I. Bệnh Viêm Vú Ở Bò Sữa
1. Bệnh viêm vú (infection)
Bệnh xảy ra khi vi khuẩn xâm nhập vào ống tiết sữa, nhân lên trong tuyến
sữa. Sự xuất hiện hoặc không xuất hiện bệnh được xác định thông qua việc
lấy mẫu sữa đảm bảo vô trùng ở từng núm vú riêng biệt, nuôi cấy mẫu trong
điều kiện phòng thí nghiệm. Bệnh có thể ở dạng lâm sàng hoặc cận lâm sàng
tùy thuộc vào mức độ của quá trình viêm nhiễm.
19 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1296 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phòng và trị bệnh cho bò sữa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phòng Và Trị Bệnh Cho
Bò Sữa
I. Bệnh Viêm Vú Ở Bò Sữa
1. Bệnh viêm vú (infection)
Bệnh xảy ra khi vi khuẩn xâm nhập vào ống tiết sữa, nhân lên trong tuyến
sữa. Sự xuất hiện hoặc không xuất hiện bệnh được xác định thông qua việc
lấy mẫu sữa đảm bảo vô trùng ở từng núm vú riêng biệt, nuôi cấy mẫu trong
điều kiện phòng thí nghiệm. Bệnh có thể ở dạng lâm sàng hoặc cận lâm sàng
tùy thuộc vào mức độ của quá trình viêm nhiễm.
a. Viêm vú lâm sàng
Thể viêm vú lâm sàng đặc trưng bởi những biến đổi rõ rệt ở tuyến sữa hoặc
sữa. Những biến đổi trên có thể ở các mức độ nặng nhẹ khác nhau trong quá
trình diễn biến của bệnh. Các trường hợp bệnh có thể lâm sàng có thể được
coi là thể á cấp tính (thể lâm sàng nhẹ) khi các biểu hiện biến đổi nhẹ của sữa
và các núm vú bị nhiễm như tạo váng, lổn nhổn hoặc sữa biến màu. Các núm
vú này có thể bị sưng nhẹ và nhạy cảm.
b. Viêm vú cấp tính
Các trường hợp cấp tính được đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các
biểu hiện sưng, tấy đỏ, bầu sữa rắn, con vật đau, sữa không bình thường và
sản lượng sữa giảm. Những biểu hiện toàn thân như sốt, kém ăn.
c. Viêm vú quá cấp tính
Thể bệnh này ít thấy và cũng có những biểu hiện như trên, nhưng cũng có thể
có những biểu hiện như suy nhược, tăng nhịp tim và tần số hô hấp, vận động
kém, chân lạnh, phản xạ mắt giảm, mất nước và tiêu chảy.
d. Viêm vú cận lâm sàng
Thể bệnh này thường không rõ, không thể phát hiện bằng quan sát mắt
thường, song nó được nhận biết thông qua các xét nghiệm định hướng như
phát hiện các vi khuẩn, các tế bào thân. Một số người chưa ý thức đầy đủ về
sự lưu hành cũng như tầm quan trọng về mặt kinh tế của viêm cú có thể cận
lâm sàng, bởi vì sữa gần như ở trạng thái bình thường. Thể bệnh này rất quan
trọng bởi những lý do sau đây:
- Sự lưu hành cao gấp 15-40 lần so với thể lâm sàng.
- Luôn là nguy cơ của thể lâm sàng.
- Bệnh kéo dài.
- Khó phát hiện.
- Giảm quá trình tiết sữa.
- Có nguy cơ ảnh hưởng đến chất lượng sữa.
Ngoài ra thể cận lâm sàng còn quan trọng bởi vì nó là nguồn tàng trữ mầm
bệnh và gây nhiễm cho những con trong đàn.
e. Viêm vú mạn tính
Thể mạn tính có thể bắt đầu như bất cứ thể lâm sàng hoặc thể cận lâm sàng.
