Phát triển nền giáo dục Việt Nam theo tinh thần văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng

1. MỞ ĐẦU Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế tri thức đã thực sự trở thành “đích ngắm” trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia. Từ sự tác động mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới, năng lượng nền kinh tế thế giới đang dần chuyển mình phát triển một cách toàn diện, từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức1. Đây là một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử đối với quá trình phát triển của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Ngày nay, vai trò của nền kinh tế tri thức được khẳng định, nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất, vai trò của giáo dục lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Nhận thức rõ điều này, Đảng ta đã từng khẳng định “cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”[1, 107], chú trọng “nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện” [3, 216] tạo cơ sở vật chất cho nước ta phát triển nhanh và bền vững. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta cũng đã nhấn mạnh “giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước nền văn hoá và con người Việt Nam” [3, 77]. Tại Đại hội XI, Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ45 là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển” [3, 77].

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 299 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển nền giáo dục Việt Nam theo tinh thần văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
44 TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 9 - Thaùng 4/2012 PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM THEO TINH THẦN VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XI CỦA ĐẢNG TRẦN MAI ƯỚC(*) TÓM TẮT Với bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, giáo dục đã trở thành nhân tố quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong yêu cầu phát triển của đất nước, việc đổi mới giáo dục là một cuộc cách mạng. Nó gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, tạo tiền đề để xây dựng đất nước phát triển nhanh và mạnh trong giai đoạn tới. Từ khoá: giáo dục, chiến lược, đại hội, nâng cao, giải pháp ABSTRACT In the context of current globalization, education has become an important factor for the socio-economic development. Educational reform is a revolution for the requirement of the national development, which has attached the strategy of the socio-economic development of 2011-2020 to the cause of national industrialization and modernization, thus creating good grounds for the rapid and vigorous national development in the coming stage. Key words: educational globalization, strategy, congress, document, revolutionary cause, to improve, solution 1. MỞ ĐẦU Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế tri thức đã thực sự trở thành “đích ngắm” trong chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia. Từ sự tác động mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới, năng lƣợng nền kinh tế thế giới đang dần chuyển mình phát triển một cách toàn diện, từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức1. Đây là một bƣớc ngoặt có ý nghĩa lịch sử đối với quá trình phát triển của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Ngày nay, vai trò của nền kinh tế tri thức đƣợc khẳng định, nổi bật trong quá trình phát triển lực lƣợng sản xuất, (*) ThS, Trƣờng Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh vai trò của giáo dục lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Nhận thức rõ điều này, Đảng ta đã từng khẳng định “cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài”[1, 107], chú trọng “nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện” [3, 216] tạo cơ sở vật chất cho nƣớc ta phát triển nhanh và bền vững. Trong cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta cũng đã nhấn mạnh “giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nƣớc nền văn hoá và con ngƣời Việt Nam” [3, 77]. Tại Đại hội XI, Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ 45 là quốc sách hàng đầu; đầu