Tóm tắt. Vùng Đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH) là một vùng kinh tế tương đối phát triển
của cả nước với sự ưu thế của các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, sự phân hóa
giữa các địa phương tương đối rõ rệt do sự khác biệt về các điều kiện phát triển. Vùng ven
biển ĐBSH nhờ những lợi thế về nguồn tài nguyên tự nhiên và dân cư đã phát triển mạnh
các ngành nghề nông nghiệp, thủy sản bên cạnh các lĩnh vực phi nông nghiệp. Các ngành
nghề này đã tác động mạnh đến sinh kế của người dân và cho đến nay, sinh kế của người
dân vùng ven biển vẫn phụ thuộc nhiều vào các hoạt động nông, ngư nghiệp. Chính điều
này đã hạn chế những thành quả của công cuộc giảm nghèo tại đây. Dựa trên việc phân tích
các thế mạnh về tự nhiên, kinh tế và dân cư, bài báo tập trung làm rõ hiện trạng phát triển
của các sinh kế chủ yếu của người dân vùng ven biển ĐBSH và những tác động của sinh
kế đến quá trình giảm nghèo tại địa phương.
11 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 25 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển sinh kế và tác động đến giảm nghèo của cộng đồng ven biển đồng bằng sông Hồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0079
Social Sci., 2017, Vol. 62, Iss. 7, pp. 182-192
This paper is available online at
PHÁT TRIỂN SINH KẾ VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN GIẢM NGHÈO
CỦA CỘNG ĐỒNG VEN BIỂN ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Trần Thị Hồng Nhung
Khoa Việt Nam học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Vùng Đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH) là một vùng kinh tế tương đối phát triển
của cả nước với sự ưu thế của các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, sự phân hóa
giữa các địa phương tương đối rõ rệt do sự khác biệt về các điều kiện phát triển. Vùng ven
biển ĐBSH nhờ những lợi thế về nguồn tài nguyên tự nhiên và dân cư đã phát triển mạnh
các ngành nghề nông nghiệp, thủy sản bên cạnh các lĩnh vực phi nông nghiệp. Các ngành
nghề này đã tác động mạnh đến sinh kế của người dân và cho đến nay, sinh kế của người
dân vùng ven biển vẫn phụ thuộc nhiều vào các hoạt động nông, ngư nghiệp. Chính điều
này đã hạn chế những thành quả của công cuộc giảm nghèo tại đây. Dựa trên việc phân tích
các thế mạnh về tự nhiên, kinh tế và dân cư, bài báo tập trung làm rõ hiện trạng phát triển
của các sinh kế chủ yếu của người dân vùng ven biển ĐBSH và những tác động của sinh
kế đến quá trình giảm nghèo tại địa phương.
Từ khóa: Ven biển ĐBSH, sinh kế, giảm nghèo.
1. Mở đầu
Vùng ven biển ĐBSH bao gồm địa bàn của 4 tỉnh, thành: Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định
và Ninh Bình. Diện tích của vùng là 6.129 km2, chiếm 41,0% tổng diện tích của toàn vùng ĐBSH
và dân số vùng ven biển là 6.516,1 nghìn người (33,4% toàn vùng) [1]. Đây là khu vực có vị trí
quan trọng, là cửa ngõ ra biển của toàn bộ khu vực phía Bắc nước ta, đồng thời là cầu nối trực tiếp
giữa hai khu vực phát triển kinh tế năng động: Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Được bồi đắp bởi
hai hệ thống sông lớn, nền nông nghiệp lúa nước trong vùng đã tồn tại và phát triển lâu đời với
trình độ thâm canh cao. Với hơn 400km đường bờ biển, vùng có điều kiện phát triển tổng hợp các
ngành kinh tế biển. Lịch sử khai thác lãnh thổ lâu đời cùng với nguồn nhân lực dồi dào cho phép
vùng phát triển nền kinh tế với cơ cấu ngành đa dạng. Điều này đã tạo điều kiện cho cư dân trong
vùng tiếp cận và lựa chọn những ngành nghề đa dạng, để hình thành nên hệ thống sinh kế phong
phú với nhiều quy mô và trình độ phát triển khác nhau.