Bệnh được thể hiện qua các triệu chứng lâm sàng gián đoạn. Thường có sự
hình thành sẹo và làm biến đổi hình dạng tuyến sữa bị nhiễm, cùng với giảm
sản lượng sữa. Thời gian từ cận lâm sàng đến lâm sàng có thể rất lâu tùy
thuộc vào vi khuẩn gây bệnh, những yếu tố bất lợi (stress) và các yếu tố khác.
f. Các trường hợp viêm vú không đặc biệt
- Đôi khi được xem xét như viêm vú không do vi khuẩn, dạng này xảy ra khi
vi khuẩn không phân lập được từ sữa. Các trường hợp như vậy có thể hoặc là
do viêm vú lâm sàng, hoặc là do viêm vú cận lâm sàng.
- Bất kỳ nguyên nhân là gì thì mục đích cuối cùng trong việc quản lý bệnh
viêm vú là ngăn chặn bệnh xảy ra. Nếu không chúng ta không thể thành công
trong việc chống lại bệnh viêm vú.
2. Thiệt hại kinh tế từ bệnh viêm vú
- Hiện nay người ta đã đánh giá chính thức rằng bệnh viêm vú là một bệnh
nguy hại nhất của bò sữa. Nghiên cứu mới đây đã đánh giá lại rằng bệnh viêm
vú chiếm 26% tổng số chi phí tất cả bệnh tật của bò sữa, nó đặc biệt nghiêm
trọng vì sự thiệt hại từ bệnh viêm vú đã cao chừng hai lần thiệt hại do vô sinh
và bệnh sinh sản.
- Mặc dù hậu quả của bệnh viêm vú đã đượcdẫn chứng trong nhiều nghiên
cứu rộng rãi trên toàn thế giới, thực tế này đã không được truyền đạt một cách
thuyết phục đến một số chủ trại bò sữa ở khắp nơi. Nhiều trường hợp dường
như chỉ căn cứ vào bác sĩ thú y, đơn thuốc, xem xét các trường hợp lâm sàng
xảy ra và phải loại thải để giết mổ các động vật. Nếu đứng về phương diện
sản xuất sữa thì họ phải loại bỏ những con bò đã được điều trị: Những thiệt
hại có thể thấy được; Sự thiệt hại to lớn mà không thấy được trong quá trình
sản xuất sữa bởi các trường hợp nhiễm bệnh phi lâm sàng, mà các chủ trang
trại không phát hiện ra.
- Hội đồng quốc gia về bệnh viêm vú, một tổ chức phi lợi nhuận thành lập
năm 1961 để thúc đẩy nghiên cứu và đào tạo nhằm giảm bệnh viêm vú, có
đánh giá rằng thiệt hại do giảm sản lượng đã lên tới hơn 1 tỷ đô la hàng năm ở
Mỹ. Tổng số thiệt hại tới gần 2 tỷ đô la.
- Nhìn từ khía cạnh khác chi phí cho một nông trại nuôi bò sữa trung bình
khoảng 180 đô la cho một bò cái trong một năm.
- Nhân số bò cái trong đàn của bạn với 180 đô la, bạn sẽ được một con số có ý
nghĩa về chi phí riêng của bạn trong bệnh viêm vú bò sữa.
- Sự thiệt hại sẽ ở mức cao hơn nếu như số lượng tế bào thân trong sữa của
đàn gia súc của bạn ở trên mức trung bình. Trừ đi chi phí bệnh viêm vú vào
túi tiền của bạn và bạn sẽ bắt đầu thấy sự thiệt hại tổng sản phẩm sữa như thế
nào từ các ca viêm vú cận lâm sàng.
- Sự phân tích thiệt hại hàng năm do bệnh viêm vú gây ra đã được hội đồng
quốc gia về bệnh viêm vú soạn thảo vào năm 1985. Mặc dù ngày nay, tỷ lệ
bệnh viêm vú đã thấp hơn nhưng tổng thiệt hại kinh tế vẫn còn là cao. Số liệu
được thể hiện dưới đây.
- Các số liệu được ghi thành từng mục đã khẳng định rằng khoảng 70-80%
của tổng thiệt hại có liên quan đến bệnh viêm vú cận lâm sàng, trong khi đó
chỉ có 20-30% thiệt hại là do bệnh viêm vú lâm sàng. Cũng cần phải nhấn
mạnh rằng những số liệu thiệt hại này không bao gồm những thiệt hại khác
của ngành chăn nuôi bò sữa mà có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới bệnh
viêm vú. Ví dụ như sự tốn kém cho các máy vắt sữa, giảm chất lượng dinh
dưỡng của các sản phẩm sữa, làm sút kém các trang trại chăn nuôi bò sữa, can
thiệp vào các quá trình nâng cao tính di truyền của đàn bò sữa và các yếu tố
khác.
