Phùng Hưng (? - 791[1]) là thủ lĩnh cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại sự
thống trị của nhà Đường ở Việt Nam thời Bắc thuộc lần thứ ba (602-905), đuổi được
người phương Bắc và cầm quyền cai trị một thời gian.
Tiểu sử
Phùng Hưng xuất thân từ dòng dõi cự tộc lâu đời ở đất Đường Lâm nay là xã
Đường Lâm, Sơn Tây, TP Hà Nội. Đường Lâm xưa kia vốn là vùng đất gò đồi và
rừng cây rậm rạp bởi vậy mới có tên gọi là "đường lâm"
6 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1552 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phùng Hưng-Bố cái Đại Vương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phùng Hưng-Bố cái Đại Vương
Phùng Hưng (? - 791[1]) là thủ lĩnh cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại sự
thống trị của nhà Đường ở Việt Nam thời Bắc thuộc lần thứ ba (602-905), đuổi được
người phương Bắc và cầm quyền cai trị một thời gian.
Tiểu sử
Phùng Hưng xuất thân từ dòng dõi cự tộc lâu đời ở đất Đường Lâm nay là xã
Đường Lâm, Sơn Tây, TP Hà Nội. Đường Lâm xưa kia vốn là vùng đất gò đồi và
rừng cây rậm rạp bởi vậy mới có tên gọi là "đường lâm".
Cho tới nay ngày sinh của ông vẫn chưa rõ. Các sách chính sử như Đại Việt Sử
ký Toàn thư, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục ghi ông mất năm 791, chỉ
một thời gian ngắn sau khi đuổi được giặc Bắc phương. Một nguồn dã sử cho biết ông
sinh ngày 25 tháng 11 năm 760 (tức 5-1-761) và mất ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Ngọ
(tức 13-9-802), thọ 41 tuổi[2].
Phùng Hưng có tên tự là Công Phấn, cháu 7 đời của Phùng Tói Cái - người đã
từng vào trong cung vua Đường Cao Tổ, thời niên hiệu Vũ Đức (618-626) dự yến tiệc
và làm quan lang ở đất Đường Lâm. Bố của Phùng Hưng là Phùng Hạp Khanh - một
người hiền tài đức độ.
Khoảng năm Nhâm Tuất (722) đời Đường Huyền Tông niên hiệu Khai
Nguyên, Phùng Hạp Khanh đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (tức Mai
Hắc Đế). Sau đó, ông trở về quê chăm chú công việc điền viên, trở nên giàu có, trong
nhà nuôi nô tỳ có đến hàng nghìn người[3].
Theo sự tích, Phùng Hạp Khanh có một người vợ họ Sử. Ông bà sinh một lần
được ba người con trai khôi ngô khác thường, lớn lên ai cũng có sức khỏe, có thể kéo
trâu, quật hổ. Anh cả là Phùng Hưng, em thứ hai là Phùng Hải (tự là Tư Hào) và em út
là Phùng Dĩnh (tự là Danh Đạt). Đến năm ba anh em 18 tuổi thì bố mẹ đều mất. Trong
ba anh em, anh cả Phùng Hưng là người có sức khỏe và khí phách đặc biệt.
Sự nghiệp
Phùng Hưng nối nghiệp cha trở thành hào trưởng đất Đường Lâm. Cho tới nay
dân gian vẫn còn lưu truyền câu chuyện ông dùng mưu kế giết hổ dữ mang lại bình
yên cho làng xóm.
ViệtNamthời thuộc Đường gọi là An Nam đô hộ phủ, khi đó đang nằm dưới
ách cai trị hà khắc của bọn quan đô hộ. Các quan đô hộ nhà Đường ra sức vơ vét của
cải của người dân ViệtNam, bắt người dân Việt phải đóng sưu cao thuế nặng khiến
lòng người ngày càng căm phẫn.
