Phòng chống bệnh truyền nhiễm

Nguyên lý công tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm là vận dụng những kiến thức về ba pha của chu trình truyền lây mầm bệnh và các giai đoạn của quá trình sinh dịch vào công tác thực tiễn. Bệnh truyền nhiễm xảy ra được là do ba khâu của quá trình sinh dịch: nguồn bệnh, các nhân tố trung gian truyền bệnh và động vật cảm thụ, và sự liên hệ giữa ba khâu đó. Thiếu một trong ba khâu hoặc thiếu sự liên hệ giữa hai trong ba khâu đó thì dịch không xảy ra được.

pdf33 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2928 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phòng chống bệnh truyền nhiễm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 4 PHÒNG CHỐNG BỆNH TRUYỀN NHIỄM I. Các phương pháp phòng bệnh truyền nhiễm 1. Nguyên tắc chung của công tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm Nguyên lý công tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm là vận dụng những kiến thức về ba pha của chu trình truyền lây mầm bệnh và các giai đoạn của quá trình sinh dịch vào công tác thực tiễn. Bệnh truyền nhiễm xảy ra được là do ba khâu của quá trình sinh dịch: nguồn bệnh, các nhân tố trung gian truyền bệnh và động vật cảm thụ, và sự liên hệ giữa ba khâu đó. Thiếu một trong ba khâu hoặc thiếu sự liên hệ giữa hai trong ba khâu đó thì dịch không xảy ra được. Nguồn bệnh là khâu đầu tiên và chủ yếu, là xuất phát điểm của quá trình sinh dịch. Nhân tố trung gian truyền bệnh nối liền nguồn bệnh với cơ thể cảm thụ làm cho quá trình sinh dịch thực hiện thuận lợi. Động vật cảm thụ là yếu tố làm cho dịch biểu hiện ra, đồng thời nó lại biến thành nguồn bệnh làm cho quá trình sinh dịch được nhân lên, được thúc đẩy mạnh hơn. Trên cơ sở phân tích vai trò và sự liên hệ giữa các khâu trên, công tác phòng chống bệnh truyền nhiễm phải nhằm thực hiện cho được việc xóa bỏ một hoặc nhiều khâu, hoặc cắt đứt sự liên hệ giữa các khâu với nhau trong quá trình sinh dịch. Chỉ cần cắt đứt một khâu hoặc cắt đứt sự liên hệ giữa những hai khâu, cũng đủ làm cho quá trình sinh dịch không thực hiện được. Đó là nguyên lý cơ bản của mọi biện pháp phòng chống bệnh. Đương nhiên, chỉ giải quyết được một cách căn bản việc đó khi nhận thức của con người được nâng cao. Khi chưa có dịch các biện pháp phòng bệnh truyền nhiễm đều nhằm đề phòng dịch xuất hiện. Chủ chăn nuôi, chủ động vật chuyên chở phải chấp hành các yêu cầu thực hiện các biện pháp phòng dịch được quy định trong Pháp lệnh thú y, các Nghị định thi hành Pháp lệnh và Điều lệ phòng chống dịch bệnh cho động vật, trong đó việc xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh là trách nhiệm của mọi cá nhân, tổ chức và cơ quan quản lý nhà nước liên quan ngành chăn nuôi. Các cá nhân và tổ chức chăn nuôi động vật phải đăng ký xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật và phải chấp hành các quy định của pháp luật về thú y đối với vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật. Các tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan vùng an toàn dịch bệnh động vật phải chấp hành các quy định của pháp luật về thú y đối với vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật. Chính phủ có chương trình quốc gia về khống chế, thanh toán một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm của động vật, nhằm bảo đảm hiệu quả khống chế và thanh toán các dịch bệnh nguy hiểm của động vật và những bệnh từ động vật lây sang người, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu động vật và sản phẩm động vật, bảo đảm giảm dần số ổ dịch, số động vật mắc bệnh, tiến tới thanh toán dịch bệnh. Trong việc xây dựng chương trình này Chính phủ có chỉ đạo các các bộ, ngành có liên quan phối hợp Bộ Nông nghiệp và PTNT và Bộ Thủy sản trong việc xây dựng chương trình quốc gia về khống chế, thanh toán dịch bệnh động vật. Bộ Nông nghiệp và PTNT và Bộ Thủy sản xây dựng chương trình quốc gia về khống chế, thanh toán dịch bệnh động vật trình Chính phủ phê duyệt và chỉ đạo thực hiện chương trình. Các cơ quan quản lý nhà nước về thú y ở trung ương (Cục Thú y đối với dịch bệnh động vật trên cạn và Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản đối với dịch bệnh động vật dưới nước và lưỡng cư), UBND các cấp, Chi cục Thú y và Chi cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản, các tổ chức và cá nhân chăn nuôi động vật tùy theo quyền hạn và trách nhiệm của mình có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện, thanh tra, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện, tổ chức thực hiện, tuyên truyền phổ biến hướng dẫn và thực hiện các biện pháp khống chế, thanh toán dịch bệnh động vật. Khi dịch đã xuất hiện, muốn phòng bệnh lây lan rộng thì cần thực hiện các biện pháp chống dịch nhằm dập tắt dịch, bao gồm, một mặt, tiêu diệt nguồn bệnh (điều trị bệnh cho các động vật bệnh hoặc giết hủy hay giết mổ bắt buộc động vật bệnh) và, mặt khác, phòng bệnh cho các động vật chưa mắc bệnh. Các biện pháp phòng dịch và biện pháp chống dịch liên quan mật thiết với nhau. Các biện pháp tiêu diệt nguồn bệnh một mặt là để thanh toán dịch nhưng đồng thời cũng bảo đảm cho động vật khỏe không bị lây bệnh nên phòng ngừa dịch lan rộng. Các biện pháp phòng bệnh truyền nhiễm ở nước ta đã được quy định trong Điều lệ phòng chống dịch bệnh cho gia súc và gia cầm trước đây và Pháp lệnh thú y hiện nay, cũng như các văn bản liên quan do Nhà nước ban hành. Để thực hiện các biện pháp phòng dịch cần thực hiện những biện pháp tổng hợp tác động đến nhiều khâu của quá trình phát sinh dịch: đối với nguồn bệnh (vật mang trùng khi chưa có dịch, cũng như vật mang trùng và vật bệnh khi có dịch), đối với đường truyền lây và đối với động vật mẫn cảm. 2. Đối sách đối với nguồn bệnh 2.1. Với vật mang trùng Đối với nguồn bệnh phải tiêu diệt hoặc hạn chế nguồn bệnh gieo rắc mầm bệnh ra ngoài. Khi chưa có dịch phát ra, nguồn bệnh chỉ có thể là những vật mang trùng. Khi đó, đối với vật mang trùng cần phải thực hiện các biện pháp dưới đây. Phát hiện sớm, chủ động và tích cực. Phải có kế hoạch định kỳ phát hiện vật mang trùng. Phát hiện động vật mang trùng rất khó. Có thể dùng phương pháp vi sinh vật học để xét nghiệm các chất bài tiết, bài xuất,... nhưng kết quả thường không chắc chắn vì con vật mang trùng chỉ bài xuất mầm bệnh một cách định kỳ. Có thể dùng phương pháp huyết thanh học phát hiện kháng thể và kháng nguyên đặc hiệu trong một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, cần chú ý rằng các phản ứng huyết thanh học phát hiện kháng thể tuy dễ thực hiện nhưng kết quả thường khó giải thích. Phát hiện kháng nguyên đặc hiệu thường dễ giải thích hơn nhưng việc thực hiện thường khó hơn do phản ứng thường có độ nhạy thấp hơn và sự bài xuất mầm bệnh (kháng nguyên) từ vật sống mang trùng không phải khi nào cũng xảy ra. Mầm bệnh có thể phát hiện một cách tương đối chắc chắn hơn nhờ phương pháp chẩn đoán dị ứng đối với những