Nguồn thiệt hại Thiệt hại/1 conbo2 ($) %
- Giảm sản lượng sữa $ 116,10 64
- Sữa loại thải 24,44 14
- Thay thế đàn sớm 13,60 8
- Giá bò giảm 9,94 5
- Thuốc 9,68 5
- Dịch vụ thú y 4,84 3
- Công lao động 2,42 1
Tổng $ 181,02 100%
3. Bệnh viêm vú ảnh hưởng đến chất lượng sữa và thành phần của sữa
- Ngày nay người tiêu dùng đã có nhận thức nhiều hơn so với trước đây. Họ ý
thức đến sức khỏe và hy vọng rằng có một sản phẩm chất lượng cao tức là
khẩu vị tốt và thời gian bảo hành lâu hơn.
- Chất lượng của sản phẩm sữa cuối cùng đưa ra cho người tiêu dùng không
tốt hơn chất lượng nguyên liệu của chúng. Quá trình xử lý tốt nhất chỉ hy
vọng vào sự duy trì chất lượng sữa từ các trang trại, trong khi có nhiều đòi hỏi
khác nhau về các dạng sản phẩm theo yêu cầu của người tiêu dùng. Tất yếu là
người chế biên sữa thường dựa vào sữa trang trại có các thành phần lý, hóa
học và mùi vị như mong muốn.
- Các công nhân trong ngành sản xuất sữa biết rằng sự tăng lên tổng số vi sinh
vật trong sữa thường song song với sự tăng lên về số lượng vi khuẩn không bị
diệt qua quá trình hấp Pasteur. Các thiết bị vắt sữa không sạch và phần da của
bầu vú không sạch và khô ráo trước khi vắt sữa sẽ là nguồn lây nhiễm vi sinh
vật phổ biến nhất. Chúng ta phải lưu tâm đến các vi sinh vật gây viêm vú. Có
sự liên quan chặc chẽ giữa tỷ lệ nhiễm trùng bầu vú và độ ô nhiễm của bề mặt
núm vú. Do đó việc tránh nhiễm bẩn bề mặt núm vú sẽ giảm cả bệnh viêm vú
và cải thiện chất lượng cũng như thời gian bảo quản sản phẩm sữa.
- Khi mà tỷ lệ lưu hành của việc nhiễm bệnh qua sữa là rất nhỏ so với 50 năm
trước đây, chúng ta không được thờ ơ với việc dưa ra cho người tiêu dùng các
sản phẩm có chất lượng cao nhất. Đặt nhiều tin tưởng vào việc hấp pasteur
sữa, sự bảo quản lạnh để hạn chế sự phát triển của vi khuẩn và trộn lẫn sữa có
chất lượng thấp và sữa có chất lượng cao. Phải lưu tâm hơn với việc đưa ra
các phương pháp quản lý và vệ sinh đúng đắn để thu được kết quả là sản
phẩm có lượng vi sinh vật thấp nhất. Các chủ trang trại sẽ thu được nhiều lợi
nhuận hơn qua các yêu cầu lớn hơn về sữa và các sản phẩm khác từ sữa.
- Người tiêu dùng mong muốn nhiều hơn vào những sản phẩm cuối cùng của
sữa có thể bảo quản lâu hơn. Để mà trong một tuần (7 ngày) người tiêu dùng
có thể chỉ một lần đến mua sữa ở siêu thị.
- Những nghiên cứu gần đây đã đưa ra rằng đối với quy trình hấp pasteur thì
sau 14 ngày sữa có lượng tế bào thân ít hơn 250.000 có chất lượng cao hơn so
với sữa có lượng tế bào thân lớn hơn 500.000. Các kết luận tương tự cũng
được đưa ra khi chế biến sản phẩm sữa từ sữa có lượng tế bào thấp so với
lượng tế bào cao. Tất yếu rằng sữa có chất lượng cao nhất sẽ được cung cấp
cho người chế biến nếu như yêu cầu của người tiêu dùng được đặt ra.
