"Phong" là nền nếp đã lan truyền rộng rãi, ''Tục" là thói quen lâu đời. Nội dung
phong tục bao hàmmọi mặt sinh hoạt xã hội.
Phong tục có thứtrởthành luật tục, ăn sâu, bén rễtrong nhân dân rất bền chặt, có
sức mạnh hơn cảnhững đạo luật. Trong truyền thống văn hoá của dân tộc ta, có nhiều
thuần phong mỹtục cần cho đạo lý làmngười, kỷcương xã hội.
Một cuộc cách mạng có thểthay đổi chính thểnhanh chóng, tiếp theo sau hàng
loạt hệthống pháp luật được thay đổi. Phong tục cũng không ngừng biến đổi theo trào
lưu biến đổi văn hoá xã hội, nhưng dai dẳng hơn và có quy luật riêng của nó, không dễgì
một sớm một chiều đã được mọi người, mọi nhà, mọi tầng lớp tuân theo. Vì tục hay thì
nhiều người bắt chước nhau làm,tục dởnhiều người cũng sẽbắt chước nhau bỏdần.
Bản thân các phong tục cũng nằmtrong cuộc đấu tranh xã hội đã, đang và sẽtiếp
diễn mãi giữa cái cũvà cái mới. Ngay nhưquan niệm vềthẩm mỹcũng luôn biến đổi. Ví
dụ, cái búi tóc của namgiới rõ ràng là lạc hậu song cũng phải qua quá trình đấu tranh lâu
dài mới mất đi, nhưng bộrăng đen của nữgiới ngày xưa được ca tụng là đẹp, là duyên
dáng, mấy nămsau Cách mạng Tháng Támchẳng ai bắt buộc gò ép màtựnhiên biến mất
nhường chỗcho hàmrăng trắng.
Phong trào xây dựng nếp sống văn hoá mới hiện nay, không phải chỉ đơn thuần
dựa vào ý nghĩchủquan màphải biết vận dụng thuần phong mỹtục vào nếp sống, nếp
suy nghĩ, hành động, cách đối nhân xửthế, hợp với trào lưu tiến hoá. Có những phong
tục cổtruyền xuất xứtừkinh nghiệm thực tiễn trong cuộc sống thời xưa, đến nay không
hợp thời nữa, trởthành đồi phong bại tục, ta cũng cần nghiên cứu đểbiết nguyên do, từ
đó mới vận dụng cho thích hợp với hiện tại và tương lai, hoặc tìmnhững phong tục hay để
bổkết màloại trừdần những cái dở.
Tất nhiên, bản chất mỗi cá nhân cũng phải sống, giao tiếp, hoà nhập với cộng
đồng xã hội, những kiểu cách rởm,trái với phong tục, bản sắc dân tộc, trái với con mắt
của đông đảo quần chúng sẽtự đào thải và bịloại trừdần. Suy rộng ra phong tục cũng
vậy, phục hồi và phát huy thuần phong mỹtục, chắc chắn sẽ được mọi tầng lớp nhân dân
ủng hộ, hoan nghênh; phục hồi làmsống lại những đồi phong bại tục sẽbịxã hội lên án.
158 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2112 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phong tục Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam
Tác giả : Tân Việt (NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội 2001)
Lời nói đầu
"Phong" là nền nếp đã lan truyền rộng rãi, ''Tục" là thói quen lâu đời. Nội dung
phong tục bao hàm mọi mặt sinh hoạt xã hội....
Phong tục có thứ trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân rất bền chặt, có
sức mạnh hơn cả những đạo luật. Trong truyền thống văn hoá của dân tộc ta, có nhiều
thuần phong mỹ tục cần cho đạo lý làm người, kỷ cương xã hội.