Ngày nhận bài: 15/1/2017. Ngày nhận đăng: 25/7/2017
Liên hệ: Trần Thị Hồng Nhung, e-mail: trannhungvnh@gmail.com
182
Phát triển sinh kế và tác động đến giảm nghèo của cộng đồng ven biển Đồng bằng sông Hồng...
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Các nhân tố tác động đến sinh kế vùng ven biển Đồng bằng Sông Hồng
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Địa hình ven biển ĐBSH tương đối bằng phẳng, hơi nghiêng về phía biển, độ dốc nhỏ, dao
động từ 0,04 đến 0,05 m/km, nhưng phần lớn diện tích chỉ cao dưới 1m so với mực nước biển. Quá
trình hình thành đồng bằng vẫn đang tiếp diễn nhờ vào việc bồi tụ phù sa của sông Hồng và các
chi lưu chuyển ra biển. Một đặc điểm tương đối nổi bật trong địa hình của khu vực là sự hình thành
các cồn cát, với độ cao khoảng trên 1m, là địa bàn để xây dựng các làng mạc. Giữa các cồn cát là
khu vực đất trũng thấp hơn dùng để canh tác nông nghiệp.
Về khí hậu, các tỉnh ven biển mang đặc điểm chung của khí hậu toàn vùng là tính chất nhiệt
đới ẩm gió mùa. Nhưng do vị trí ở gần biển nên độ ẩm được tăng cường khá nhiều. Tổng lượng
bức xạ lớn (95 – 105 Kcal/cm2/năm), tổng nhiệt độ khoảng 8000 – 85000C và có sự khác biệt giữa
hai mùa. Vào mùa đông, nhiệt độ của khu vực cao hơn so với vùng trung tâm, tuy nhiên sự chênh
lệch nhiệt độ không nhiều (dưới 10C) và lượng mưa cũng có sự gia tăng do ảnh hưởng của biển.
Vào mùa hè, ảnh hưởng của bão gây tác hại rất lớn đến sản xuất và sinh hoạt của người dân trong
vùng, đặc biệt là ngư dân.
Tổng lượng dòng chảy ở vùng ven biển là 1,964 tỉ m3 nước và tổng lượng mưa là 4,073
tỉ m3. Vùng này hàng năm nhận được lượng phù sa lớn của sông Hồng và sông Thái Bình (sông
Hồng 115 triệu tấn, sông Thái Bình 17 triệu tấn/năm) [2]. Điều này đã tạo nên khả năng bồi đắp
phù sa làm cho diện tích đồng bằng được mở rộng hơn.
Tài nguyên nước mặt dải ven biển ĐBSH dồi dào song nước bị nhiễm mặn chiếm một tỉ lệ
lớn. Nước ở đây thích hợp cho nuôi trồng thủy sản và phát triển giao thông thủy hơn là phát triển
nông nghiệp. Tuy nhiên, ảnh hưởng của thủy triều và biển ở vùng này yếu hơn so với ảnh hưởng
của sông, nước mặn vào không sâu, dòng chảy ngược kém. Đây cũng là nơi tiếp nhận các nguồn
thải từ lục địa đưa ra nhưng cho đến nay, mức độ ô nhiễm chưa đến mức báo động. Mặt khác, khu
vực này là nơi tương tác giữa nước mặn và nước ngọt nên đã xảy ra các phản ứng hóa học gây hiện
tượng ngưng keo kết bông làm lắng đọng các chất bẩn
Tài nguyên đất trong vùng chủ yếu là những vùng đất mới, luôn biến động dưới tác động
của tự nhiên và con người. Loại đất phổ biến nhất ở ven biển ĐBSH là đất mặn, tuy nhiên, so với
trước, diện tích có xu hướng giảm xuống do bị phèn hóa và được cải tạo (rửa mặn thành đất phù sa)
hoặc sử dụng cho các mục đích phi nông nghiệp. Thay vào đó, diện tích đất phèn lại tăng lên. Đất
phù sa có diện tích tương đối hạn chế (đứng thứ hai sau đất mặn) là loại đất tốt nhất cho canh tác
nông nghiệp nhưng hiện nay phần lớn được phân bố ở trong đê, ít được bồi đắp hàng năm. Dưới
tác động của quá trình canh tác nông nghiệp, chất lượng đất đang ngày càng biến đổi theo chiều
hướng tiêu cực do việc sử dụng nhiều loại phân bón hóa chất quá mức cho phép.
