TÓM TẮT
Phương pháp dạy học phổ biến trong các giờ dạy đọc hiểu văn bản hiện nay là
phương pháp diễn giảng, giáo viên trình bày cách hiểu về văn bản của mình cho học sinh,
học sinh tiếp nhận. Cách dạy này mang tính áp đặt, không phát huy được năng lực sáng
tạo của học sinh. Để góp phần giải quyết tình trạng này, chúng tôi đã thử nghiệm tổ chức
cho học sinh lớp chuyên Anh, Trường PTTH Chuyên Lý Tự Trọng, TP Cần Thơ thuyết
trình. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu: phát triển năng lực kiến tạo kiến thức của học sinh,
tạo cho học sinh cơ hội hể hiện ý kiến cá nhân về văn bản, phát triển năng lực giao tiếp và
kĩ năng đánh giá, tự đánh giá. Kết quả nghiên cứu cho thấy, năng lực kiến tạo kiến thức,
năng lực giao tiếp và đánh giá đã được phát triển. Mô hình tổ chức cho học sinh thuyết
trình các tác phẩm văn chương trong giờ hiểu văn bản mà chúng tôi thực hiện trong
nghiên cứu này có thể được sử dụng ở các trường phổ thông
14 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 231 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển năng lực cho người học bằng hình thức tổ chức cho học sinh thuyết trình về văn bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 20 - Thaùng 4/2014
27
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CHO NGƯỜI HỌC BẰNG HÌNH THỨC
TỔ CHỨC CHO HỌC SINH THUYẾT TRÌNH VỀ VĂN BẢN
VŨ THỊ KIM HỒNG (*)
NGUYỄN THỊ HỒNG NAM (**)
TÓM TẮT
Phương pháp dạy học phổ biến trong các giờ dạy đọc hiểu văn bản hiện nay là
phương pháp diễn giảng, giáo viên trình bày cách hiểu về văn bản của mình cho học sinh,
học sinh tiếp nhận. Cách dạy này mang tính áp đặt, không phát huy được năng lực sáng
tạo của học sinh. Để góp phần giải quyết tình trạng này, chúng tôi đã thử nghiệm tổ chức
cho học sinh lớp chuyên Anh, Trường PTTH Chuyên Lý Tự Trọng, TP Cần Thơ thuyết
trình. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu: phát triển năng lực kiến tạo kiến thức của học sinh,
tạo cho học sinh cơ hội hể hiện ý kiến cá nhân về văn bản, phát triển năng lực giao tiếp và
kĩ năng đánh giá, tự đánh giá. Kết quả nghiên cứu cho thấy, năng lực kiến tạo kiến thức,
năng lực giao tiếp và đánh giá đã được phát triển. Mô hình tổ chức cho học sinh thuyết
trình các tác phẩm văn chương trong giờ hiểu văn bản mà chúng tôi thực hiện trong
nghiên cứu này có thể được sử dụng ở các trường phổ thông.
Từ khoá: phát triển năng lực, thuyết trình, sáng tạo, giao tiếp, đánh giá.
ABSTRACT
The popular method of teaching reading literature texts is lecturing in which teachers
present their understandings of a specific text for students to receive. This method is
imposing and restrains students’ creativity. In order to improve this situation, another way
of teaching was experimented with a class of selected students at Ly Tu Trong highschool,
Can Tho City, in which students made oral presentations. This study aims to establish a
learning environment in which students are able to construct their own knowledge, express
their judgements on a literature text, develop their communication skills, and enhance their
assessment ability. The result of this study indicates that these competencies of the students
were enhanced and that this method of teaching reading liturature texts can be
disseminated in highschools.
Keywords: competency development, oral presentation, creativity, communication,
assessment
1. ĐẶT VẤN ĐỀ*
Nhược điểm lớn nhất của cách dạy học
hiện nay là tập trung nhồi nhét kiến thức
mà không chú trọng việc phát triển năng
lực cho người học. Cách dạy giờ Đọc hiểu
(*)ThS, Trường PTTH Chuyên Lý Tự Trọng,
TP. Cần Thơ.