Một cuộc cách mạng có thể thay đổi chính thể nhanh chóng, tiếp theo sau hàng
loạt hệ thống pháp luật được thay đổi. Phong tục cũng không ngừng biến đổi theo trào
lưu biến đổi văn hoá xã hội, nhưng dai dẳng hơn và có quy luật riêng của nó, không dễ gì
một sớm một chiều đã được mọi người, mọi nhà, mọi tầng lớp tuân theo. Vì tục hay thì
nhiều người bắt chước nhau làm, tục dở nhiều người cũng sẽ bắt chước nhau bỏ dần.
Bản thân các phong tục cũng nằm trong cuộc đấu tranh xã hội đã, đang và sẽ tiếp
diễn mãi giữa cái cũ và cái mới. Ngay như quan niệm về thẩm mỹ cũng luôn biến đổi. Ví
dụ, cái búi tóc của nam giới rõ ràng là lạc hậu song cũng phải qua quá trình đấu tranh lâu
dài mới mất đi, nhưng bộ răng đen của nữ giới ngày xưa được ca tụng là đẹp, là duyên
dáng, mấy năm sau Cách mạng Tháng Tám chẳng ai bắt buộc gò ép mà tự nhiên biến mất
nhường chỗ cho hàm răng trắng.
Phong trào xây dựng nếp sống văn hoá mới hiện nay, không phải chỉ đơn thuần
dựa vào ý nghĩ chủ quan mà phải biết vận dụng thuần phong mỹ tục vào nếp sống, nếp
suy nghĩ, hành động, cách đối nhân xử thế, hợp với trào lưu tiến hoá. Có những phong
tục cổ truyền xuất xứ từ kinh nghiệm thực tiễn trong cuộc sống thời xưa, đến nay không
hợp thời nữa, trở thành đồi phong bại tục, ta cũng cần nghiên cứu để biết nguyên do, từ
đó mới vận dụng cho thích hợp với hiện tại và tương lai, hoặc tìmnhững phong tục hay để
bổ kết mà loại trừ dần những cái dở.
Tất nhiên, bản chất mỗi cá nhân cũng phải sống, giao tiếp, hoà nhập với cộng
đồng xã hội, những kiểu cách rởm, trái với phong tục, bản sắc dân tộc, trái với con mắt
của đông đảo quần chúng sẽ tự đào thải và bị loại trừ dần. Suy rộng ra phong tục cũng
vậy, phục hồi và phát huy thuần phong mỹ tục, chắc chắn sẽ được mọi tầng lớp nhân dân
ủng hộ, hoan nghênh; phục hồi làm sống lại những đồi phong bại tục sẽ bị xã hội lên án.
Những nội dung trình bày dưới dạng hỏi đáp trong cuốn sách này chỉ nhằm giải
đáp phần nào xuất xứ của các phong tục đã tồn tại ở nước ta, để các bạn tham khảo, tự
phân tích, cái nào hay nên theo, cái nào dở nên bỏ, cái nào còn hạn chế những xét thấy
chưa thể bỏ ngay thì tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà châm chước vận dụng cho thích hợp...
Bản thân tác giả cũng mong góp được một phần nhỏ trong cuộc đấu tranh nói
trên. Rất mong nhận được sự thông cảm, ủng hộ cũng như sự góp ý chân tình của đông
đảo bạn đọc gần xa.