Với đặc trưng của một vùng nông nghiệp trù phú, gần một nửa diện tích đất tự nhiên của
vùng ven biển ĐBSH vẫn được dành cho sản xuất nông nghiệp. Diện tích đất rừng trong khu vực
còn tương đối hạn chế, chủ yếu là rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Là khu vực ven biển nên có
tới 8% diện tích được khai thác cho nuôi trồng thủy sản. Trong những năm qua, diện tích đất nuôi
trồng thủy sản có xu hướng tăng lên và thay thế cho đất làm muối. Diện tích đất muối đang giảm đi
rõ rệt và đến năm 2015 chỉ còn khoảng 970ha, tập trung tại Nam Định và Hải Phòng. Đất chuyên
dùng chiếm một tỉ lệ đáng kể và hiện là nhóm đất đứng thứ hai trong cơ cấu sử dụng đất của vùng
ven biển do sự gia tăng dân số và sự tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực sản xuất phi nông nghiệp.
183
Trần Thị Hồng Nhung
Biểu 1. Cơ cấu sử dụng đất vùng ven biển Đồng bằng Sông Hồng
(Nguồn: Tính toán theo Niên giám thống kê các tỉnh năm 2015)
Là vùng đất được khai thác lâu đời, lại có số dân đông nên dễ hiểu tại sao diện tích đất chưa sử
dụng của vùng ven biển ĐBSH lại rất thấp. Do đó khả năng mở rộng diện tích đất sản xuất của
vùng hầu như không thể.
Tài nguyên sinh vật của vùng ven biển tương đối đa dạng với 250 loài thực vật (trong đó có
19 loài sống trong bãi lầy mặn, 25 loài cây gỗ bờ biển, 6 loài ưa mặn trên cạn, 12 loài chịu mặn, 10
loài đất chua, 82 loài đất cát, 12 loài ở núi đá sát đầm lầy mặn, 6 loài cây nước lợ [2]. Các loài thực
vật này có thể được sử dụng trong công nghiệp nhuộm, thuộc da, dược phẩm, in, làm gỗ củi, thức
ăn gia súc và nuôi trồng thủy sản, là môi trường cho nghề nuôi ong và cánh kiến, làm dược liệu.
Ngoài ra thực vật ven bờ còn có vai trò to lớn trong việc bảo vệ bờ biển, chống xói lở bờ, bảo tồn
đa dạng sinh học. Về động vật có 166 loài chim, 44 loài thú, 33 loài bò sát, 7 loài ếch nhái trong
đó có nhiều loài quý hiếm có giá trị kinh tế và khoa học cao (5 loài chim, 6 loài thú, 9 loài bò sát)
có thể sử dụng làm dược liệu, thực phẩm và nguyên liệu cho hàng mỹ nghệ. Đặc biệt ở đây có một
số loài đặc hữu như Voọc đầu trắng và những loài có giá trị bảo tồn đặc biệt và có ý nghĩa kinh tế
cao như cò mỏ thìa, sơn dương, đồi mồi là thế mạnh cho việc bảo vệ đa dạng sinh học, phát triển
du lịch sinh thái và ngành chăn nuôi động vật đặc sản. Các loài thủy sinh cũng thống kê được 227
loài thực vật nổi, 125 loài động vật nổi, 143 loài rong biển, 440 loài động vật đáy vùng triều, 258
loài cá [2].