- Ảnh hưởng của viêm vú lâm sàng đối với thành phần sữa và chất lượng chế
biến sữa được đưa ra ở bảng sau:
1. Lactose (tốt) giảm 5-20%
2. Tổng số protein (tốt) hơi giảm
3. Casein (tốt) giảm 6-18%
4. Globulin miễn (tồi) tăng
dịch
5. Chất rắn không
béo
(tốt) giảm 8%
6. Tổng số chất rắn (tốt) giảm 3-12%
7. Chất béo (tốt) giảm 5-12%
8. Lipit (tồi) tăng mùi khiết
9. Natri (tồi) tăng
10. Chlo (tồi) tăng
11. Canxi (tốt) giảm
12. Phospho (tốt) giảm
13. Kali (tốt) giảm
14. Khoáng chất (tồi) tăng ít
15. Bơ (tốt)
giảm sự đông vốn, độ béo và sản
lượng
16. Ổn định nhiệt độ (tốt) thấp đi
Viêm vú lâm sàng đã dẫn đến kết quả là có sự tăng lên các thành phần không
mong muốn và giảm đi các thành phần mong muốn của sữa khi chúng ta đang
cố gắng tạo ra sản phẩm sữa có chất lượng cao.
Những điểm cần ghi nhớ:
- Các chủ traị phải trả trung bình khoảng 180 đô la cho mỗi bò bị viêm
vú/năm.
- Khoảng 70-80% sự thiệt hại là do viêm vú cận lâm sàng.
- Các đàn bò với số lượng tế bào thân 400.000 sẽ thiệt hại 456 kg (1.200
pound) sữa mỗi năm. Sự thiệt hại này còn lớn hơn ở bò có số lượng tế bào
thân cao hơn.
- Hấp pasteur sữa có lượng tế bào thân ít hơn 250.000 sẽ có kết quả hơn sữa
có lượng tế bào thân lớn hơn 500.000
4. Các phương pháp kiểm tra viêm vú
a. Kiểm tra đặc tính lý học
Kiểm tra đặc tính lý học tốt nhất là trên bầu vú cạn sữa, ngay sau khi cho sữa.
Kiểm tra bầu vú để tìm ra các núm vú cứng, sưng và nóng do viêm vú cấp
tính, các núm vú méo mó với các mô sẹo là biểu hiện của sự thiệt hại vĩnh
viễn.
b. Kiểm tra những giọt sữa đầu tiên
- Sữa đầu phải được kiểm tra trong suốt thời kỳ chuẩn bị cho sữa. Quá trình
này được ví như là sự kiểm tra ban đầu (forestripping). Phương pháp này cho
phép tìm ra sữa không bình thường có biểu hiện bệnh lý được giữ trong các
thùng sữa và có biểu hiện viêm vú cần được chú ý. Sữa không bình thường có
biểu hiện mất màu, tạo váng, lổn nhổn và có thể loãng. Sự loại bỏ những giọt
sữa đầu cũng có tác dụng kích thích cơ chế tiết sữa.
- Cách truyền thống, kiểm tra sữa đầu bằng cách sử dụng các cốc (strip cụp)
hay đĩa (strip plate). Tiến trình này được kiểm tra ở phòng vắt sữa. Các cốc
kiểm tra chỉ được sử dụng khi đã sạch và đã làm vệ sinh mỗi lần vắt sữa.
- Phòng vắt sữa thì nên nhà phải được dội sạch, sữa đầu có thể vắt ra nền bằng
cách dùng một tấm đen đặt lên trên nền và vắt sữa lên trên đó để tăng tiến
trình kiểm tra sữa. Quá trình kiểm tra sữa thường làm dây các sữa có nhiễm
bệnh lên các núm vú, bầu vú và dây vào các cốc kiểm tra do người vắt sữa, vì
vậy bầu vú, núm vú và các cốc vắt sữa phải được rửa ngay lập tức. Theo
thường lệ sữa không được lây lan từ núm vú đến núm vú, từ bò đến bò.
c. Phương pháp thử viêm vú Califomia (CMT)
- CMT và các phép thử tương tự để ước tính lượng tế bào thân trong sữa, sự
ước tính này sẽ được ghi vào bàng số lượng tế bào thân theo điểm.