STT Mục Trang
1 "Nam nữ thụ thụ bất thân": nghĩa là gì? 6
2 Mối lái là gì? 7
3 "Lễ vấn danh" có ý nghĩa gì? 8
4 "Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống" có đúng không? 9
5 Người trong cùng họ lấy nhau được không? 10
6 Sự tích tơ hồng. 11
7 "Tục thách cưới" hay dở ra sao? 12
8 Bánh "su sê" hay bánh "phu thê"? 13
9 "Tiền nạp cheo" là gì? 14
10 Những cách gỡ bí cho bạn trẻ khi lo đám cưới. 15
11 Cô dâu trước khi về nhà chồng cần có những thủ tục gì? 16
12 Lễ xin dâu có ý nghĩa gì? 17
13 Mẹ chồng làm gì khi con dâu về đến nhà? 18
14 Tại sao mẹ cô dâu kiêng không đi đưa dâu? 19
15 Tại sao trong gói quà mẹ cho con gái có trâm hay kim? 20
16 Tại sao phải có phù dâu? 22
17 "Lễ lại mặt" có ý nghĩa gì? 23
18 Trả lời câu hỏi không rõ câu hỏi. 24
19 Khi người đàn bà tái giá có những thủ tục gì? 26
20 Tại sao "nạ dòng" không lấy được "trai tơ"? 27
21 Quan hệ vợ cả vợ lẽ ra sao? 28
22 Nên nhìn nhận vấn đề li hôn như thế nào? 29
23 Dạy con từ thuở bào thai 30
24 Tại sao có tục xin quần áo cũ cho trẻ sơ sinh? 31
25 "Con so về nhà mạ, con rạ về nhà chồng", tại sao? 32
26 Tại sao khi mới đẻ không đặt tên chính? 33
27 Tại sao tuổi trong khai sinh không đúng với tuổi thực? 34
28 Làm lễ yết cáo tổ tiên xin đặt tên cho con vào sổ họ như thế nào? 35
29 Có mấy loại con nuôi? 36
30 Xưng hô như thế nào cho đúng? 39
31 Vợ chồng xưng hô với nhau như thế nào? 41
32 Cách xưng hô trong họ 42
33 Phải chăng "Lời chào cao hơn mâm cỗ"? 43
34 "Nhập gia vấn huý" nghĩa là gì? 44
35 Ai vái lạy ai? 45
36 Đạo thầy trò 46
37 "Miếng trầu là đầu câu chuyện"? 48
38 Xuất xứ của tục nhuộm răng và cách nhuộm? 50
39 Tại sao gọi là "Tóc thề"? 51
40 Màu sắc với truyền thống văn hoá dân tộc 52
41 Vì sao có tục bán mở hàng? Bán mở hàng thế nào cho đắt khách? 53
42 "Đạo hiếu" là gì? 55
43 Tục khao lão 59
44 Yến lão 60
45 Tại sao những năm gần đây có phong trào khôi phục việc họ? 62
46 Phục hồi việc họ lợi hay hại? 63
47 "Ruộng hương hoả" có ý nghĩa như thế nào? 64
48 Vai trò của tộc trưởng xưa và nay 65
49 Bàn thờ vọng là gì? Cách lập bàn thờ vọng 66
50 "Hợp tự" là gì? Tại sao phải hợp tự. 68
51 "Gia phả" là "Gia bảo", có đúng không? 69
52 Một gia phả hoàn chính có những mục gì? 70
53 "Thọ mai gia lễ" là gia lễ nước ta hay Trung Hoa? 72
54 "Ba cha tám mẹ" là những ai? 73
55 "Chúc thư" là gì? 74
56 "Cư tang" là gì? 76
57 Vì sao có tục "Mũ đai gai chuối và chống gậy"? 77
58 "Năm hạng tang phục" là gì? 78
59 Cha mẹ có để tang con không? 82
60 Tại sao cha mẹ không đưa tang con? 83
61 Đám tang trong ngày Tết tính liệu ra sao? 84
62 Lễ cưới đã chuẩn bị sẵn vấp phải lễ tang tính sao đây? 85
63 Người đi dự đám tang nên như thế nào? 86
64 Đi đường gặp đám tang nên như thế nào? 87
65 Người sắp chết có những dấu hiệu gì báo trước? 88
66 Trong giờ phút thân nhân hấp hối, cần làm gì? 89