(**)PGS.TS, Trường Đại học Cần Thơ.
văn bản (VB) ở trường phổ thông cũng
mắc phải nhược điểm này, học sinh (HS)
không có cơ hội trình bày cảm nhận của
mình về VB, tranh luận, thảo luận, chia sẻ
những cách hiểu khác nhau về VB. Vì thế,
năng lực sáng tạo, giao tiếp, đánh giá của
HS không được phát triển. Vậy làm thế nào
để phát triển được những năng lực này cho
28
người học? Chúng tôi cho rằng, một trong
những hình thức tổ chức dạy học giúp đạt
được mục tiêu này là tổ chức cho HS
thuyết trình (TT).
2. BỐI CẢNH THỰC HIỆN NGHIÊN CỨU
Trường phổ thông trung học (PTTH)
Chuyên Lí Tự Trọng, TP Cần Thơ có 27 lớp
trong số đó có 23 lớp chuyên. Nhà trường
mong muốn HS các lớp chuyên có sự chủ
động, sáng tạo, tự tìm tòi kiến thức. HS lớp
chuyên thường tập trung học môn chuyên
mà lơ là các môn khác. Do vậy, trong năm
học 2011-2012, chúng tôi đã tổ chức cho
HS lớp 11C2, chuyên Anh TT về một số
VB nghệ thuật trong CT Ngữ văn 11.
3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Thực hiện nghiên cứu này, chúng tôi
nhằm trả lời những câu hỏi sau:
- Việc tổ chức cho HS TT có nâng cao
năng lực chủ động kiến tạo kiến thức,
tạo cho HS cơ hội thể hiện ý kiến cá
nhân về VB?
- Việc tổ chức cho HS TT có nâng cao
kĩ năng giao tiếp cho HS?
- Kĩ năng đánh giá và tự đánh giá của
HS có được phát triển?
4. CƠ SỞ LÍ THUYẾT
4.1. Mục tiêu dạy học và mục tiêu
dạy học môn Ngữ văn
Bàn về những năng lực mà người học
cần có trong thế kỉ 21, OECD – Tổ chức
các nước có nền kinh tế phát triển (2012)
nêu lên 4 C’s: Creativity (sáng tạo),
Critical thinking (tư duy phê phán),
Communication (giao tiếp), Collaboration
(hợp tác). Hội đồng khoa học giáo dục Hoa
Kì (2012) xác đ nh những năng lực HS cần
có trong thế kỉ 21 là: Năng lực nhận thức
(gồm sáng tạo, tư duy phê phán, giải quyết
vấn đề, ra quyết đ nh, lập luận); Năng lực
tự thân (gồm năng lực tự quản lí, khả năng
kiểm soát các hành vi và cảm xúc của bản
thân để đạt mục tiêu); Năng lực liên cá
nhân (diễn đạt thông tin với người khác
cũng như năng lực suy luận thông điệp của
người khác và phản hồi thích hợp). Dù
cách diễn đạt của Hội đồng giáo dục của
Hoa kì và OECD khác nhau, nhưng đều đề
cập đến những năng lực cốt lõi; sáng tạo,
giao tiếp, tư duy phê phán, hợp tác.