Năm 767, Cao Chính Bình, hiệu úy châu Vũ Định (miền Việt Bắc) giúp kinh
lược sứ An Nam là Trương Bá Nghi đánh bại được cuộc xâm lược của quân Chà Và
(Java) ở Chu Diên, sau đó được cử làm đô hộ An Nam. Chính Bình ra sức vơ vét của
cải của nhân dân, đánh thuế rất nặng.
Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-779), chưa rõ đích xác vào năm nào, nhân
lòng căm phẫn của người dân, lợi dụng khi quân lính ở Tống Bình (Hà Nội) nổi loạn,
Phùng Hưng đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ.
Đền thờ Phùng Hưng tại thôn Mông Phụ, Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội
Cuộc khởi nghĩa do Phùng Hưng phát động nhận được sự hưởng ứng rộng rãi
của người dân từ khắp các miền đất Giao châu. Thoạt đầu, anh em họ Phùng nổi dậy
làm chủ Đường Lâm rồi nghĩa quân tiến lên đánh chiếm được cả một miền rộng lớn
quanh vùng thuộc Phong Châu, xây dựng thành căn cứ chống giặc. Phùng Hưng xưng
là Đô Quân; Phùng Hải xưng là Đô Bảo và Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng, chia quân
đi trấn giữ những nơi hiểm yếu. Cao Chính Bình đem quân đi đàn áp nhưng chưa phân
thắng bại. Tình hình diễn ra như vậy hơn 20 năm.
Được sự trợ giúp của người cùng làng có nhiều mưu lược là Đỗ Anh Hàn,
tháng 4 năm Tân Mùi (791), Phùng Hưng từ chỗ cầm cự đã cùng các tướng lĩnh đem
quân vây đánh thành Tống Bình. Quân của Phùng Hưng chia làm 5 đạo do các tướng
Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần và chủ tướng Phùng Hưng tiến
công vây thành.
Phần lớn các truyền thuyết đều kể rằng: Phùng Hưng nhận thấy lực lượng chưa
thật đủ mạnh để đè bẹp quân địch, ông đã cùng các tướng tỏa đi xung quanh chiêu mộ
thêm binh lính và sắm thêm vũ khí, còn việc vây thành được giao cho 3 người cháu
gái họ Phùng, gọi Phùng Hưng bằng bác[4].
Cuộc chiến đấu sau đó diễn ra quyết liệt, quân Đường chết nhiều, Cao Chính
Bình phải vào cố thủ trong thành, lo sợ cuối cùng bị ốm rồi chết.
Phùng Hưng chiếm lĩnh thành trì và vào phủ Đô hộ, coi chính sự đất nước.
Qua đời
Chính sử chép rằng ông cầm quyền cai trị không lâu sau đó đã qua đời ngay
trong năm 791. Các sử gia hiện nay xác định ông mất khoảng tháng 5 năm 791[5].
Nguồn dã sử Việt điện U linh của Lý Tế Xuyên và giai thoại dân gian cho rằng:
ông cầm quyền được 7 năm, nhưng lại mất năm 802[6]. Thông tin này không phù hợp
về logic: Năm 791 giành được Tống Bình mà mất năm 802 tức là Phùng Hưng cầm
quyền trong 11 năm chứ không phải 7 năm. GS Nguyễn Khắc Thuần cho rằng: Lý Tế
Xuyên và truyền thuyết dân gian đã có sự lầm lẫn: hơn 7 năm là thời gian tính từ khi
Phùng Hưng làm chủ khu vực quanh Đường Lâm tới khi ông mất, chứ không phải tính
từ khi ông làm chủ Tống Bình[7].
Ông được nhân dân suy tôn là Bố Cái Đại Vương .