67 Sau khi thân nhân chết, gia đình cần làm gì? 90
68 Tại sao có tục hú hồn trước khi nhập quan? 92
69 Chết đã cứng, làm thế nào để bỏ lọt vào áo quan? 93
70 Những vật liệu gì lót vào áo quan? 94
71 Tại sao trước khi khâm liệm lại đưa người chết nằm xuống đất? 95
72 Sau lễ thành phục, trước khi an táng làm những gì? 96
73 Những người điều hành công việc trong lễ tang. 97
74 Lễ an táng tiến hành như thế nào? 98
75 Hơi lạnh ở xác chết - Cách phòng 99
76 Tại sao? Tại sao? Và tại sao? 100
77 Hiện tượng "Quỷ nhập tràng" 101
78 Lễ "Ba ngày" tính từ ngày nào? 102
79 Lễ "Cúng cơm trong trăm ngày" có ý nghĩa gì? 103
80 Làm lễ Chung thất và Tốt khốc có chọn ngày không? 104
81 Lễ nào là lễ trọng? 105
82 Sau khi hết tang làm lễ trừ phục thế nào? 106
83 Vì sao có tục đốt vàng mã? 107
84 "Chiêu hồn nạp táng" là gì? 108
85 "Hình nhân thế mạng" là gì? 109
86 Tại sao phải cải táng? Khi nào không nên cải táng? 110
87 "Thiên táng" là gì? 111
88 "Đất dưỡng thi" là gì? 112
89 Tại sao kiêng không đắp mộ trong vòng tang? 113
90 Tại sao phải cất mộ ban đêm hoặc sáng sớm? 114
91 "Ma trơi" hay "Ma chơi"? 117
92 "Tục bái vật" là gì? 118
93 Lễ giỗ cúng vào ngày nào? 119
94 Mấy đời tống giỗ? 120
95 Chết yểu có cũng giỗ không? 121
96 Cúng giỗ và mừng ngày sinh thế nào? 122
97 Tết Nguyên Đán có từ bao giờ? 124
98 Ngày Tết có những phong tục gì? 125
99 Vì sao kiêng hót rác trong ba ngày Tết? 128
100 Tại sao cúng giao thừa ở ngoài trời? 129
101 Tại sao có "Tết Hàn Thực?" 130
102 Tết Đoan Ngọ có những tục gì? 131
103 Có ngày tốt hay xấu không? 132
104 Xem ngày, kén giờ 135
105 Chú giải bài "Xem ngày, kén giờ" của Phan Kế Bính 137
106 Thế nào là "Âm dương, ngũ hành? 140
107 "Thiên can, địa chi" là gì? 145
108 "Lục thập hoa giáp" là gì? 146
109 Cách tính ngày tiết, ngày trực và nhị thập bát tú theo dương lịch 152
110 Các đổi ngày dương lịch ra ngày can chi 155
111 "Giờ hoàng đạo" là gì? Cách chọn giờ hoàng đạo 156
112 Cách tính ngày hoàng đạo, hắc đạo? 158
Mục I: Cưới hỏi
1. "Nam nữ thụ thụ bất thân": nghĩa là gì?
Đây là câu nói cửa miệng, quen dùng chỉ mối quan hệ nam nữ theo quan niệm của
nhà nho.
Người đàn ông và người đàn bà ngày xưa trao cho nhau cái gì, nhận của nhau cái
gì, đều không trực tiếp tận tay, sợ bấm nháy, ra hiệu gì với nhau chăng? (Hai chữ "thụ
thụ" trái ngược nghĩa: một chữ "thụ" là trao cho, một chữ "thụ" là nhận).
Hai người muốn mời nhau ăn trầu, thì người chủ têm trầu, xếp vào cơi trầu, đặt
giữa bàn, khách tự nhặt lấy mà ăn. Lễ giáo phong kiến thật khắt khe, việc tỏ tình yêu trực
tiếp khó mà thực hiện được, họa chăng chỉ còn đôi mắt thầm lén nhìn nhau!
Người châu Âu từ nhỏ đến già, theo phép lịch sự bắt tay nhau, nhảy với nhau là
chuyện thường. Nhưng, người Việt Nam và người Á Đông nói chung, nam nữ vô ý chạm
vào da của người khác giới thì coi như có cử chỉ không đứng đắn.