Lượng tế bào thân có xu hướng tăng trong thời gian tiết sữa và vẫn giữ số
lượng cao trong nhiều giờ sau đó, kể cả ở những núm vú không bị bệnh. Vậy
ta chỉ nên thực hiện các test trước khi vắt sữa (ngay sau khi kích thích bò tiết
sữa bằng cách loại bỏ sữa đầu) CMT phản ứng với chất có mặt trong tế bào
thân ở sữa nhờ các gel. Các phản ứng sẽ được ghi ở mức độ 0. T, 1, 2, 3 theo
lượng gel khi ta trộn sữa với chất gây phản ứng theo bảng sau:
Điểm Đánh giá
0 Không phản ứng
T Phản ứng nhẹ
1 Phản ứng nhẹ TB
2 Phản ứng TB
3 Phản ứng mạnh
- Nhiều chủ trang trại yêu cầu sử dụng hệ thống ghi điểm đơn giản hơn theo
bảng bên:
Điểm Đánh giá
N (âm tính) Không phản ứng
S (nghi ngờ) Phản ứng ít
P (dương tính) Phản ứng rõ rệt
- Các nghiên cứu cho thấy rằng phản ứng CMT tương đương với lượng tế bào
thân trong sữa theo bảng sau:
Điểm Đánh giá
0 100.000
T 300.000
1 900.000
2 2.700.000
3 8.100.000
- Kết quả kiểm tra ở mỗi bò phải được ghi lại để tham khảo sau này. Khi ta
ghi lại như vậy và cùng với các lần ta có thể tìm ra các trường hợp nhiễm
bệnh cận lâm sàng, các trường hợp nhiễm bệnh cận lâm sàng này ta sẽ không
biết trước cho tới khi bệnh nặng hơn. Các tế bào có trong sữa
là các tế bào bạch cầu đi vào bầu vú qua máu. Số lượng TBBC tăng lên là do
nhiễm bệnh viêm vú hoặc do các tổn thương cơ học.
- Sự tập trung tế bào thân cao trong sữa (> 200.000 Tb/ml) là dấu hiệu không
bình thường của bầu vú. CMT sẽ không xác định được một cách chính xác là
bò nào cần được điều trị bởi vì chỉ 60% bò với lượng tế bào thân >
500.000/ml thực sự nhiễm bệnh viêm vú.
II. Đê Bò Không Bị Cước Chân
- Thời tiết mùa đông lạnh, chuồng nuôi ẩm ướt, trâu bò phải làm việc ngâm
chân lâu trong nước lạnh. Chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng kém làm cơ thể bị
suy nhược dẫn đến khả năng đề kháng của cơ thể kém bị nhiễm khuẩn là
nguyên nhân phát bệnh cước chân. Trân, bò bị cước chân đi lại khó khăn, tăng
trọng chậm, làm giảm hiệu quả chăn nuôi.
- Nhận biết bệnh cước chân: đầu tiên da vùng chân con vật dày cộm lên, vùng
sưng có hiện tượng xung huyết, da bị nứt nẻ. Sau đó lớp biểu bì bị bong ra có
chảy dịch màu vàng, lộ ra một lớp tổ chức màu đỏ thẫm, nếu vết thương sâu
làm con vật què nằm tại chỗ, da và tổ chức dưới a bị hoại tử từng đám cỏ chỗ
tím bầm, có chỗ phồng rộp lên. Cuối cùng các tổ chức hoại tử ăn sâu xuống
thành hoại thư làm lộ ra cả những sợi cơ và xương. Bệnh nặng, gây biến
chứng có thể làm tắc mạch máu gây xung huyết ở phổi và bầm huyết ở não.
Phòng bệnh: thực hiện tốt công tác vệ sinh thú y như, chuồng trại luôn khô
ráo, sạch sẽ. Về mùa đông nên dùng chất độn chuồng, nhưng không để
chuồng ẩm ướt, nhất là những ngày thời tiết quá lạnh, mưa xuân kéo dài. Cho
ăn đủ khẩu phần và cân đối về dinh dưỡng nhằm nâng cao sức đề kháng.
