với các em, một cuộc sống chứa đựng biết bao điều bí ẩn và cuốn hút diệu kì. Từ đó đề xuất được các tình huống từ văn bản tác phẩm gắn với những vẻ đẹp của cuộc sống thực, nhằm khơi gợi những cảm nhận, trải nghiệm mang sắc thái cá nhân của người đọc với tư cách người đồng sáng tạo tác phẩm. Bên cạnh đó, năng lực cảm xúc thẩm mĩ cũng như các năng lực khác, gắn với từng cá nhân người học. Mỗi người đọc với tuổi đời khác nhau, hoàn cảnh sống và điều kiện vật chất, văn hoá khác nhau; sự từng trải và kinh nghiệm sống, trí thông minh cũng như vốn văn hoá khác nhau...
Tài liệu liên quan