Người đàn ông có thái độ suồng sã sẽ bị đàn bà xa lánh, nhưng không đáng lo
bằng người con gái lẳng lơ, bị xã hội dèm pha thì khó mà lấy được tấm chồng cho đáng
tấm chồng. Vì vậy các nhà quyền quý thường "cấm cung" con gái. Ngay từ tuổi thơ đã
sớm hình thành sự ngăn cách giới tính. Thời phong kiến xưa, chỉ những người có tư
tưởng tân tiến mới cho con gái đi học, và có đi học thì con trai ngồi riêng con gái ngồi
riêng. Trai gái đi cùng nhau, vui chơi cùng nhau bị bạn bè cùng lứa chế nhạo. Có hội hè
đình đám cũng phải phân biệt đàn ông đứng bên trái, đàn bà đứng bên phải.
Ở thành thị, vợ chồng nằm ngủ với nhau một giường là chuyện bình thường,
nhưng xin các bạn lưu ý, ở nông thôn đàn bà nằm nhà trong, đàn ông nhà ngoài đã trở
thành nếp rồi. Ngày xưa, phổ biến mọi nơi đều thế, ngày nay lệ đó vẫn còn ở nhiều vùng,
nhiều nhà. Nếu các bạn có dịp về thăm bà con họ hàng ở quê thì tốt nhất hai vợ chồng
nên tránh nằm chung giường kẻo các cụ còn cảm thấy chướng mà phật ý.
2. Mối lái là gì?
Trong xã hội phong kiến xưa "Nam nữ thụ thụ bất thân" nên hôn nhân cần phải
người môi giới. Nếu yêu nhau, cưới hỏi không cần mối lái sẽ bị chê trách là "phải lòng
nhau", "mắc phải bùa yêu". Nguyễn Du đã vạch đường cho Kim Trọng, Thuý Kiều cứ
yêu nhau rồi sẽ "liệu bài mối manh" nên các cụ nhà nho mới kịch liệt phản đối khuyên
con cháu rằng:
"Đàn ông thì chớ Phan Trần,
Đàn bà thì chớ Thuý Vân, Thuý Kiều"
Chu Mạnh Trinh vịnh Kiều còn nói: "Chỉ vì một tội mối manh chưa có, thề thốt
đã nhiều; trăng gió mắc vào, phồn hoa dính mãi"...Nếu không có "Nhà băng đưa mối" thì
nhà trai làm sao biết được người thục nữ trong cửa các phòng khuê.
Trong xã hội cũ, có những người chuyên làm nghề mối lái, nếu đẹp đôi vừa lứa
thì bà mối sẽ trở thành ân nhân suốt đời. lễ tơ hồng xong, tạ bà mối một nửa mâm xôi,
nửa con gà kèm theo chiếc áo lụa. Chẵn tháng con đầu lòng thế nào cũng cố mời bà mối
đến dự, để tỏ nghĩa tri ân. Nhưng cũng có nhiều tai hoạ do những bà mối có động cơ bất
chính gây nên, để đôi trẻ suốt đời mang mối hận vì phận hẩm duyên hiu:
..."Hoặc là bởi "Mẹ thầy lộn quýt", quên những thói mơ tôm mảng cá, qua lại ít
nhiều ngọt miệng, ép uổng duyên cô nông nỗi thế, nặng tiền tài mà nhẹ gánh tình chung.
Hay vì chưng "Mối lái đèo bòng", chẳng nhằm khi vào lộng ra khơi, nói phô mật ngọt rót
vào tai, dỗ dành phận gái ngẩn ngơ tình, già nhân sự để non quyền tạo hoá"...
(Trích "Văn tế sống người con gái" - Một bài văn tế khuyết danh được truyền tụng ở
Hà Tĩnh vào đầu TK XX).
Ở xã hội mới cũng cần có bà mối, bà mối thời nay là người cố vấn, người đỡ đầu
cho đôi trẻ xây dựng hạnh phúc lâu dài. trong tương lai, có lẽ vai trò của bà mối là những
phương tiện thông tin đại chúng (như quảng cáo trên Đài truyền thanh truyền hình, báo
chí, chụp ảnh) và những công ty du lịch, câu lạc bộ những người độc thân...