Trị bệnh: nếu bệnh mới xuất hiện chúng ta có thể dùng dừng giã nhỏ hòa rượu
xoa bóp hàng ngày.
Nếu chỗ cước đã nhiễm trùng phải rửa sạch bằng dung dịch thuốc tím 1% sau
đó rắc bột Tetracylin hoặc Sunfamid.
Bệnh nặng, cần cắt bỏ những tổ chức hoại tử sau đó mới điều trị. Tiêm bắp
một trong các loại kháng sinh sau Pen-Strep 5.000 – 10.000 UI/kg thể
trọng/ngày; Ampicillin 7 – 10 mg/kg TT/ngày; Colinorxacin 1ml/15 kg
TT/ngày; Amtyo 7-8 ml/100 kg TT/ngày. Trợ sức, trợ lực: tiêm bắp Cafein
20-25 mg/kg P. Vitamin B1: 2-3 mg/kg P, Vitamin C: 3-5 mg/kg P. Điều trị
liên tục 5-7 ngày cho khỏi bệnh.
III. Phòng Chống Bệnh Lở Mồm, Long Móng
Dịch lở mồm, long móng đã xuất hiện với hàng nghìn con trâu, bò và lợn bị
nhiễm bệnh. Lở mồm, long móng là loại bệnh hết sức nguy hiểm, lây lan
nhanh, do đó các vùng có dịch cần xử lý triệt để theo hướng dẫn của thú y.
1. Tìm hiểu về bệnh lở mồm long móng
- Bệnh lở mồm long móng là một bệnh truyền nhiểm cấp tính, lây lan nhanh
do loại virus ARN nhỏ nhất, thuộc họ Picornaviridea, giống Aphthovirus gây
ra. Đây là một loại virus hướng thượng bì, có đặc điểm sốt và xuất hiện mụn
nước ở miệng, chân và đầu vú. Thời gian ủ bệnh của virus thường kéo dài ba
đến tám ngày, khi nhiễm bệnh con vật lên cơn sốt cao (40-41 độ C), ủ rũ, bò
ăn, ở những con đang cho sữa thì lượng sữa sẽ giảm đột ngột, thậm chí nhiều
con bị mất sữa.
- Đến ngày hôm sau, mụn nước bắt đầu xuất hiện ở chân (kẽ móng, quanh gờ
móng và bướu gót chân), niêm mạc (lưỡi, lợi, môi, chân răng) và đầu vú. Lúc
đầu mụn nước rất nhỏ, đường kính một đến hai cm, sau đó phát triển to lên
nhanh chóng, nổi lên trên bề mặt có màu trắng, các mụn này có thể kết hợp lại
với nhau. Tiếp theo mụn sẽ bị vỡ chảy ra dịch màu vàng rơm tạo nên các vết
loét thô sâu ở miệng con vật. Khi bị bệnh con vật ít ăn, hoặc bỏ hẳn ăn, đi lại
khó khăn, nhẹ thì mất sức kéo, nặng có thể dẫn đến chết với tỷ lệ lên đến 60%
đối với những loại gia súc nhỏ.
2. Cơ chế lây lan bệnh
- Lở mồm, long móng chủ yếu lây lan qua đường hô hấp và tiêu hóa. Sự lây
lan giữa bò và lợn phát sinh qua không khí là chính, lợn bị nhiễm bệnh có khả
năng tập trung virus lớn hơn 100 – 1.000 lần so với trâu, bò, thời gian tồn tại
của virus trong không khí cũng rất dài. Virus có thể sống sót bên ngoài cơ thể
con vật nếu không chịu tác động bởi nhiệt độ cao hoặc thay đổi độ pH. Nhiệt
độ ở mức 64 – 65 độ C virus sống được 30 phút, ở 70 độ C thời gian sống của
virus là 15 phút và ở nhiệt độ 80 độ C virus tồn tại được 3 phút. Trong thịt
đông lạnh virus sống được trong một thời gian dài và truyền từ nơi này sang
nơi khác do vận chuyển các chất thải từ lò mổ hoặc từ quần áo, xe cộ, thậm
chí trong điều kiện mát, ẩm, virus có thể lây truyền đi theo chiều gió rất xa.