tƣ cho giáo dục và đào tạo là đầu tƣ phát triển” [3, 77]. Với bối cảnh nhƣ vậy, giáo dục và đào tạo đã trở thành nhân tố quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Các nƣớc trên thế giới kể cả những nƣớc đang phát triển, đều coi giáo dục là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc gia. Do xác định giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam, từ Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng (1979) đã ban hành Quyết định số 14-NQTƢ về cải cách giáo dục với tƣ tƣởng: Xem giáo dục là bộ phận quan trong của cuộc cách mạng tƣ tƣởng; Thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trƣởng thành; Thực hiện tốt nguyên lí giáo dục: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trƣờng gắn liền với xã hội. Tƣ tƣởng chỉ đạo trên đƣợc phát triển bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu thực tế qua các kì Đại hội VI, VII, VIII, IX, X của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội X đã xác định mục tiêu giáo dục là nhằm bồi dƣỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nƣớc, lòng tự tôn dân tộc, lí tƣởng chủ nghĩa xã hội, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo nàn, đào tạo lớp ngƣời lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ năng lực nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với chính trị, có ý chí vƣơn lên về khoa học – công nghệ. Nhằm đáp ứng yều cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc và xu thế đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta chủ trƣơng phát triển nền giáo dục khoa học, đại chúng, hƣớng đến xây dựng một xã hội học tập thực thụ: “tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời” [2, 206 - 207]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng diễn ra từ ngày 11 đến ngày 19- 1-2011 tại thủ đô Hà Nội đã thành công tốt đẹp. Ngoài việc bầu ra Ban Chấp hành Trung ƣơng và Bộ Chính trị, đại hội đã thông qua Nghị quyết và các văn kiện quan trọng: Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kì quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ƣơng khoá X tại Đại hội XI của Đảng và Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi) với nhiều đổi mới thiết thực. Đại hội XI cũng đã nhấn mạnh việc phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hƣớng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lí giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí là khâu then chốt[3, 130 - 131]. Phát triển, nâng cao chất lƣợng giáo dục và đào tạo, chất lƣợng nguồn nhân lực[3, 321], gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Xác định rõ giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng nền văn hoá và con ngƣời Việt Nam, tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau[3, 103]. 2. NỘI DUNG 2.1. Tầm quan trọng của việc phát triển nền giáo dục Việt Nam Có thể nói rằng, trong giai đoạn mới của sự nghiệp phát triển giáo dục, với bối cảnh quốc tế chứa nhiều thời cơ và thách thức, trƣớc những yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế - xã hội và xu thế toàn cầu hoá, phát triển kinh tế tri thức[7, 95], yêu cầu phát triển đất nƣớc nhanh và bền vững, 46 thì việc đổi mới giáo dục là một cuộc cách mạng sâu sắc, nó gắn liền với chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, với sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc, nhằm làm cho đất nƣớc phát triển nhanh hơn, vững bền hơn, có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ hơn, tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong những giai đoạn tới. Trong không gian giáo dục hội nhập, từ nhu cầu cấp thiết của sự nghiệp CNH, HĐH, giáo dục phải đáp ứng những tiêu chuẩn do xã hội đặt ra và do những nhu cầu đổi mới tự thân của giáo dục. Hội nhập toàn cầu sẽ tạo ra nhiều cơ hội to lớn để đất nƣớc ra khỏi khu vực các nƣớc kém phát triển, nhƣng cũng đồng thời là thách thức lớn. Thời gian qua, Việt Nam tuy đã xoá tên khỏi danh sách các nƣớc kém phát triển, nhƣng trình độ kinh tế vẫn lạc hậu, tăng trƣởng chƣa bền vững, phân tầng xã hội và chênh lệch vùng miền chƣa thu hẹp, nguy cơ tụt hậu cao hơn về kinh tế kéo theo nguy cơ tụt hậu về giáo dục. Có thể xem rằng, sự tụt hậu của giáo