2.1.2. Dân cư và lao động
Vùng ven biển chiếm 40,9% diện tích của toàn vùng ĐBSH nhưng dân số chỉ bằng 33,4%,
và như vậy có mật độ dân số thấp hơn so với trung bình toàn vùng. Điều này liên quan đến các đặc
điểm về tự nhiên và kinh tế vùng ven biển. Về mặt tự nhiên, khu vực phía Nam của vùng, phần tiếp
giáp với Bắc Trung Bộ, ngoài đồng bằng còn có một diện tích khá lớn đồi núi (tập trung tại một số
huyện, thị của Ninh Bình).
Bảng 1. Diện tích, dân số và mật độ dân số các tỉnh ven biển ĐBSH năm 2015 [1]
Diện tích (km2) Dân số trung bình (Nghìnngười)
Mật độ dân số
(Người/km2)
Hải Phòng 1.527,4 1.963,0 1.274,0
Thái Bình 1.570,8 1.789,2 1.139,0
Nam Định 1.653,2 1.850,6 1.116,0
Ninh Bình 1.377,6 994,4 679,0
ĐBSH 14.957,7 19.505,8 1.300
184
Phát triển sinh kế và tác động đến giảm nghèo của cộng đồng ven biển Đồng bằng sông Hồng...
Về mặt kinh tế, cơ cấu kinh tế của tiểu vùng phía Nam ĐBSH phụ thuộc nhiều vào các hoạt
động nông, lâm, ngư nghiệp nên sức thu hút dân cư kém hơn so với phía Bắc vốn là khu vực đang
phát triển mạnh các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Chính vì vậy, ngay trong phạm vi vùng ven
biển cũng có sự phân hóa giữa khu vực phía Bắc và phía Nam.
Trong khi vùng ĐBSH có tỉ lệ đô thị hóa thấp hơn so với mức trung bình toàn quốc thì ở
khu vực ven biển, con số này còn thấp hơn nhiều. Mới chỉ có chưa đến 1/4 số dân vùng ven biển
sống ở thành thị. Việc tập trung quá nhiều người dân ở nông thôn trong điều kiện đất chuyên dùng
và đất khu dân cư ngày càng được mở rộng khiến cho khu vực nông thôn của vùng cũng có mật độ
dân số rất cao, hiện tượng đất chật, người đông biểu hiện rõ rệt.
Dân số đông nên vùng ven biển ĐBSH có lực lượng lao động dồi dào. Tính đến năm 2015,
lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của các tỉnh ven biển là 4.260.418 người, chiếm 64,58% dân
số của khu vực. Đây là một nguồn lực quan trọng, một thuận lợi lớn cho quá trình phát triển kinh
tế của vùng. Tuy nhiên, chất lượng lao động vẫn đang là một điểm hạn chế. Mặc dù trong một số
lĩnh vực lao động của vùng có chuyên môn khá nhưng nhìn chung còn chưa đáp ứng được nhu cầu
của quá trình phát triển trong thời kì hội nhập, khi mà tri thức và trình độ của người lao động mới
là nhân tố quan trọng hàng đầu. Hầu hết các nhà đầu tư khi tiếp nhận người lao động mới đều phải
qua quá trình đào tạo hoặc đào tạo lại (với cả đối tượng lao động không phức tạp cũng như lao
động trình độ cao). Điều này đã làm tăng chi phí và thời gian đối với các công ti, làm giảm sức hấp
dẫn đầu tư vào vùng.
2.1.3. Sự phát triển kinh tế
Bảng 2. Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế các tỉnh ven biển ĐBSH năm 2015
Chỉ tiêu Hải Phòng Thái Bình Nam Định Ninh Bình Cả nước
Tổng GRDP (tỉ đồng) 88.468,3 41.587 34.984,5 25.759,5 4.192.862
Tốc độ tăng trưởng (%) 10,24 8,75 6,42 9,13 6,68
GRDP bình quân đầu người
(triệu đồng/người) 64,57 29,46 34,94 34,77 45,7
Cơ cấu kinh tế (%)
- Nông, lâm, ngư nghiệp 7,52 35,23 24,0 14,28 17,0
- Công nghiệp – xây dựng 40,92 27,237 41,0 42,68 33,25
- Dịch vụ 51,56 37,54 35,0 43,04 49,75
(Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê 2015 của các tỉnh ven biển)
Trong những năm qua, kinh tế của vùng ven biển ĐBSH đã có những chuyển biến tích cực.
