II. Dạy học đại học :
Dạy học là một khoa học và cũng là một nghệ thuật. Dạy học đại học lại
càng cần có tính khoa học và tính nghệ thuật cao.Tính khoa học của Dạy học
đại học đòi hỏi phải nắm vững bản chất của quá trình đào tạo đại học :
Dạy học đại học là dạy nhận thức (Cognitive), dạy kĩ năng
(Psychomotor) và dạy cảm nhận (Affective). Tùy theo khoa học (Tự nhiên hay
Xã hội - Nhân văn, Cơ bản hay Công nghệ, Kỹ thuật .), và tuỳ theo mục tiêu
đào tạo (Đại học hay Sau đại học, chuyên môn hay nghiệp vụ, .) mà chọn chủ
điểm hay trọng tâm về dạy nhận thức, dạy kĩ năng hay dạy cảm nhận cho phù
hợp.
Tính nghệ thuật của việc dạy học đại học thể hiện ở năng lực của giáo
viên làm sao cho khơi dậy được tiềm năng tiếp thu, phát triển và sáng tạo của
người học để nhận thức, để cảm nhận và để có kỹ năng cao.
Như vậy, Giáo viên nào càng nắm vững tính khoa học và nghệ thuật của
việc dạy học thì sẽ dạy cho sinh viên có được các bậc nhận thức, bậc cảm nhận
hay bậc kĩ năng càng cao và giáo viên đó sẽ có chất lượng dạy học cao, đồng
thời sản phẩm đào tạo cũng có chất lượng cao.
Theo S.J.Hidalgo (Tips on how to teach effectively, Rex Book
store,1994) thì có khoảng 60 phương pháp dạy học đại học khác nhau, mỗi
phương pháp đều có những điểm mạnh và những điểm yếu. Các điểm mạnh và
các điểm yếu đó lại tăng hay giảm, thay đổi các điểm mạnh thành các điểm yếu
hoặc ngược lại, tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi môn học, mỗi cấp học và mục
tiêu đào tạo.70
Tuy nhiên có thể phân các phương pháp dạy học thành 2 nhóm chính:
- Nhóm I, Gồm các phương pháp dạy học thụ động hoá người học, hay
còn gọi là các phương pháp dạy học lấy thầy giáo làm trung tâm;
- Nhóm II, Gồm các phương pháp dạy học chủ động hoá người học hay
còn gọi là các phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm.
Dù dạy theo phương pháp nào thì vấn đề đặt ra là phải dạy cho sinh viên
có các bậc nhận thức, bậc cảm nhận và bậc kỹ năng càng cao càng tốt. Vì vậy
giáo viên tinh thông chuyên môn là điều kiện tiên quyết để dạy đạt chất lượng
cao. Tuy nhiên, nghiệp vụ sư phạm ngày nay đã là yếu tố quan trọng làm cho
dạy học ở bậc đại học và sau đại học có chất lượng và hiệu quả hơn.
Nếu thừa nhận trọng tâm của dạy học đại học là đào tạo năng lực và vì
học tập trong nhà trường chỉ là giai đoạn đầu của quá trình học tập suốt đời,
thì kiến thức dạy trên lớp không cần phải nhiều, chỉ cần đủ để tự học tiếp theo
không chỉ chính nội dung môn học đang dạy mà cả những kiến thức tiếp tục
thu nhận và phát triển của khoa học-kỹ thuật ngoài học đường. Cho nên giáo
viên cần chọn các kiến thức cốt lõi để dạy học trên lớp, còn mở rộng phải bắt
tự học và phải sử dụng thi - kiểm tra để đánh giá thành quả học tập và đánh
giá năng lực tự học.
Với quan niệm như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng các phương
pháp dạy học tích cực (chủ động hoá người học) như các phương pháp "Thảo
luận nhóm" (group discussion), phương pháp "Nghiên cứu trường hợp điển
hình" (case study). . . mà không sợ "cháy giáo án". Tuỳ thuộc vào năng lực và
kinh nghiệm của mỗi giáo viên sẽ vận dụng các phương pháp dạy học tích cực
cho mỗi môn học đạt đến đỉnh cao của chất lượng đào tạo. Chính vì thế, các
giáo viên dạy học cùng chuyên môn cần thường xuyên trao đổi kinh nghiệm
dạy học với nhau và giúp đội ngũ kế cận sớm trau dồi được tính khoa học và
tính nghệ thuật cao trong dạy học mà không phải mò mẫm như các bậc "tiền
bối".
13 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 98 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp dạy và học đại học áp dụng trong học chế tín chỉ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
68
PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC ĐẠI HỌC
ÁP DỤNG TRONG HỌC CHẾ TÍN CHỈ
Lê Đức Ngọc
Đại học Quốc gia Hà Nội
I. Bản chất và đặc điểm dạy và học trong học chế tín chỉ :
Hiện tồn tại hai mô hình giáo dục:
1- Lấy thầy giáo làm trung tâm: dạy làm chính, thuộc bài của thày là giỏi.