bệnh có phản ứng dị ứng như lao, tỵ thư, sẩy thai truyền nhiễm,... Phương pháp cho kết quả nhanh và nhạy hơn cả là các phương pháp phân tích axit nucleic đặc hiệu mầm bệnh (PCR, RT-PCR, PCR- RFLP,...) nhưng cũng còn nhiều trở ngại do sự bài xuất mầm bệnh từ vật mang trùng không ổn định, xét nghiệm lại đòi hỏi tuyệt đối không được bị ô nhiễm từ những xét nghiệm cũ trước đó và, vì vậy, thường đắt tiền. Vì vậy, phát hiện kháng nguyên bằng các phản ứng huyết thanh học trực tiếp từ bệnh phẩm hoặc từ lứa cấy vi sinh vật mầm bệnh đã được phân lập còn tiếp tục có thể là biện pháp được lựa chọn trong điều kiện hiện nay. Cách ly triệt để những con vật đã phát hiện có mang trùng. Ở nhiều nước, những con vật có phản ứng dương với bệnh lao, sẩy thai truyền nhiễm, tỵ thư được tập trung thành đàn và nuôi riêng trong những trang trại cách ly. Nếu số lượng động vật mang trùng ít thì có thể giết thịt. Việc cách ly con vật mang trùng với con khỏe ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, các cơ sở chăn nuôi tập trung bắt buộc phải có khu chuồng nuôi cách ly. Nông hộ có thể vận dụng biện pháp cách ly gián tiếp như khi mua thịt chợ đưa về nhà trong mọi trường hợp loại bỏ một cách triệt để lá hoặc giấy bao gói hoặc thực phẩm nguồn gốc động vật khác mua từ chợ,... khỏi sự tiếp xúc với gia súc, gia cầm của mình. Cần nghi ngờ rằng thịt có thể được lấy từ động vật không sạch bệnh. Điều trị dự phòng những con vật mang trùng, nhất là những động vật quý đắt tiền. Một số con vật mang trùng có khi có thể tự nhiên lành bệnh (bệnh sẩy thai truyền nhiễm), một số có thể phát hiện triệu chứng và phải xử lý. Với những bệnh thường có hiện tượng mang trùng, nếu không có phương pháp tốt để phát hiện mầm bệnh khi động vật còn sống thì cần có biện pháp giải quyết ngay những con mắc bệnh khi xảy ra dịch (giết mổ bắt buộc). Đối với những con mang trùng là dã thú hoặc côn trùng, ve bét,... thì phải dùng mọi biện pháp tiêu diệt và có biện pháp ngăn ngừa chúng tiếp xúc với gia súc, gia cầm. Với động vật mang trùng một số bệnh truyền nhiễm có tính lây thấp, ẩn tính và có thể tái phát bất thường do genom virut tái tổ hợp vào nhiễm sắc thể ký chủ (như bệnh bạch huyết bò,...) và những biện pháp điều trị không đưa lại kết quả mà chỉ làm duy trì mầm bệnh (hay nguồn bệnh) trong tập đoàn thì cần thực hiện biện pháp giết mổ dần (giết hủy chậm) và không sử dụng động vật vào mục đích lấy giống. 2.2. Các biện pháp đối với ổ dịch Các biện pháp chống dịch truyền nhiễm được thực hiện ở ổ dịch thường nhằm mục đích tiêu diệt nguồn bệnh, đồng thời phòng ngừa mầm bệnh lây lan sang những động vật khỏe, không cho ổ dịch lan rộng hoặc khởi nguồn ổ dịch khác. Các biện pháp chống dịch bao gồm phát hiện bệnh, tiêu diệt nguồn bệnh (điều trị hoặc giết hủy động vật bệnh, hoặc áp dụng song song cả hai biện pháp), làm suy yếu hoặc tiêu diệt các nhân tố trung gian truyền bệnh và làm tăng sức đề kháng của cơ thể động vật. Các biện pháp đó cần được thực hiện khẩn trương, cùng một lúc thì mới đạt mục đích dập tắt dịch. a. Đối với động vật bệnh Phải phát hiện sớm, khai báo nhanh, cách ly kịp thời và điều trị triệt để hoặc giết hủy hay giết mổ bắt buộc theo hướng dẫn của chuyên môn thú y. Phát hiện bệnh sớm: Phải dùng mọi biện pháp chẩn đoán để phát hiện bệnh đúng và sớm. Nếu chẩn đoán còn nghi ngờ, chưa có điều kiện xác định bệnh chắc chắn thì cũng phải có kết luận sơ bộ chẩn đoán và có biện pháp đề phòng bệnh lây