Đó là những năng lực mà tất cả các
môn học trong nhà trường, trong đó có
môn Ngữ văn, cần giúp người học phát
triển. Bên cạnh những năng lực chung, mỗi
môn học có những yêu cầu riêng về năng
lực. Chương trình (CT) môn Văn của
Hongkong (2007), Singapore (2007), bang
New South Wales – Úc (2007) đề cập
những năng lực riêng của môn Văn là (1)
năng lực đánh giá và thưởng thức nhiều thể
loại VB khác nhau; (2) năng lực diễn đạt ý
tưởng một cách mạch lạc, rõ ràng, năng lực
trình bày sự cảm thụ sâu sắc và tư duy
logic khi thảo luận và viết về VB; (3) sự
hiểu biết về văn hóa. CT của Hongkong
còn xác đ nh mục tiêu “thể hiện sự phát
triển cá nhân”. CT của Singapore đặt ra
mục tiêu: người học “tham gia vào VB, thể
hiện ý kiến cá nhân về VB, thể hiện sự
nhận thức mang tính trí tuệ và cảm xúc về
các chủ đề, các nhân vật, bối cảnh xảy ra
câu chuyện và ngữ cảnh đọc VB”. CT của
bang New South Wales (Úc) yêu cầu phải
phát triển năng lực tạo nghĩa bằng ngôn
ngữ cho các loại VB khác nhau để phục vụ
cho những mục tiêu khác nhau. Mục tiêu
dạy văn của các nước nêu trên vừa thể hiện
quan điểm kiến tạo kiến thức, vừa thể hiện
đặc trưng của hoạt động tiếp nhận văn
chương: tính cá nhân của mỗi người đọc,
và ở mỗi thời điểm khác nhau, với vốn
sống, quan điểm thẩm mỹ khác nhau,
người đọc có thể có cảm nhận khác nhau
về VB. Do CT được xây dựng dựa trên
29
quan điểm kiến tạo kiến thức nên vai trò
trung tâm của người học trong học tập
được đề cao. Cách dạy truyền đạt mục tiêu
và chấp thuận kiến thức được thay bằng
cách dạy giúp cá nhân mỗi HS học cách tự
xây dựng và giải thích kiến thức, kiến thức
được đ nh dạng bởi chính người học.
Một trong 3 mục tiêu dạy học môn
Ngữ văn được những người biên soạn CT,
SGK của Việt Nam đề ra là “hình thành và
phát triển ở HS năng lực sử dụng tiếng
Việt, tiếp nhận văn học, cảm nhận thẩm
mĩ; phương pháp học tập, tư duy đặc biệt là
phương pháp tự học; năng lực ứng dụng
những điều đã học vào cuộc sống”
[16, tr.6].
Tổ chức cho HS TT là một trong
những hình thức tổ chức dạy học có thể
góp phần đạt được một số những mục tiêu
dạy học đã nêu. Đó là phát triển năng lực
tư duy sáng tạo (qua quá trình kiến tạo kiến
thức), tư duy phê phán, phản bác, lập luận
(qua quá trình thảo luận, tranh luận), năng
lực hợp tác (qua hoạt động thảo luận
nhóm), năng lực giao tiếp (qua việc trình
bày, diễn đạt ý tưởng). Việc tổ chức cho
HS TT còn tạo cho HS cơ hội “tham gia
vào VB, thể hiện ý kiến cá nhân về VB, thể
hiện sự nhận thức mang tính trí tuệ và cảm
xúc về VB”[10]. Qua hoạt động tranh luận,
thảo luận, HS còn có được những cách hiểu
mới về VB.
4.2. Thuyết trình và tổ chức cho
học sinh thuyết trình
Theo Tự điển tiếng Việt (Hoàng Phê,
1988) TT là “trình bày rõ ràng một vấn đề
trước nhiều người. TT một đề tài khoa học.
TT dự án xây dựng mới. Bản TT trước hội
ngh ”[13, tr.240].
Tài liệu “Teaching Presentation skills
to ESL students” (2002) đ nh nghĩa như
sau về TT “đó là việc một người hay một
nhóm người giới thiệu và miêu tả một vấn
đề cụ thể nào đó, ví dụ một sản phẩm mới,
hình ảnh của một công ty hoặc một chiến
d ch quảng cáo sản phẩm bằng lời nói,
băng hình...”[15].
Cả hai đ nh nghĩa trên đều nói về TT
nói chung chứ không nhằm vào việc lí giải
thế nào là tổ chức cho HS TT trong dạy
học. Các tác giả như Đặng Thành Hưng
(2002), Phan Trọng Ngọ (2005), Hanm P.H
(2006), Đặng Đình Bôi (2010), Thái Duy
Tuyên (2010) đều coi TT là một phương
pháp dạy học (PPDH) của giáo viên (GV)
để truyền thụ kiến thức. Trong phạm vi tài
liệu mà chúng tôi khảo sát được, chúng tôi
chưa thấy tài liệu nào đề cập đến việc tổ
chức cho HS TT. Mặc dù việc GV TT và tổ
chức cho HS TT có một số điểm giống
nhau như xác đ nh chủ đề, sưu tầm tài liệu,
xây dựng đề cương... nhưng mục đích và
tiến trình tổ chức hoàn toàn khác nhau.