Quy mô kinh tế vùng ven biển phát triển theo chiều hướng tích cực và đã có sự chuyển dịch cơ
cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đóng góp lớn vào xuất khẩu, thu ngoại tệ. Kết cấu
hạ tầng vùng ven biển được cải thiện nhờ đầu tư tương đối đồng bộ; xây dựng được hệ thống các
đường dẫn đến các cảng biển, sân bay, khu du lịch, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu dân cư.
Trong giai đoạn 2010-2015, kinh tế vùng ven biển đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 7,0%/năm,
trong đó ngành nông nghiệp tăng 3,5%/năm, ngành công nghiệp - xây dựng tăng 7,3%/năm và
ngành dịch vụ tăng 8,1%/năm [3]. Tuy nhiên, nhìn chung so với khu vực trung tâm đồng bằng,
kinh tế của các tỉnh ven biển nhìn chung kém phát triển hơn cả về tổng sản phẩm, tốc độ tăng
trưởng cũng như cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế ven biển ĐBSH vẫn phụ thuộc nhiều vào nông, lâm, ngư nghiệp (trừ Hải
Phòng). Đây là đặc điểm nổi bật của vùng, phù hợp với điều kiện tự nhiên cũng như tập quán sản
xuất của người dân. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, công nghiệp – xây dựng trong vùng đã
185
Trần Thị Hồng Nhung
phát triển tương đối mạnh mẽ. Đến nay, công nghiệp đã trở thành khu vực kinh tế quan trọng nhất
trong vùng và tỉ trọng này cũng cao hơn so với mức chung của toàn quốc. Lĩnh vực dịch vụ còn
có vị trí khá khiêm tốn trong nền kinh tế toàn vùng và so với cả nước, tỉ trọng của ngành dịch vụ
vùng ven biển ĐBSH còn thấp hơn khá nhiều (trừ Hải Phòng là một trung tâm kinh tế, một cảng
biển quan trọng của miền Bắc). Quy mô tổng sản phẩm trên địa bàn của các địa phương còn khá
nhỏ mặc dù trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng cao hơn mức trung bình toàn quốc.
2.2. Các sinh kế chủ yếu của cộng đồng ven biển Đồng bằng Sông Hồng
2.2.1. Khái quát chung
Sự phát triển kinh tế đã tạo ra nhiều việc làm, giúp cho lao động trong vùng có cơ hội tiếp
cận với nhiều loại hình sinh kế. Trong những năm gần đây, lao động đang có quá trình chuyển
dịch mạnh từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Đây là xu hướng đáng
mừng của vùng ven biển, tuy nhiên thị trường lao động còn nhiều bất cập, chưa thực sự là cầu nối
giữa người lao động và người sử dụng nên cơ cấu lao động còn chưa hợp lí [3]. Việc đào tạo người
lao động được chú ý nhiều nhưng nhìn chung còn tỏ ra thiếu hiệu quả khi các ngành nghề đào tạo
chưa phù hợp với yêu cầu của thị trường.
Bảng 3. Tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm các tỉnh ven biển ĐBSH năm 2015 [5]
Tên tỉnh Tỉ lệ thất nghiệp (%) Tỉ lệ thiếu việc làm (%)
Hải Phòng 4,37 4,63
Thái Bình 1,98 3,12
Nam Định 1,66 3,54
Ninh Bình 1,17 2,67
ĐBSH 2,82 2,51
Tình trạng thất nghiệp tại đô thị không lớn lắm (trừ Hải Phòng) nhưng thiếu việc làm ở
nông thôn là một hiện tượng đáng lo ngại khi tỉ lệ này cao hơn nhiều so với mức chung của ĐBSH.