3. Lễ vấn danh có ý nghĩa gì?
"Lễ vấn danh" là lễ nhà trai đến nhà gái để hỏi tên tuổi cô gái, ngày nay gọi là lễ
"Chạm ngõ" hay là lễ "Dạm" (có nơi kiêm cả lễ dạm và hỏi cùng một lúc gọi là lễ dạm
hỏi). Truyện Kiều có câu "Tiện đưa canh thiếp trước cầm làm ghi". "Canh thiếp" là giấy
ghi họ tên, tuổi, quê quán, con ai.
Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, ở nhiều vùng nông thôn, con gái từ khi sinh
đến khi lấy chồng vẫn chưa đặt tên, nếu như gia đình không cho con gái đi học. Con gái
không cần vào sổ họ, sổ làng, không đi học nên cũng không cần dặt tên vội. Ở trong nhà
con gái mới sinh ra được gọi là con Hĩm, con Mực, con Chắt em...Trong nhà gọi tên gì
thì xóm giềng gọi theo tên đó. Đến làm lễ vấn danh, ông bác hoặc bố mới đặt cho cái tên
để ghi trong giấy hôn thú, có khi chính người mang tên cũng không biết mình mang tên
gì trong giấy hôn thú, vì khi về nhà chồng lại gọi theo tên chồng, khi có con gọi theo tên
con, có cháu đích tôn gọi theo tên cháu. Lễ vấn danh không phải để hỏi tên mà chủ yếu là
hỏi tuổi, để hai họ quyết định đôi nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, tuổi xung khắc
thì thôi.
Trong hôn nhân xưa chỉ chú trọng có môn đăng hộ đối hay không, có hợp tuổi
hay không, gia đình nào thận trọng mới tìm hiểu kỹ "Công, dung, ngôn, hạnh" (thường là
các gia đình gia giáo). Chẳng những các chàng trai, trước khi cưới chưa biết mặt vợ, mà
có những ông bố chồng là người chủ động đi hỏi dâu cũng không biết mặt con dâu, do đó
trong gia đình sau này mới xảy ra nhiều chuyện oái oăm:
- "Cảm ơn ông bà thương đến, tôi xin đồng ý gả, nhưng xin thưa chuyện trước:
con tôi mồm mép chẳng bằng ai!"
Tưởng như vậy là mình tìm được con dâu hiền hậu, không đanh đá chua ngoa, ai
ngờ cưới về mới biết con dâu sứt môi!. Nhưng đã nhỡ việc, biết tính sao?
Lại có trường hợp đánh tráo: Khi đi hỏi thì cho thằng em nhanh nhẹn và "sạch
mặt" hơn đóng vai chàng rể, đến khi cưới thì lại cưới cho thằng anh đần độn, xấu xí.
"Miếng trầu để dâu nhà người", biết tính sao đây? Dầu sao cũng mang tiếng một đời
chồng.
4. Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống có đúng không? Có cần thiết không?
Đối với các cụ thì câu hỏi này thừa, vì "Nòi nào giống ấy","Cây nào quả ấy","Giỏ
nhà ai quai nhà ấy","Con nhà công chẳng giống lông cũng giống cánh", "Tìm nơi có đức
gửi thân", ai chẳng muốn có trai hiền gái đảm, rể thảo dâu hiền. Thời nay, một số bạn trẻ
coi thường cho là phong kiến lạc hậu. Có những đôi trai gái mới chỉ gặp nhau trên một
đoạn đường, đã vội đính ước, tính chuyện vuông tròn, thậm chí họ đã biết rõ cả "Ngọn
nguồn lạch sông"!!! Đành rằng cũng có trường hợp "Một ngày nên nghĩa, chuyến đò nên
duyên", song thành công là cá biệt, thất bại là phổ biến.
"Tìm tông, tìm họ" không có nghĩa là tìm chốn sang giàu, khinh người nghèo khó,
mà chủ yếu là tìm nơi có gia giáo, có đức độ.