lan. Nguyên tắc cần tuân thủ đối với dịch bệnh truyền nhiễm là một khi có con vật sốt chưa rõ nguyên nhân phải nghi là nguồn bệnh truyền nhiễm và phải cách ly. Thà chẩn đoán nhầm một bệnh không truyền nhiễm là bệnh truyền nhiễm còn hơn là nhầm một bệnh truyền nhiễm là bệnh không truyền nhiễm. Tuy nhiên, phải dùng mọi biện pháp chẩn đoán đúng bệnh thì mới đề ra biện pháp chống dịch có hiệu quả, đặc biệt là tránh gây hoang mang không đáng có và trở ngại sinh hoạt bình thường đối với xã hội liên quan vấn đề xử lý dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Phải sử dụng nhiều phương pháp chẩn đoán: lâm sàng, dịch tễ học và chẩn đoán xét nghiệm. - Chẩn đoán lâm sàng: Dựa vào triệu chứng lâm sàng điển hình của các bệnh động vật đã được mô tả trước đây để đối chiếu và quy thuộc mà xác định nguyên nhân của trường hợp bệnh lý đang tiếp cận. Phương pháp chẩn đoán này dễ nhầm lẫn vì nhiều bệnh khác nhau có thể có triệu chứng lâm sàng giống nhau hoặc khi ở đầu vụ dịch triệu chứng bệnh thường không điển hình. - Chẩn đoán dịch tễ học: Tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện xuất hiện dịch. Cần phải điều tra kỹ để tìm nguồn bệnh, nguồn lây lan, hoàn cảnh động vật mắc bệnh, lịch sử cảm nhiễm (trước đó con bệnh đã tiếp xúc với những loại súc vật nào, chăn dắt ở đâu, đã đi qua những địa phương nào có dịch), điều kiện vệ sinh động vật ra sao, đã tiêm phòng chưa, tiêm vacxin gì. Ngoài ra, phải tìm hiểu những con vật có tiếp xúc với con bệnh. Điều tra dịch tễ học kết hợp với những triệu chứng lâm sàng có thể giúp chẩn đoán bệnh nhưng có khi chưa chắc chắn nên còn phải dùng phương pháp chẩn đoán xét nghiệm. - Chẩn đoán xét nghiệm: Nên tiến hành bằng việc phối hợp nhiều phương pháp khác nhau (vi sinh vật học, huyết thanh học, di truyền học phân tử, sinh vật học,...). Bệnh phẩm lấy từ động vật bệnh, nghi bệnh hoặc động vật chết phải phù hợp với yêu cầu xác định bệnh. Cách lấy bệnh phẩm, cách bao gói và gửi bệnh phẩm phải theo đúng yêu cầu kỹ thuật để bảo đảm không gieo rắc mầm bệnh ra ngoài, bảo đảm an toàn cho người lấy và bảo đảm chẩn đoán chính xác. Bệnh phẩm phải được gửi đến cơ quan xét nghiệm càng nhanh càng tốt. Để xác định một số bệnh truyền nhiễm, cần tiến hành kết hợp các phương pháp chẩn đoán nói trên. Cách ly kịp thời: Sau khi phát hiện có con vật bị bệnh hoặc con nghi mắc bệnh phải cách ly ngay. Những con nghi mang mầm bệnh phải nhốt riêng để tránh lây lan. Động vật được cách ly ở nơi chữa bệnh hoặc nhà cách ly riêng. Các cơ sở chăn nuôi động vật tập trung phải có hàng rào bao quanh bảo đảm ngăn chặn được người và động vật xâm nhập, bảo đảm các điều kiện vệ sinh thú y và phải có nhà cách ly. Nhà cách ly phải có cống rãnh tiêu độc và xa chuồng nuôi động vật và nhà ở ít nhất 50 mét. Phải cử người chăm sóc riêng động vật cách ly. Họ phải có quần áo riêng và những phương tiện bảo hộ cần thiết, có tinh thần trách nhiệm và ý thức vệ sinh phòng bệnh cao. Khi cho động vật cách ly ăn uống hoặc quét dọn, tiêu độc chuồng,... phải giữ gìn cẩn thận tránh để bệnh lây từ động vật sang người. Phải cấm người ra vào chuồng cách ly trừ những người chăm sóc và chữa bệnh. Trước cửa ra vào khu vực phải có hố vôi tiêu độc, trước cửa ra vào chuồng cần có xô (chậu) chứa dung dịch tiêu độc để người vào hoặc ra khỏi khu cách ly mỗi khi cần phải nhúng ủng bảo hộ, có không gian đệm để thay quần áo bảo hộ riêng cho từng khu vực: khu cách ly và khu bình thường. Ở không gian