Điều này có thể được lí giải khi tỉ lệ lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp khá lớn, mà
nông nghiệp của vùng lại mang tính chất chuyên canh lúa nước điển hình với tính mùa vụ cao và
thời gian nông nhàn kéo dài. Thêm vào đó, diện tích đất canh tác ngày càng giảm khiến lực lượng
lao động dư thừa nhiều. Một bộ phận lao động không có khả năng đào tạo hoặc đào tạo lại để bắt
kịp với sự thay đổi của thị trường lao động mới (nhất là các lao động từ 30 tuổi trở lên và xuất
phát điểm là nghề nông). Vì vậy, trong khi nhiều ngành cần lao động có trình độ không tuyển dụng
được số người cần thiết thì tìm kiếm việc làm luôn là thách thức đối với người lao động vùng ven
biển ĐBSH. Trong điều kiện vùng ven biển có tỉ lệ đô thị hóa thấp, phần lớn người dân sống ở
nông thôn, tỉ lệ thiếu việc làm cao thực sự là một bài toán khó đối với các nhà quản lí và hoạch
định chính sách.
2.2.2. Sinh kế nông nghiệp
Mặc dù tỉ trọng của khu vực nông, lâm, thủy sản đang ngày càng giảm trong nền kinh tế
và tỉ trọng của ngành nông nghiệp (theo nghĩa hẹp) cũng có xu hướng giảm trong khu vực I, nông
nghiệp vẫn là sinh kế quan trọng nhất của cư dân vùng ven biển ĐBSH. ĐBSH là vùng trọng điểm
lương thực - thực phẩm thứ hai của cả nước, trong đó có phần đóng góp quan trọng của các tỉnh
ven biển, nhất là Nam Định và Thái Bình.
Sự phát triển của nông nghiệp đã thu hút một lực lượng lớn lao động tại khu vực ven biển.
Một nét đặc biệt là ngay tại các thôn, xã giáp biển, tỉ lệ lao động làm nông nghiệp (cả trong trường
186
Phát triển sinh kế và tác động đến giảm nghèo của cộng đồng ven biển Đồng bằng sông Hồng...
hợp là sinh kế chính hay sinh kế bổ sung) rất lớn.
Bảng 4. Một số tiêu chí ngành nông nghiệp của các tỉnh ven biển năm 2015
Tiêu chí Hải Phòng Thái Bình Nam Định Ninh Bình
Tỉ trọng nông nghiệp trong nông, lâm, ngư
nghiệp (%) 66,08 69,9 76,2 88,9
Cơ cấu nông nghiệp (%)
- Trồng trọt 48,9 52,8 54,4 63,5
- Chăn nuôi 46,0 44,3 42,5 34,1
- Dịch vụ nông nghiệp 5,1 2,9 3,1 2,4
(Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh ven biển năm 2015)
Điều này rất khác so với vùng Bắc Trung Bộ hay Duyên hải Nam Trung Bộ và được quy
định bởi điều kiện tự nhiên. Ở khu vực ven biển ĐBSH, do đường bờ biển bị lõm vào, lại có nhiều
sông và các cửa sông nên rất dễ được cải tạo thành các đồng ruộng cấy lúa. Tâm lí “dĩ nông vi bản”
vẫn là một tâm lí phổ biến của người dân địa phương nên dù có đường bờ biển dài nhưng người
dân ở đây vẫn giữ truyền thống sản xuất nông nghiệp. Hầu như địa phương nào người dân cũng
được chia ruộng (trừ một vài thôn xã đặc thù do biển lở và đất mặn quá nhiều không thể trồng cấy
được) và phần lớn diện tích này vẫn được dành để canh tác lúa.
Một khó khăn đối với người dân khu vực ven biển ĐBSH trong phát triển sinh kế nông
nghiệp là hiện tượng thiếu đất canh tác. Trong khi mỗi ha đất canh tác nông nghiệp của cả nước
có 2,7 lao động và phải nuôi 6,4 người thì ở vùng này con số tương ứng là 6,2 lao động và 15,7
người. Trung bình mỗi ha ruộng canh tác lúa cả nước có 6 lao động thì ở vùng này là 9 người. Đặc
biệt ở các vùng thuần nông và độc canh lúa nước, mỗi lao động nông nghiệp chỉ có một mảnh đất
khoảng 111m2 nên việc phát triển sản xuất gặp nhiều trở ngại, nhất là quá trình chuyển đổi sản
xuất quy mô lớn [6].