"Cha mẹ hiền lành để đức cho con","Đời cha ăn mặn, đời con khát nước". Con
người sinh ra lớn lên do nhiều yếu tố xã hội chi phối, nhưng nam nữ thanh niên mới lớn
lên, trường đời chưa từng trải, giáo dục gia đình là yếu tố quan trọng và chủ đạo. Hôn
nhân là việc hệ trọng, tác động cả đời, mà con người rất dễ mù quáng trong tình yêu. Qua
tuần trăng mật không phải mọi việc trong quan hệ vợ chồng đều suôn sẻ. khi có những
việc khó khăn, trục trặc trong cuộc sống, ai cũng muốn tìm điều hay lẽ phải để giải quyết
cho thoả đáng. Lúc đó cần dựa vào "Tông", vào họ hàng, tìm những tình cảm chân thành
và tri thức đúng đắn.
"Môn đăng hộ đối", tức là tìm nơi hai gia đình, hai bên thân thuộc, có những mặt
cân đối phù hợp với nhau, chứ đâu phải bắc bậc leo thang, kẻ khinh người trọng.
Ngoài ra còn một yếu tố nữa: Tính đến gien di truyền.
Ngày xưa trong một vài hoàn cảnh đặc biệt có ông chồng thoả thuận ngầm với vợ
đi "Xin nòi". Xin lưu ý: những người đàn bà đó không thuộc loại lẳng lơ đâu - ta cũng chỉ
cần biết nói nhỏ với nhau thôi và nhấn mạnh "Hoàn cảnh đặc biệt"!
5. Người trong cùng họ có lấy nhau được không?
Ở các nước Âu Mỹ, anh chị em con chú bác ruột vẫn có quyền lấy nhau, qua tác
phẩm "Ơgiêni Grăngđê" ta thấy mối tình giữa hai anh em con chú bác ruột Grăngđe và
Ơgiêni sở dĩ trắc trở là do thói keo kiệt biển lẩn của lão Grăngđê, chứ tác giả không đả
động đến vấn đề chung huyết thống.
Trung Hoa là một nước chịu ảnh hưởng của văn hoá phong kiến nặng hơn ta
nhiều, nhưng anh chị em con cô, cậu ruột, con dì ruột vẫn được lấy nhau. Xem Bảo Thoa,
Bảo Ngọc... trong "Hồng Lâu Mộng" yêu nhau, lấy nhau là chuyện bình thường.
Ở nước ta, dưới triều Trần, con cháu nhà vua chỉ được lấy người trong Hoàng tộc
(lấy sang họ khác sợ bị nạn ngoại thích cướp ngôi). Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn
lấy Thiên Thành công chúa, tức là cô ruột của mình. Vua Trần Thánh Tông lấy Thiên
Cảm Hoàng hậu, tức chị con bác ruột. Vua Trần Minh Tông lấy Lệ Thánh Hoàng hậu, tức
con chú ruột, đều là cháu nội vua Trần Nhân Tông vv...
Còn trong dân gian từ triều Lê về sau, nếu trong họ nội thân cùng quê mà lấy
nhau gọi là hôn thú, họ hàng không chấp nhận. Nếu cùng họ nhưng đã xa đời, thuộc chi
khác nhau hay đã xa quê (gọi là biệt tổ ly tông) thì vẫn lấy nhau được. Thời xưa, do trọng
nam khinh nữ, hoặc thiếu hiểu biết về gien di truyền, nên anh chị em con cô, cậu ruột coi
như khác họ vẫn có quyền làm thông gia với nhau. Ca dao tục ngữ trong dân gian còn ca
ngợi trường hợp cháu cậu mà lấy cháu cô, coi như "Thóc lúa trong bồ, giống má nhà ta".
Nhưng di truyền học đã khẳng định rằng người có chung huyết thống mà có con
với nhau thì qua nhiều đời dòng giống bị thoái hoá, có trường hợp bị quái thai, vì vậy anh
em họ lấy nhau, kể cả họ nội hay họ ngoại đều không có lợi.