2- Lấy người học làm trung tâm: học làm chính, tự chiếm lĩnh được kiến
thức mới là giỏi.
Sự khác biệt giữa hai mô hình trên về dạy và học lấy giáo viên làm
trung tâm và học viên làm trung tâm được tóm tắt trong bảng sau:
Giáo viên làm trung tâm Học viên làm trung tâm
Truyền
thụ kiến
thức
Kiến thức được truyền thụ từ
giáo viên đến học viên theo
những gì giáo viên nói được
tiếp thu và được học bởi học
viên
Kiến thức xây dựng được từ
người học qua việc thu thập, tổng
hợp và tích hợp thông tin với các
kỹ năng như điều tra, trao đổi
cũng như tư duy phê phán và tư
duy sáng tạo
Sử dụng
kiến
thức
Nhấn mạnh lĩnh hội kiến thức
(thường là nhớ thông tin)
ngoài bối cảnh thực tế mà
kiến thức được sử dụng
Nhấn mạnh sử dụng và trao đổi
kiến thức có hiệu quả nhằm vào
những vấn đề mà giống như sẽ
gặp trong đời sống thực
Vai trò
của giáo
viên
Giáo viên là người cung cấp
thông tin ban đầu và kiểm tra
kết quả học tập
Giáo viên là người huấn luyện và
thúc đẩy việc học. Cả hai giáo
viên và học viên cùng đánh giá
kết quả học tập
Kiểm tra
đánh giá
Kiểm tra đánh giá được sử
dụng để đánh giá kết quả học
tập
Kiểm tra đánh giá được sử dụng
đẻ khảo sát vấn đề và thúc đẩy
việc học sâu hơn, ngoài đánh giá
kết quả học tập
Văn hoá
học
Văn hoá học là cạnh tranh và
cá thể hoá
Văn hoá học là hợp tác, cộng tác
và trợ giúp
(Jonathan A.Aliponga, PhD. Nishiyamato Gakuen and Hakoho Womens College Nara, Japan.
Changing Winds and Shifting Sands: From Teacher-centred to Learner-centred Institution.
CDT Link, July 2004 Vol.8 No2)
69
Bản chất của học chế tín chỉ là thực hiện một qui trình đào tạo:
1- Tất cả vì người học: cách tốt nhất đáp ứng các mong muốn của người
học khi học đại học.
2- Mang lại hiệu quả (= chất lượng + hiệu suất) đào tạo cao:
- Chất lượng cao vì đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực.
- Hiệu suất cao vì khai thác triệt để nguồn lực (nhân lực, vật lực và
tài lực) để đào tạo.
- Qui mô càng lớn, trường càng nhiều lĩnh vực hiệu quả càng cao.
3- Công nghệ hoá đào tạo: qui trình mang tính công nghệ cao.
4- Thích ứng với kinh tế thi trường: tuân theo qui luật giá trị, canh tranh
làm động lực không ngừng nâng cao chất lượng (người học được chọn
thày, chọn môn học) và nguồn nhân lực chuyển đổi ngành nghề
nhanh.
5- Đáp ứng xu thế toàn cầu hoá: chuyển đổi, trao đổi, liên thông toàn cầu.
Với Bản chất và đặc điểm của học chế tín chỉ như vậy, bản tham luận
này, xin nêu một số nguyên tắc chính về dạy và học đại học áp dụng trong học
chế tín chỉ để các độc giả tham khảo
II. Dạy học đại học :
Dạy học là một khoa học và cũng là một nghệ thuật. Dạy học đại học lại
càng cần có tính khoa học và tính nghệ thuật cao.Tính khoa học của Dạy học
đại học đòi hỏi phải nắm vững bản chất của quá trình đào tạo đại học :
Dạy học đại học là dạy nhận thức (Cognitive), dạy kĩ năng
(Psychomotor) và dạy cảm nhận (Affective). Tùy theo khoa học (Tự nhiên hay
Xã hội - Nhân văn, Cơ bản hay Công nghệ, Kỹ thuật ...), và tuỳ theo mục tiêu
đào tạo (Đại học hay Sau đại học, chuyên môn hay nghiệp vụ, ...) mà chọn chủ
điểm hay trọng tâm về dạy nhận thức, dạy kĩ năng hay dạy cảm nhận cho phù
hợp.
Tính nghệ thuật của việc dạy học đại học thể hiện ở năng lực của giáo
viên làm sao cho khơi dậy được tiềm năng tiếp thu, phát triển và sáng tạo của
người học để nhận thức, để cảm nhận và để có kỹ năng cao.
Như vậy, Giáo viên nào càng nắm vững tính khoa học và nghệ thuật của
việc dạy học thì sẽ dạy cho sinh viên có được các bậc nhận thức, bậc cảm nhận
hay bậc kĩ năng càng cao và giáo viên đó sẽ có chất lượng dạy học cao, đồng
thời sản phẩm đào tạo cũng có chất lượng cao.