Theo chúng tôi, tổ chức cho HS TT là
một hình thức tổ chức dạy học chứ không
đơn thuần là một PPDH. GV là người tổ
chức, xây dựng tình huống dạy học chứa
đựng những tri thức cần lĩnh hội đồng thời
xây dựng môi trường mang tính xã hội để
người học tự kiến tạo kiến thức. Trong quá
trình TT, người học có cơ hội bộc lộ quan
điểm của mình, lắng nghe quan điểm của
bạn, tranh luận. Kết quả của tiến trình này
là người học được phát triển năng lực tra
cứu tài liệu, lập kế hoạch làm việc, hợp tác,
giao tiếp, tư duy sáng tạo và tư duy phê
phán.
Một bài TT tốt cần đáp ứng nhiều yêu
cầu. Về nội dung: bài TT cần làm rõ chủ đề
TT, các luận điểm, luận cứ cần được trình
bày rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Về cấu trúc:
bài TT cần có đầy đủ ba phần: mở đầu, nội
dung và kết luận. Về hình thức, nếu trình
bày bài TT bằng powerpoint, người TT cần
30
kết hợp sử dụng hợp lí các kênh chữ, kênh
hình, sơ đồ, biểu bảng, băng video, màu
sắc, font nền của màn hình, cỡ chữ. Về
phong cách, người TT cần có thái độ tự
nhiên, sự nhiệt tình, tích cực, điềm tĩnh, tự
tin, sử dụng thành thạo phương tiện hỗ trợ,
giao tiếp với khán giả bằng ánh mắt, nét
mặt; điệu bộ, cử chỉ, giọng nói rõ ràng,
truyền cảm; trả lời câu hỏi của người nghe
một cách thuyết phục.
Để góp phần đạt được một số mục tiêu
trong số các mục tiêu dạy học Văn như đã
nêu trên, chúng tôi tổ chức cho HS TT về
một số VB nghệ thuật trong CT Ngữ văn
11.
5. THỰC NGHIỆM
5.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng thực nghiệm (TN) của
nghiên cứu này là 29 HS lớp 11C2 (chuyên
Anh) trường THPT Chuyên Lí Tự Trọng.
HS được chia thành 4 nhóm, 7-8 HS/nhóm.
Mỗi nhóm ch u trách nhiệm
TT bốn bài đọc hiểu VB trong năm học 2011-2012 (bảng 1).
Bảng 1: Thống kê số bài TN
NHÓM
TÊN BÀI
Học kì 1 Học kì 2
1 Chí Phèo (Nam Cao) Tương tư (Nguyễn Bính)
2 Tình yêu và thù hận (Shakespeare) Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử)
3 Hai đứa trẻ (Thạch Lam) Từ ấy (Tố Hữu)
4 Đời thừa (Nam Cao) Tràng giang (Huy Cận)
5.2. Tiến trình thực nghiệm
Tiến trình tổ chức cho HS TT được
thực hiện qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1. Hướng dẫn. TT là hoạt
động khá xa lạ với HS vì các em quen với
việc nghe GV diễn giảng mà ít khi được
GV yêu cầu TT. Vì thế, chúng tôi đã dành
một tiết hướng dẫn cách chuẩn b cho bài
TT: đọc tác phẩm, tìm tài liệu, đọc và xử lí
tài liệu. Chúng tôi giới thiệu cấu trúc bài
TT và tiêu chí đánh giá bài TT (Phiếu 3) để
đ nh hướng cho HS biết cần làm gì và làm
như thế nào để bài TT đạt kết quả tốt.