đệm này cần bố trí dung dịch khử trùng (cồn ethylic 70°,...) và đèn tử ngoại (nếu có điều kiện) để khử trùng tay, quần áo và bao gói dụng cụ điều trị và lấy mẫu bệnh phẩm, bao bì thức ăn động vật,... mỗi khi cần đưa vào hoặc ra khỏi khu vực cách ly. Những người có trách nhiệm chăm sóc, lấy mẫu bệnh phẩm và điều trị bệnh cho động vật ở nhà cách ly hay khu cách ly cần tránh đi lại nhiều không cần thiết giữa khu cách ly với khu bình thường. Nếu có nhu cầu đi lại giữa hai khu vực phải áp dụng biện pháp tiêu độc (nhúng ủng vào dung dịch tiêu độc, thay quần áo bảo hộ khi ở không gian đệm, phun dịch sát trùng hoặc chiếu tia cực tím lên dụng cụ mang theo để lấy mẫu bệnh phẩm, tiêm thuốc,...) tránh đưa những vật có thể mang mầm bệnh từ khu vực cách ly ra khu vực an toàn. Điều trị triệt để: Phải điều trị triệt để những con bệnh tiên lượng tốt ở trong ổ dịch cho đến khi lành bệnh và không để chúng trở thành vật mang trùng. Nếu thấy khả năng điều trị không khỏi (tiên lượng xấu) thì phải xử lý ngay. Cách xử lý tùy theo loại bệnh: có thể giết chết đem chôn hoặc đốt (giết hủy), hoặc giết thịt luộc rán làm thực phẩm hoặc chế biến thành công nghệ phẩm và thức ăn gia súc (giết thịt tận dụng). Khi xử lý cần phải chú ý tránh lây lan bệnh. b. Đối với động vật nghi lây bệnh Phải điều tra để phát hiện những con tiếp xúc với con bệnh do nuôi chung, chăn dắt chung hoặc tiếp xúc với sinh vật môi giới và ngoại cảnh chứa mầm bệnh. Trên nguyên tắc, mọi súc vật có thể nhiễm bệnh (súc vật mẫn cảm) ở trong một ổ dịch đều phải được coi là con nghi đã bị lây, vì chúng nếu không tiếp xúc với con bệnh thì cũng tiếp xúc với ngoại cảnh chứa mầm bệnh. Những loại súc vật trên phải được cách ly với thời gian nung bệnh dài nhất có thể vận dụng. Phải khám nghiệm lâm sàng, xét nghiệm, tiêm phòng khẩn cấp hoặc điều trị dự phòng và tiến hành tiêu độc thích hợp. c. Xử lý tình huống dịch bệnh động vật Khai báo dịch khẩn cấp: Mọi người, trước hết là chủ vật nuôi, tổ chức và cá nhân chăn nuôi động vật, người áp tải động vật trên đường vận chuyển, đều có nhiệm vụ và có quyền khai báo dịch bằng mọi phương tiện nhanh chóng nhất với nhân viên thú y, cơ quan thú y hoặc cơ quan chính quyền gần nhất. Nhân viên thú y và cơ quan thú y khi được thông báo về tình hình động vật phát bệnh, chết bệnh hoặc có dấu hiệu bệnh thì phải nhanh chóng chẩn đoán xác định bệnh, nếu xác định bệnh truyền nhiễm thuộc danh mục bệnh phải công bố dịch thì phải hướng dẫn chủ vật nuôi, chủ sản phẩm động vật thực hiện các biện pháp xử lý dịch bệnh như không bán, không giết mổ và không vứt động vật, xác và sản phẩm động vật ra môi trường mà phải cách ly động vật mắc bệnh, bố trí người chăm sóc động vật, hạn chế lưu thông động vật và sản phẩm động vật, chôn hoặc đốt xác động vật và chất thải của động vật bệnh, vệ sinh khử trùng cơ sở (chăn nuôi, giết mổ, phương tiện vận chuyển,...). Nhân viên thú y, cơ quan thú y tùy theo tính chất và mức độ bệnh dịch mà báo cáo Ủy ban nhân dân (UBND) cùng cấp để thực hiện biện pháp phòng chống dịch bệnh đối với khu vực đó, đồng thời báo cáo cơ quan thú y cấp trên trực tiếp. Khi được tin ở địa phương có dịch hoặc nghi có dịch thuộc danh mục bệnh phải công bố dịch, UBND cấp xã phải báo cáo ngay cho UBND cấp huyện biết. UBND cấp huyện phải cử ngay cán bộ thú y về tận nơi kiểm tra xác minh. Kết quả kiểm tra phải báo cáo lại cho UBND huyện và Chi cục thú y (hoặc Chi cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản, nếu