dục Việt Nam là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự chậm phát triển về kinh tế. Chúng ta đang đứng trƣớc nguy cơ tụt hậu ngày càng xa với các nƣớc phát triển. Để đƣa đất nƣớc thoát khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển thì con ngƣời là yếu tố quyết định, trong đó vai trò của giáo dục đóng vai trò quan trọng. Muốn vậy, cần tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân, xây dựng một nền giáo dục trung thực, lành mạnh và hiện đại, đủ sức tạo ra chất lƣợng và hiệu quả thật sự trong sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực2, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lƣợng cao, đủ sức đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của kinh tế tri thức, góp phần vào quá trình phát triển kinh tế và thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập toàn cầu nhƣ hiện nay[11, 246]. Tuy nhiên, cho đến nay, nền giáo dục nƣớc ta vẫn trong tình trạng chậm đổi mới, thể hiện qua việc đƣợc tăng đầu tƣ tài chính nhƣng hiệu quả sử dụng chƣa cao3, công tác tổ chức, cán bộ, chế độ, chính sách chậm đổi mới, chất lƣợng giáo dục còn thấp và không đồng đều giữa các vùng miền, quan tâm đến phát triển số lƣợng nhiều hơn chất lƣợng, quản lí của nhà nƣớc về giáo dục nhiều lúc còn lúng túng, chƣa có biện pháp để khắc phục triệt để xu hƣớng thƣơng mại hoá, sa sút về đạo đức trong giáo dục. Chƣơng trình, giáo trình, tài liệu tham khảo thiếu cập nhật những thông tin mới, kiến thức mới, chậm hiện đại hoá để đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của xã hội, của thực tiễn đặt ra, đặc biệt là trong quá trình hội nhập4. Thêm nữa, cơ chế hoạt động và hệ thống văn bản pháp quy từ Trung ƣơng chƣa đầy đủ, rõ ràng, thiếu tính cập nhật thƣờng xuyên, việc nhận thức về xã hội hoá giáo dục chƣa đồng đều, chƣa thống nhất giữa các lực lƣợng xã hội [10, 502]. Ngoài ra, việc đổi mới phƣơng pháp dạy và học đến nay vẫn chƣa tạo bƣớc đột phá về chất, tình trạng dạy theo kiểu truyền thống, thụ động, một chiều vẫn còn phổ biến, ít có điều kiện để thực hành, chƣa có thống nhất về phƣơng pháp và tài liệu phục vụ đổi mới phƣơng pháp dạy và học, một bộ phận nhà giáo có trình độ ngoại ngữ, tin học còn hạn chế, việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy và học chƣa đƣợc thực hiện rộng rãi. Đánh giá và nhận định về điều này, văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ: “chất lƣợng giáo dục và đào tạo chƣa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chƣa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu xã hội. Chƣa giải quyết tốt 47 mối quan hệ giữa tăng số lƣợng, quy mô với nâng cao chất lƣợng, giữa dạy chữ và dạy ngƣời. Chƣơng trình, nội dung, phƣơng pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lí giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lƣợng giáo dục toàn diện giảm sút, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quản lí nhà nƣớc về giáo dục còn bất cập. Xu hƣớng thƣơng mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội” [3, 107 – 168]. 2.2. Nội dung phát triển nền giáo dục Việt Nam theo tinh thần văn kiện Đại hội Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của việc đổi mới căn bản, toàn diện và mạnh mẽ nền giáo dục Việt Nam, nhất là trƣớc yêu cầu phát triển đất nƣớc nhanh và bền vững trong bối cảnh thế giới hội nhập và phát triển, Bộ Chính trị đã nêu rõ bảy nhóm nhiệm vụ, giải pháp cần thực hiện tốt để phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020: Thứ nhất, nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho HSSV, mở rộng quy mô giáo dục hợp lí. Phát triển quy mô hợp lí cả giáo dục đại trà và mũi nhọn, rà soát và bổ sung cơ chế, chính sách, tổ chức phát hiện, bồi dƣỡng nhân tài ngay từ bậc học phổ thông... Nhóm giải pháp thứ hai là đổi mới mạnh mẽ quản lí nhà nƣớc đối với giáo dục và đào tạo. Trong đó cần “chấn chỉnh, sắp xếp lại hệ thống các trƣờng đại học, cao đẳng, đội ngũ cán bộ giảng dạy, cơ sở vật chất, trang thiết bị và đầu vào của sinh viên, không duy trì các trƣờng đào tạo có chất lƣợng kém”. Hai nhóm giải pháp tiếp theo là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục đủ về số lƣợng, chất lƣợng và tiếp