Giai đoạn 2. Chuẩn bị. Chúng tôi
phân công bài cho các nhóm chuẩn b đồng
thời giới thiệu nguồn tư liệu mà HS có thể
tham khảo. Mỗi nhóm có 4 tuần chuẩn b
cho bài TT. Tuần 1 nhóm tự phân công
công việc và lập kế hoạch thực hiện. Tuần
2 và 3, nhóm chuẩn b bài TT dưới hình
thức VB word và nộp VB hoàn thiện vào
ngày cuối tuần 3. Tuần 4 là thời gian để
nhóm làm báo cáo bằng powerpoint và gửi
cho GV.
Giai đoạn 3. Tổ chức TT trên lớp.
Tiến trình TT của các nhóm trên lớp được
thực hiện qua hai bước. Bước 1: các nhóm
TT, bước 2: các thành viên trong lớp đặt
câu hỏi cho nhóm TT. Bước 1 cho các
nhóm cơ hội thể hiện năng lực nói, viết,
trình bày kiến thức bằng nhiều phương
tiện: ngôn từ, hình ảnh, kĩ năng máy tính,
ngôn ngữ cơ thể. Trong bước 2, nhóm TT
thể hiện bản lĩnh, năng lực nắm bắt và giải
quyết vấn đề mà các nhóm khác đặt ra, kĩ
năng lập luận, giao tiếp với các nhóm khác.
31
Đây cũng là bước để các thành viên trong
lớp trình bày những quan điểm khác về VB
hay nêu câu hỏi về những vấn đề mà họ
chưa rõ hoặc chưa đồng tình với nhóm TT,
qua đó, cả lớp học cách nhìn VB từ những
quan điểm khác nhau, học kiến thức thông
qua sự tương tác.
Giai đoạn 4. Đánh giá sau khi TT.
Giai đoạn này gồm 3 bước. Bước 1: các
nhóm TT tự nhận xét về ưu, nhược điểm
của mình. Bước 2: các nhóm khác nhận xét
về nhóm TT. Bước 3: nhận xét của GV. Ở
bước 1, người học có cơ hội nhìn lại sản
phẩm và quá trình làm việc của nhóm,
nhận ra ưu, nhược điểm để tự điều chỉnh và
hoàn thiện. Bước 2: các thành viên khác
trong lớp thể hiện năng lực tư duy phê
phán (đánh giá, học hỏi từ ưu, nhược điểm
của nhóm bạn), năng lực giao tiếp (cách
dùng từ ngữ, giọng điệu khi nhận xét).
Bước 3: GV tóm lược, bổ sung kiến thức
cho HS.
Đánh giá là công việc không dễ dàng,
đặc biệt là đối với HS. Công việc này đòi
hỏi phải phân tích, tổng hợp, am hiểu vấn
đề được đánh giá và phải công tâm, hiểu
mục đích của đánh giá không phải để phê
phán mà giúp người được đánh giá tiến bộ.
Để hoạt động đánh giá đạt được mục tiêu
trên, chúng tôi đã thiết kế một số phiếu
đánh giá để HS tự đánh giá (phiếu 1 và 2)
và đánh giá lẫn nhau (phiếu 3). Các phiếu
này có hai chức năng: hướng dẫn HS cách
TT và đánh giá mức độ hoàn thành công
việc của HS. Để HS biết cách TT và biết
yêu cầu đối với bài TT về hình thức, nội
dung, phong cách và sự phối hợp giữa các
thành viên trong nhóm, chúng tôi phát các
phiếu này cho các nhóm trước khi các
nhóm tiến hành công việc.
PHIẾU 1. ĐÁNH GIÁ LẪN NHAU TRONG NHÓM
Ngàythángnăm. tiết..
Tên bài TT:.
Tên người đánh giá:nhómlớp
Giáo viên hướng dẫn:
STT Họ và tên Công việc được giao
Mức độ hoàn thành công việc
(Hoàn thành tốt/hoàn
thành/không hoàn thành)
1
2
3
4
Sau khi hoàn thành bài TT, các thành
viên trong nhóm dùng phiếu này để đánh
giá lẫn nhau về mức độ đóng góp của từng
thành cho công việc của nhóm.