Biểu 2. Giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân hộ ở các tỉnh ven biển
(Nguồn: Tính toán từ Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2012)
Tại Nam Định và Ninh Bình, các hộ đã tích cực thay đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng nên hiệu
quả sản xuất cao. Đồng thời trong những năm gần đây, xu hướng thay đổi quy mô và phương thức
sản xuất theo hướng “dồn điền đổi thửa”, tiến lên sản xuất quy mô lớn đã giúp người dân tiết kiệm
chi phí đầu vào, đồng thời áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật để nâng cao năng suất. Trong khi
đó, phần đầu tư cho sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân tại khu vực phía Bắc tương đối hạn
chế nên tốc độ tăng giá trị bình quân tương đối chậm.
187
Trần Thị Hồng Nhung
2.2.3. Sinh kế thủy sản
Đây là loại hình sinh kế đặc trưng cho khu vực ven biển. Dựa trên những thế mạnh do thiên
nhiên mang lại, ngành thủy sản ở khu vực ven biển đã phát triển và đạt được nhiều kết quả đáng
ghi nhận.
Có thể nói, trong những năm gần đây sản lượng cũng như giá trị sản xuất của ngành thủy
sản các tỉnh đều đạt mức tăng trưởng khá. Nhưng nghề cá của các tỉnh này vẫn mang đặc trưng của
nghề cá quy mô nhỏ:
Bảng 5. Các tiêu chí ngành thủy sản ven biển ĐBSH năm 2015
Tiêu chí Hải Phòng Thái Bình Nam Định Ninh Bình
Giá trị sản xuất (tỉ đồng) 6.123,5 5.315,9 5.240,0 1.041
Cơ cấu ngành (%)
- Đánh bắt 36,0 28,2 38,5 8,1
- Nuôi trồng 60,7 68,9 59,4 89,9
- Dịch vụ 3,3 2.9 2.1 2,0
Diện tích nuôi trồng (ha)
- Nước ngọt 5.659,0 8.526 9.408 7.953
- Nước mặn, lợ 6.606,2 6.766 6.451 3.024
Sản lượng nuôi trồng (nghìn tấn) 51,7 107,0 66,4 32,7
Số tàu thuyền (chiếc) 3.375 1.169 1.964 580
Tổng công suất (CV) 146.736 78.264 97.198
Sản lượng đánh bắt (nghìn tấn) 55 58,6 44,5 5,67
(Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh ven biển năm 2015)
Biểu 3. Giá trị sản xuất thủy sản bình quân hộ các tỉnh ven biển ĐBSH
(Nguồn: Tính toán từ Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2012)
Nuôi trồng thủy sản tập trung chủ yếu ở nhóm thủy sản truyền thống, nhóm đặc sản chiếm
tỉ trọng thấp; phần lớn các tàu thuyền có công suất nhỏ, đánh bắt ven bờ. Nhìn chung ngành thủy
sản của khu vực chưa phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có.
Người dân ven biển chưa thực sự có tâm lí “hướng biển”. Sự hạn chế về nguồn vốn đầu tư
khiến ngư dân không thể trang bị các tàu thuyền có công suất lớn có thể vươn khơi và do đó bị giới
hạn trong vùng lộng vốn không mấy giàu có về nguồn lợi hải sản. Điều kiện sản xuất khó khăn
cũng không cho phép họ tiếp cận với những loại thủy hải sản có giá trị cao trong nuôi trồng. Và
điều đó đã ảnh hưởng đến thu nhập của họ.
188
Phát triển sinh kế và tác động đến giảm nghèo của cộng đồng ven biển Đồng bằng sông Hồng...
2.2.4. Nghề thủ công
Trong điều kiện sản xuất nông nghiệp lúa nước và đánh bắt thủy sản có tính mùa vụ cao,
với thời gian nông nhàn nhiều, không mấy ngạc nhiên khi cư dân vùng ven b