- Ở lợn đường nhạy cảm nhất là hô hấp, tại đây virus được nhân lên rất nhiều
trong phổi nhưng sự lây lan của bệnh chỉ trong nhóm lây qua miệng. Ở bò
virus thường tồn tại ở mũi, họng, tuyến vị, virus sống trong các mô bào này từ
ba đến bảy tuần. Nguy hiểm hơn virus có sức lây lan rất mạnh đến ngay cả
mặt nạ, khẩu trang cũng không hạn chế được virus xâm nhập.
3. Cách phòng bệnh
Khi thấy xuất hiện bệnh phải tổ chứ khoanh vùng để dập ngay lập tức, tiến
hành cô lập những vùng có dịch, nghiêm cấm vận chuyển gia súc đã mắc
bệnh đi nơi khácphải thực hiện nghiêm túc các biện pháp sau:
Đối với nơi đã xảy ra dịch:
- Thực hiện tích cực việc bao vây dập tắc ổ dịch bằng mọi biện pháp. Xử lý
triệt để gia súc mắc bệnh bằng cách tiêu diệt hoàn toàn tránh lây lan ra diện
rộng, có thể đem gia súc đi chôn cất ở nơi xa dân cư hoặc thiêu đốt.
- Cách ly triệt để đàn gia súc khi số lượng nhiễm bệnh quá nhiều.
- Tiêu độc hàng ngày đối với chuồng nuôi, chất thải và mọi môi giới truyền
bệnh kể cả các phương tiện đi lại bằng nước vôi đặc 10 – 20%, vôi bột hoặc
xút 2%, formon 2%, crezin 5%.
- Tiêm phòng khẩn cấp cho những động vật dễ bị lây nhiễm bằng cách
tie6mm phòng bao vậy từ phía ngoài vào tâm ổ dịch.
Đối với nơi chưa có dịch:
Tuy chưa nhiễm bệnh, nhưng tại các vùng này phải thực hiện mạnh các
biện pháp sau:
- Cần phát hiện bệnh sớm, chẩn đoán, tốt nhất là thực hiện chẩn đoán định kỳ
ngăn ngừa bệnh từ xa.
- Thực hiện cách ly nghiêm ngặt động vật có biểu hiện triệu chứng lở mồm,
long móng và những con được chăn nuôi cùng. Ngăn chặn mọi môi giới
truyền bệnh, tăng cường theo dõi, chăm sóc đàn vật nuôi trong vùng dịch.
- Tiêu độc định kỳ môi trường, nơi liên quan đến chăn nuôi động vật, nhất là
vùng ổ dịch cũ hoặc nơi mới phát sinh để tiêu diệt mầm bệnh.
- Xử lý vệ sinh thú y triệt để các phương tiện vận chuyển thức ăn chăn nuôi,
vận dụng (quần, áo) và nước uống.
Phương pháp chữa bệnh:
- Ở miệng: dùng chất sát trùng nhẹ như thuốc tím với liều lượng 0,1% hoặc
nước quá chua (chanh, khế) bóp lấy nước xoa vào niêm mạc miệng. Cho
gia súc ăn thức ăn mềm, dễ tiêu.
- Móng: rửa sạch, dùng các loại kháng sinh mỡ, cồn iốt, thuốc nam như lá
bàng, lá phèn đen, thanh xoan, lá trầu khôngchống nhiễm trùng, kích thích
lên da non, chống ruồi muỗi.
- Ở vú: thường xuyên vắt cạn sữa, sát trùng mụn loét bằng dung dịch sát
trùng, nếu bị nặng dùng thêm các kháng sinh Penicillin, Streptomyxinđể
tiêm.
IV. Chữa Lở Mồm Long Móng Cho Bò Bằng Thuốc Nam
Trâu, bò và đặc biệt là đối với trâu, bò nuôi thả rông thường bị các bệnh về
chăn móng nói riêng và các bệnh khác nói chung trong mùa đông giá lạnh.
Chữa bệnh lở mồm long móng cho trâu, bò dù bằng phương pháp Tây y hay
Đông y cũng chủ yếu là chữa triệu chứng vì đây là loại bệnh do virus gây nên.
Mục đích chữa trị là giúp vết thương mau lành, đề phòng nhiễm trùng kế phát
gây biến chứng nguy