Em và con
Sau khi mất, con trai ông là Phùng An lên nối ngôi, dâng tôn hiệu cha là Bố Cái
Đại Vương. An nối nghiệp được hai năm thì đất nước lại rơi vào tay giặc. Nền tự chủ
vừa mới xây dựng, chỉ tồn tại vẻn vẹn trên dưới 9 năm. Sau khi đặt nền cai trị, bọn
quan quân nhà Đường liên tục truy sát những người trong gia tộc họ Phùng. Theo các
dòng sông lớn dòng họ Phùng toả về các vùng núi, trung du, các vùng hạ lưu các con
sông lớn nhỏ để lập nghiệp. Nhưng phần lớn vẫn là ở các vùng như Hà Tây, Vĩnh
Phúc, Phú Thọ...tập trung lớn nhất phải kể đến như dòng họ Phùng Quang ở Vĩnh
Phúc, dòng họ Phùng Xuân thuộc hữu ngạn sông Bùi Chương Mỹ - Hà Tây, dòng họ
Phùng Văn ở Ba Vì, Phùng Huy ở Thanh Hoá...
Đền thờ
Lăng Mộ và đền thờ chính
Ban thờ Phùng Hưng (nơi đặt linh vị của ông) tại đền thờ ở thôn Mông Phụ,
Đường Lâm
Lăng mộ Phùng Hưng ngày nay nằm ở đầu phố Giảng Võ, quận Ba Đình, thành
phố Hà Nội. Đền thờ ông được dựng lên ở nhiều nơi như quê hương Đường Lâm, đình
Quảng Bá (Tây Hồ), đình Triều Khúc (Thanh Trì, Hà Nội), thờ ở lăng Đại Áng,
Phương Trung, Hoạch An, phủ Thanh Oai (Hà Nội); tại xã Gia Thanh, Gia Viễn tỉnh
Ninh Bình có 3 ngôi đền thờ Bố Cái Đại Vương, tương truyền ông mất tại đây.
Sau này đất Đường Lâm quê ông còn xuất hiện một vị vua nữa - Ngô Quyền,
người đánh bại cuộc xâm lược của Nam Hán, chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc (938).
Do vậy Đường Lâm còn được biết đến với tên gọi "Đất hai Vua".
Đình làng Đào Nguyên
Lễ hội làng Đào Nguyên là một lễ hội được tổ chức tại làng Đào Nguyên, xã
An Thượng, huyện Hoài Đức, ngoại thành Hà Nội. Đây là lễ hội truyền thống của
làng. Tương truyền lễ hội này có từ rất lâu đời [cần dẫn nguồn]. Theo nhiều sử sách
ghi lại và các cụ trong làng kể lại thì lễ hội này được tổ chức để tưởng nhớ Bố Cái Đại
Vương Phùng Hưng (dân gian gọi là thánh của làng hay Hoàng Làng).
Hội được tổ chức vào ngày 10-2 âm lịch hàng năm (khác với các làng khác
trong xã An Thượng đều tổ chức lễ hội vào ngày 12-1 âm lịch). Vậy nên lễ hội thu hút
rất nhiều người từ các vùng lân cận đến xem.
Lễ rước kiệu là một nghi lễ bắt buộc trong hội. Hàng năm đều tổ chức rước
kiệu lên quán (đường đi là đường trên của đê tả Đáy), nhưng chỉ là rước nhỏ, cứ 5
năm lại tổ chức rước to một lần gắn với lễ hội to.
Lễ rước kiệu đầu tiên được tổ chức vào xuân Nhâm Thân (1992).
Theo dự kiến của Làng thì lễ hội to tiếp theo sẽ được tổ chức vào năm Canh
Dần (2010).
Trong lễ ruớc kiệu, người ta rước tất cả 7 cái kiệu, khi rước nhỏ thì chỉ rước 5
cái (gọi là rước oản), còn khi rước to thì rước tất cả 7 cái. Gồm có:
Quân kiệu: Lấy từ các nam nữ thanh niên trong làng và phải chưa có vợ chồng.
Nữ: rước 3 kiệu đầu tiên, gọi là kiệu oản và rước thêm kiệu Long Đình nếu là
lễ rước to.
Nam: rước các kiệu còn lại