tục đổi mới chƣơng trình, tạo chuyển biến mạnh mẽ về phƣơng pháp giáo dục. Rà soát toàn bộ chƣơng trình và sách giáo khoa phổ thông, sớm khắc phục tình trạng quá tải, nặng về lí thuyết, nhẹ về thực hành, chƣa khuyến khích đúng mức tính sáng tạo của ngƣời học; chuẩn bị kĩ việc xây dựng và triển khai thực hiện bộ chƣơng trình giáo dục phổ thông mới theo hƣớng hiện đại, phù hợp và có hiệu quả. Nhóm giải pháp thứ năm, yêu cầu tăng đầu tƣ nhà nƣớc cho giáo dục và đào tạo, đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo nhằm góp phần quan trọng nâng cao chất lƣợng. Hai nhóm giải pháp cuối cùng, Bộ Chính trị yêu cầu Chính phủ, các cấp ủy, chính quyền... thực hiện để phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020 là bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục và tăng cƣờng hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Trong quá trình đổi mới và hội nhập hiện nay, giáo dục ở nƣớc ta đã bắt đầu thực hiện lộ trình hội nhập với thế giới và đã đạt đƣợc một số kết quả bƣớc đầu. Chi ngân sách nhà nƣớc cho giáo dục, đào tạo đạt trên 20% tổng chi; việc huy động các nguồn lực xã hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đƣợc quan tâm. Quy mô giáo dục tiếp tục đƣợc phát triển. Đến năm 2010, tất cả các tỉnh thành, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm 2010 đạt 40% tổng số lao động đang làm việc. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ đƣợc đẩy mạnh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội [2, 12 - 13]. Trong điều kiện giáo dục đã trở thành đại chúng, giáo dục đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân và nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lƣợng cao 48 cho phát triển kinh tế - xã hội, với mạng lƣới trƣờng lớp và quy mô giáo dục phát triển rộng khắp trên phạm vi toàn quốc thì việc chuyển từ mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình phát triển mới, năng động hơn, chất lƣợng và hiệu quả hơn là một yêu cầu khách quan. Chúng ta cần thật sự thực hiện phƣơng châm "giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu" [1, 107]. Cần nhận thức rõ “đầu tƣ cho giáo dục là đầu tƣ phát triển” và cần phải xem việc “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu” [3, 130], thực hiện lời dạy "vì lợi ích mƣời năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng ngƣời" [5, 180] của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Xây dựng nên một nền giáo dục có tính toàn diện: Từ thể chất, đến tinh thần, đạo đức và tri thức; giáo dục toàn dân: xã hội hoá giáo dục; và một nền giáo dục trọn đời, một xã hội học tập. Tập trung nâng cao chất lƣợng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành, khả năng lập nghiệp [3, 131]. Cần xây dựng tƣ tƣởng: dạy và học để phục vụ Tổ quốc, giáo dục phải toàn diện, phải nhằm mục tiêu đào tạo con ngƣời lao động mới, phải coi trọng cả tài lẫn đức [8, 32]. Không những phải giàu về tri thức mà còn phải có đạo đức cách mạng. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng khắc phục những yếu kém trầm kha nhiều năm qua của nền giáo dục nƣớc nhà. Đảng, Nhà nƣớc, và toàn thể cộng đồng hãy cùng hƣởng ứng thiết thực phong trào xóa bỏ tiêu cực trong giáo dục, tôn vinh giá trị thực học. Chúng ta phải phát huy truyền thống cần cù, thông minh, hiếu học của dân tộc; biến đó thành một lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế tri thức. 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN Xuất phát từ nhận thức: yêu cầu phát triển đất nƣớc nhanh và bền vững trong bối cảnh thế giới hội nhập và phát triển, có nhiều cơ hội nhƣng cũng lắm thách thức, bắt buộc nền giáo dục nƣớc ta phải đƣợc đổi mới toàn diện và căn bản. Đặc biệt, từ yêu cầu đổi mới tƣ duy trong quản lí giáo dục mà Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã có những chỉ thị, nghị quyết và các quyết định quan trọng về giáo dục. Để làm đƣợc điều này, theo chúng tôi thì cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp sau: 3.1. Trong xu thế hội nhập và mở cửa nhƣ hiện nay cần phải tiến hành đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cơ chế quản lí giáo dục. Phát triển môi trƣờng pháp lí về giáo dục hoàn chỉnh theo