bệnh dịch xảy ra ở động vật dưới nước và lưỡng cư) biết để kiểm tra xác nhận dịch, nếu có dịch thì các cơ quan này quyết định các biện pháp cần thiết để bao vây và dập tắt dịch, đồng thời phải báo cáo cho sở Nông nghiệp và PTNT và UBND tỉnh hay thành phố trực thuộc trung ương (cấp tỉnh) biết. Khi gặp trường hợp có dịch hoặc nghi là dịch nguy hiểm tuy chưa biết chính xác là bệnh gì, chính quyền địa phương vẫn phải áp dụng ngay những biện pháp đầu tiên như tạm thời cách ly con vật bệnh, cấm vận chuyển, cấm bán chạy, cấm mổ thịt, tiêu độc để hạn chế lây lan. Khi dịch bệnh của động vật trên cạn xảy ra mà Chi cục thú y chẩn đoán là bệnh thuộc danh mục phải công bố dịch, hoặc nghi ngờ bệnh thuộc danh mục phải công bố dịch thì Chi cục thú y báo cáo để UBND cấp tỉnh thông báo khu vực hạn chế lưu thông động vật và sản phẩm động vật, đồng thời báo ngay Cục thú y. Trong trường hợp Chi cục thú y còn nghi ngờ nguyên nhân gây bệnh thì gửi bệnh phẩm để Cục thú y tiến hành xác định bệnh. Nghiêm cấm việc đưa vào hoặc mang ra khỏi khu vực hạn chế lưu thông loài động vật dễ nhiễm và sản phẩm động vật mang mầm bệnh. Công bố dịch: Khi có dịch bệnh nguy hiểm của động vật xảy ra ở vùng biên giới giáp Việt nam thì Cục thú y phải báo cáo để UBND cấp tỉnh vùng biên giới đó quyết định công bố vùng bị dịch uy hiếp và tại đó phải thực hiện các biện pháp như: quy định cửa khẩu, số và loài động vật được phép thông quan, cấm đưa vào lãnh thổ Việt Nam những động vật bệnh và dễ nhiễm bệnh (động vật mẫn cảm) và sản phẩm động vật mang mầm bệnh đó, chỉ đạo thực hiện vệ sinh tiêu độc, khử trùng cho người và các loại phương tiện vận chuyển qua cửa khẩu, xác định vùng bị dịch uy hiếp hay vùng đệm (để thành lập vành đai bảo vệ) trong phạm vi 5 km tính từ biên giới và thực hiện các biện pháp như vùng bị dịch uy hiếp. Khi có báo cáo bằng văn bản của UBND cấp huyện về tình hình diễn biến dịch bệnh và văn bản kết luận của Chi cục hoặc Cục thú y (hoặc tương đương đối với động vật dưới nước và lưỡng cư) đã xác định dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm phải công bố dịch, UBND cấp tỉnh ra lệnh công bố dịch. Lệnh công bố dịch phải ghi rõ tên bệnh và những vùng (địa phương) có dịch. Tùy theo tính chất bệnh, tình hình địa lý, tình hình diễn biến ổ dịch mà quyết định vùng có dịch và vùng nguy cơ dịch (vùng dịch uy hiếp), không công bố tràn lan, chỉ khoanh vùng cần thiết để bao vây dập tắt dịch. Có thể công bố dịch ở một trại chăn nuôi, một thôn, một xã hoặc nhiều xã, một huyện hoặc nhiều huyện trong tỉnh. Khi ra quyết định công bố dịch, chủ tịch UBND cấp tỉnh phải báo cáo với Bộ trưởng Nông nghiệp và PTNT, đồng thời báo cáo lên Chính phủ. Khi có quyết định công bố dịch, chủ tịch UBND cấp tỉnh nơi có dịch có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo các ngành các cấp phối hợp với các tổ chức xã hội trong địa phương và huy động nhân lực, vật lực theo pháp luật để thực hiện các biện pháp chống dịch. Việc xác định giới hạn vùng có dịch và lập vành đai bảo vệ quanh vùng có dịch cũng do UBND cấp tỉnh quyết định và thông báo cho cấp dưới và các cơ quan hữu quan. Tùy tính chất và quy mô của dịch mà thành lập Ban chỉ đạo chống dịch cấp xã, huyện và tỉnh, đồng thời thành lập Ban chống dịch các cấp với thành phần gồm lãnh đạo chính quyền (phó chủ tịch tỉnh, huyện phụ trách nông nghiệp), lãnh đạo ngành nông nghiệp (giám đốc hoặc phó giám đốc Sở, trưởng hoặc phó phòng phụ