Phiếu 2 được dùng sau khi HS thực
hiện xong bài TT. Nội dung phiếu được
thiết kế dựa trên các chiến lược tự đánh giá
mà Fogarty (1994) giới thiệu. Câu 1 giúp
GV và nhóm tự xem xét nhóm có hiểu
nhiệm vụ được giao hay không. Câu 2 giúp
32
HS xác đ nh mục tiêu công việc của nhóm.
Câu số 3 giúp nhóm nhận biết ưu điểm. Trả
lời được câu số 4 giúp nhóm không chỉ
nhận biết khuyết điểm mà còn tự đề ra
hướng khắc phục. Câu số 5 giúp GV nhận
ra khó khăn của HS để có biện pháp giúp
đỡ, đồng thời nhóm tự nhận ra khó khăn để
có cách giải quyết.
PHIẾU 2. NHÓM TỰ ĐÁNH GIÁ
Ngày thángnăm. tiết..
Tên bài TT:.
Tên nhóm TT:.....lớp
Giáo viên hướng dẫn:
STT Nội dung
1 Nhiệm vụ của nhóm là gì?
2 Mục tiêu cần đạt của nhóm là gì?
3 Nhóm đã làm tốt điều gì?
4 Nhóm gặp những khó khăn gì khi thực hiện công việc?
5 Nếu được làm lại, nhóm sẽ làm gì?
PHIẾU 3. ĐÁNH GIÁ THUYẾT TRÌNH
(Dành cho GV đánh giá HS và các nhóm đánh giá lẫn nhau)
Ngày thángnăm tiết..
Bài TT:
Tên nhóm đánh giá:lớp .
Tên nhóm được đánh giá:.. lớp .
Giáo viên hướng dẫn:
Tiêu chí
đánh giá
Nội dung đánh giá Thang
điểm
Nhận
xét
Mức
đạt
Hình thức
(25 điểm)
Bố cục bài TT đầy đủ ba phần 5
Không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. 5
Logic, khoa học trong quá trình bày luận
điểm, luận cứ.
5
33
Sử dụng sơ đồ biểu bảng phù hợp với nội dung 3
Hình ảnh minh họa phong phú và độc đáo. 2
Sáng tạo trong hình thức kết cấu. 5
Nội dung
(50 điểm)
Đảm bảo yêu cầu của từng phần: giới thiệu
(5đ), nội dung chính (10đ), kết luận (5đ)
20
Trong từng luận điểm nêu được dẫn chứng
và lí giải dẫn chứng thuyết phục
20
Có những cảm nhận, phát hiện mới lạ,
độc đáo.
10
Phong
cách TT
(15 điểm)
TT to, rõ, thuyết phục. 5
Hình thức TT ấn tượng thu hút được các
thành viên trong lớp tham gia.
10
Sự phối
hợp trong
nhóm
(10 điểm)
Phối hợp giữa các thành viên trong quá trình
TT, trả lời câu hỏi của các nhóm khác
10
Tổng
cộng
100
Điểm cho bài TT của HS là tổng
hợp của sự tự đánh giá của HS, đánh
giá lẫn nhau của các nhóm và đánh giá
của GV.
6. DỮ LIỆU VÀ PHÂN TÍCH DỮ LIỆU
6.1. Dữ liệu
Các dữ liệu được thu thập trong quá
trình HS TN là: 8 file word bài TT của các
nhóm, 8 file powerpoint bài TT của các
nhóm, 8 phiếu tự đánh giá của các nhóm,
21 phiếu các nhóm đánh giá lẫn nhau, 29
phiếu điều tra ý kiến HS sau TN, bảng hỏi
sau tiến trình TN, 8 bản ghi chép của GV
về các tiết TN.
6.2. Phân tích dữ liệu
Các dữ liệu được phân tích bằng phương
pháp đ nh tính để đánh giá hiệu quả của TN.
Dưới đây, chúng tôi sẽ lần lượt trả lời các
câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra.