hƣớng xây dựng và phát triển một nền giáo dục hiện đại, có tính mở, phù hợp với khuynh hƣớng và xu thế vận động của các nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Nên thay đổi quan điểm về qui trình giáo dục, luôn có một chiến lƣợc linh hoạt và đổi mới để theo kịp một nền kinh tế và một quốc gia đang trên đà phát triển mạnh mẽ nhƣ Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu tổng quát mà Đại hội XI đề ra đó là: Phấn đấu đến năm 2020, nƣớc ta cơ bản thành nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỉ cƣơng, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đƣợc nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đƣợc giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trƣờng quốc tế tiếp tục đƣợc nâng cao; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau [3, 103]. 3.2. Tăng cƣờng công tác bồi dƣỡng, phát hiện, giáo dục và đào tạo đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lí giáo dục [12]. Các nghiên cứu khoa học quản lí giáo dục mới đây đã cho thấy rằng, chính chất lƣợng của đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục đóng vai trò quyết định tới hiệu quả của đổi mới 49 giáo dục và có ảnh hƣởng quan trọng đến sự phát triển cộng đồng; Chất lƣợng quản lí quyết định tới chất lƣợng đào tạo trong các nhà trƣờng. Việc hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách trong các khâu tuyển dụng, bố trí, sử dụng, đãi ngộ đƣợc hoàn thiện, tạo điều kiện cho việc ổn định, thu hút và phát triển đội ngũ nhà giáo, nhằm đảm bảo tốt yêu cầu Chỉ thị 40-CT/TW của Trung ƣơng về xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục đáp ứng công cuộc CNH, HĐH thời hội nhập, thực hiện chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020 theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng. 3.3. Có chính sách cụ thể khuyến khích tăng cƣờng hợp tác quốc tế về giáo dục theo hƣớng song phƣơng, đa phƣơng, đa dạng hoá, đẩy mạnh liên kết đào tạo, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn O.D.A, thu hút và phát huy sự đóng góp của các chuyên gia nƣớc ngoài và ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài với hƣớng tiên quyết là cần xác định rõ lại mục tiêu hợp tác quốc tế về giáo dục và coi đó nhƣ một tiêu chí, thƣớc đo về chất lƣợng, thƣơng hiệu của cơ sở đào tạo. Theo tinh thần đó, giáo dục phải gắn chặt giảng dạy với nghiên cứu khoa học và tăng cƣờng quan hệ, hợp tác quốc tế, trao đổi, giao lƣu học thuật. Đi đôi với việc đổi mới phƣơng pháp dạy và học, cần phát huy tối đa nguồn lực cho công tác hợp tác quốc tế về giáo dục theo hƣớng tạo ra bƣớc chuyển mình lớn để phát triển giáo dục, từng bƣớc chuyển sang mô hình giáo dục mở, với ƣu tiên hàng đầu trong đào tạo nhân lực, nhân tài và nâng cao chất lƣợng, xây dựng nền giáo dục hiện đại, tiếp cận trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. 3.4. Trong giai đoạn mới của sự nghiệp phát triển giáo dục, với bối cảnh quốc tế chứa nhiều thời cơ và thách thức, trƣớc những yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế - xã hội, cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trƣờng và hội nhập quốc tế, nên chăng cần xây dựng một triết lí giáo dục mới cho nền giáo dục quốc dân, với những yêu cầu mới để phù hợp hơn với nền xu thế, khuynh hƣớng giáo dục thời kì đổi mới và hội nhập về mục tiêu đào tạo, nội dung chƣơng trình, phƣơng pháp đào tạo. Bên cạnh đó, nên kết hợp đồng thời đổi mới việc tuyển sinh theo hƣớng gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng của xã hội, của nền kinh tế, có tính đến sự phát triển của xã hội và của nền kinh tế trong tƣơng lai trung và dài hạn. Có thể nói rằng, trong giai đoạn mới của sự nghiệp phát triển giáo dục, với bối cảnh quốc tế chứa nhiều thời cơ và thách thức, trƣớc những yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế - xã hội, cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trƣờng và hội nhập quốc tế. Việc chúng ta chính thức gia nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO) với cam kết mở cửa thị trƣờng giáo dục đại học đã tạo áp lực trực tiếp buộc chúng ta phải đổi mới tƣ duy giáo dục – đào tạo. Một khi nguồn nhân lực đã đƣợc
Tài liệu liên quan