Luật pháp nước ta qui định cùng chung huyết thống ba đời, kể cả bên bố hay bên
mẹ, đều không được lấy nhau.
6. Sự tích tơ hồng
"Tơ hồng Nguyệt lão thiên tiên" dựa theo tích Vi Cố gặp ông lão trong một đêm
trăng, ngồi kiểm sách hướng về phía mặt trăng, sau lưng có cái túi đựng đầy dây đỏ. Ông
lão bảo cho biết đây là những văn thư kết hôn của toàn thiên hạ. Còn những dây đỏ để
buộc chân những đôi trai gái sẽ thành vợ thành chồng. Một hôm, Vi Cố vào chợ gặp một
bà già chột mắt ẵm đứa bé đi qua. Bỗng ông già lại hiện lên cho biết đứa bé kia sẽ là vợ
anh. Vi Cố giận, bảo đày tớ tìm giết đứa bé ấy đi. Người đầy tớ lẻn đâm đứa bé giữa đám
đông rồi bỏ trốn. Mười bốn năm sau, quan Thứ Sử Trương Châu là Vương Thái gả con
gái cho Vi Cố. Người con gái dung nhan tươi đẹp, giữa lông mày có đính một bông hoa
vàng. Vi Cố gạn hỏi, vợ mới bảo: Thuở còn bé, một bà vú họ Trần bế vào chợ bị một tên
cuồng tặc đâm phải. Vi Cố hỏi: Có phải bà vú đó chột mắt không? người vợ bảo: Đúng
thế! Vi Cố kể lại chuyện trước, hai vợ chồng càng quý trọng nhau cho là duyên trời định
sẵn.
Mẩu chuyện vui: Tình yêu làm cho con người lú lẫn.
- Tâu Thượng đế, theo hạ thần thì thượng đế không cần đòi lại trí khôn của con
người. làm như thế không khỏi mang tiếng là trời nhỏ nhen. Điều mà thượng đế nên làm
là hạn chế trí khôn của con người.
- Bằng cách nào?
- Chỉ có tình yêu - Không có gì làm con người lú lẫn đi như trong tình yêu. Trời
chỉ cần phái một vị thần mang vòng dây xuống trần, cứ đôi trai gái nào ở gần nhau thì
quăng cho một vòng. Người nào càng thông minh thì cần quăng thêm cho nhiều vòng.
Con người chỉ luẩn quẩn trong những vòng ấy mà chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện lên
quấy nhiễu nhà trời nữa.
Trời khen "Thật là diệu kế!", bèn truyền cho ông tiên già mang những chiếc vòng
của trời xuống trần gian.
Từ ngày bị ông tiên già khoác vào người mình những vòng dây tình ái, con người
chỉ luẩn quẩn với nhau, không còn nghĩ tới chuyện đánh nhau với trời nữa. Ông tiên già
ấy được gọi là ông "Tơ" .
7. Tục thách cưới hay dở ra sao ?
Đã "Thách" là dở hoặc dở nhiều mà hay ít. Thời nay tôn trọng tự do luyến ái hôn
nhân, luật hôn nhân trong chế độ mới đã giải phóng cho nam nữ thanh niên, nhưng luật
tục còn gò bó, trói buộc. thách cưới cũng là một lệ tục lạc hậu rơi rớt lại, trói buộc cả nhà
trai lẫn nhà gái, có khi làm cho chàng rể phải bỏ cuộc mà nỗi thiệt thòi nhất lại rơi vào
thân phận người con gái, dẫu sao cũng mang tiếng một đời chồng, dẫu sao cũng làm cho
những chàng trai khác phải ngại, xui nên phận hẩm duyên hiu. Ngay thời trước cũng đã
có câu: "Giá thú bất luận tài". Đáng lẽ nên vợ nên chồng, thành gia thành thất, là mừng
cho cả hai gia đình, nhưng gặp phải một vài bà cô, ông bác bên nhà gái khó tính, thác