(1) HS chủ động kiến tạo kiến thức, thể
hiện ý kiến cá nhân về văn bản
Quá trình TN cho thấy năng lực kiến
tạo kiến thức của người học được phát
triển, thể hiện ở nhiều phương diện. Thứ
nhất, HS tích cực đón nhận tình huống học
tập, hăng hái đăng ký VB mà nhóm yêu
thích. Việc chủ động đón nhận tình huống
học tập của người học là tiền đề thúc đẩy
tinh thần tự giác, tích cực của người học.
Các nhóm chủ động lập kế hoạch thực
hiện, phân chia công việc cho từng thành
viên. HS có cơ hội phát huy trí tưởng
tượng, sự sáng tạo trong cách phân tích và
đánh giá về VB. Khi TT về VB “Chí
Phèo”, nhóm 4 triển khai 3 luận điểm: quá
trình tha hóa của Chí Phèo, khát vọng hoàn
lương của Chí Phèo, bi k ch của Chí Phèo.
Về nghệ thuật, nhóm nêu nghệ thuật kể
34
chuyện và xây dựng nhân vật của tác giả.
Trong khi đó, nhóm 1 lại phân tích VB
theo kiểu cắt ngang, từ những chi tiết tiêu
biểu trong từng tình huống cụ thể để tìm ra
ý nghĩa.Về nghệ thuật: nhóm này so sánh
nghệ thuật xây dựng nhân vật Chí Phèo với
các nhân vật khác. Nếu GV chỉ sử dụng PP
diễn giảng truyền thống thì HS không có
cơ hội thể hiện những cách tiếp cận khác
nhau về VB.
Nhóm 4 thể hiện rất sáng tạo mối quan
hệ giữa Chí Phèo với các nhân vật khác
bằng sơ đồ (hình 1).
Hình đồ 1. Sơ đồ mối quan hệ giữa các nhân vật trong tác phẩm Chí Phèo
Sơ đồ trên tuy chưa khái quát chính
xác về mối quan hệ giữa các nhân vật
nhưng thể hiện cách nhìn của các em về
nhân vật dưới góc độ thiện, ác, bản năng
tính dục và bản năng xâm hại/b xâm hại.
Dù bản TT của hai nhóm thiết kế theo
những cách khác nhau nhưng đều đáp ứng
yêu cầu của bài học. Khi tiến hành khảo sát
sau TN, với câu hỏi “Người học có được
chủ động trong quá trình tìm kiếm thông
tin và thể hiện thông tin?”, 87,7% HS
khẳng đ nh được chủ động trong tiếp nhận
tri thức.
Thứ hai, HS học được kiến thức mới
thông qua các tương tác với GV và bạn học
(với bạn cùng nhóm và giữa các nhóm).
HS thường xuyên chủ động trao đổi với
GV về tài liệu cần đọc, về những điểm cần
chỉnh sửa trong bản TT (cả nội dung lẫn
hình thức), về phong cách TT. HS thảo
luận, tranh luận về cách khai thác từng chi
tiết trong VB, về cách thể hiện bài TT. Quá
trình thảo luận cho HS cơ hội tự kiến tạo
kiến thức và tự điều chỉnh kiến thức của
mình khi so sánh cách hiểu trước đây của
bản thân với cách hiểu của những người
khác về VB. Ví dụ dưới đây thể hiện rõ
điều này. Khi TT về VB “Đời thừa” (Nam
Cao), nhóm 4 chỉ tập trung vào những bi
k ch của nhân vật Hộ. Khi nhóm 3 nêu câu
hỏi “Ngoài việc nói lên bi kịch của người
trí thức, Nam Cao có đề cập đến vấn đề
nào khác?”, nhóm 4 lúng túng chưa trả lời
được, nhưng khi nghe GV đọc một số câu
“Văn chương không cần đến những người
thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu
đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những
người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những
nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái
gì chưa có”, nhóm 4 nhận ra “tác giả
không chỉ phản ánh, bày tỏ thái độ của
mình trước hiện thực mà còn thể hiện
Hướng
thiện