Theo S.J.Hidalgo (Tips on how to teach effectively, Rex Book
store,1994) thì có khoảng 60 phương pháp dạy học đại học khác nhau, mỗi
phương pháp đều có những điểm mạnh và những điểm yếu. Các điểm mạnh và
các điểm yếu đó lại tăng hay giảm, thay đổi các điểm mạnh thành các điểm yếu
hoặc ngược lại, tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi môn học, mỗi cấp học và mục
tiêu đào tạo.
70
Tuy nhiên có thể phân các phương pháp dạy học thành 2 nhóm chính:
- Nhóm I, Gồm các phương pháp dạy học thụ động hoá người học, hay
còn gọi là các phương pháp dạy học lấy thầy giáo làm trung tâm;
- Nhóm II, Gồm các phương pháp dạy học chủ động hoá người học hay
còn gọi là các phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm.
Dù dạy theo phương pháp nào thì vấn đề đặt ra là phải dạy cho sinh viên
có các bậc nhận thức, bậc cảm nhận và bậc kỹ năng càng cao càng tốt. Vì vậy
giáo viên tinh thông chuyên môn là điều kiện tiên quyết để dạy đạt chất lượng
cao. Tuy nhiên, nghiệp vụ sư phạm ngày nay đã là yếu tố quan trọng làm cho
dạy học ở bậc đại học và sau đại học có chất lượng và hiệu quả hơn.
Nếu thừa nhận trọng tâm của dạy học đại học là đào tạo năng lực và vì
học tập trong nhà trường chỉ là giai đoạn đầu của quá trình học tập suốt đời,
thì kiến thức dạy trên lớp không cần phải nhiều, chỉ cần đủ để tự học tiếp theo
không chỉ chính nội dung môn học đang dạy mà cả những kiến thức tiếp tục
thu nhận và phát triển của khoa học-kỹ thuật ngoài học đường. Cho nên giáo
viên cần chọn các kiến thức cốt lõi để dạy học trên lớp, còn mở rộng phải bắt
tự học và phải sử dụng thi - kiểm tra để đánh giá thành quả học tập và đánh
giá năng lực tự học.
Với quan niệm như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng các phương
pháp dạy học tích cực (chủ động hoá người học) như các phương pháp "Thảo
luận nhóm" (group discussion), phương pháp "Nghiên cứu trường hợp điển
hình" (case study). . . mà không sợ "cháy giáo án". Tuỳ thuộc vào năng lực và
kinh nghiệm của mỗi giáo viên sẽ vận dụng các phương pháp dạy học tích cực
cho mỗi môn học đạt đến đỉnh cao của chất lượng đào tạo. Chính vì thế, các
giáo viên dạy học cùng chuyên môn cần thường xuyên trao đổi kinh nghiệm
dạy học với nhau và giúp đội ngũ kế cận sớm trau dồi được tính khoa học và
tính nghệ thuật cao trong dạy học mà không phải mò mẫm như các bậc "tiền
bối".
III. Dạy cách học – Một trong những yêu cầu của đào tạo theo học chế tín
chỉ
Cuối thế kỷ XX, khoa học giáo dục đã chuyển từ quan điểm dạy học
“lấy người dạy làm trung tâm”, chuyển sang quan điểm “lấy người học làm
trung tâm” trong nhà trường từ tiểu học đến đại học là một cuộc cách mạng về
giáo dục. Thực chất là chuyển từ chỗ lấy “việc dạy làm trung tâm” sang lấy
“việc học làm trung tâm”. Khi “lấy việc học làm trung tâm” thì phương pháp
học tập trở nên có vai trò đặc biệt quan trọng.
Học tập trong xã hội thông tin là quá trình thu thập thông tin, xử lý
thông tin và tích trữ thông tin dưới dạng tri thức, từ nhà trường hay môi trường
sống, làm cho người học tự biến đổi về trí tuệ và làm phong phú thêm tri thức
của mình, điều đó cũng làm thoả mãn nhu cầu tự nhiên của mỗi người học.
71
Giáo
viên
Trong kinh tế tri thức, người ta phân tri thức thành hai loại:
+ Loại thứ nhất- loại tri thức có thể “điển chế hoá” được, đó là loại tri
thức “ nổi”, có thể được “ nhìn thấy” qua các văn bản, qua hình và qua tiếng,
đó là loại hàng hoá và vì vậy loại này có thể mua bán được.
+Loại thứ hai – loại không thể “điển chế hoá” được, còn gọi là loại tri
thức “ngầm” như: khả năng tri giác, khả năng sáng tạo, óc phán xét, kinh
nghiệm xử lý tình huống....Và như vậy tri thức loại này không dễ gì mua bán
trực tiếp được mà chỉ có thể mua bán gián tiếp thông qua đào tạo.
Tri thức “ngầm” quan trọng nhất có lẽ là năng lực học hỏi liên tục để
đạt tới những năng lực mới, đó chính là phương pháp học tập. Quá trình học
tập của một cá nhân và vai trò của giáo viên khi “lấy việc học làm trung tâm”
có thể mô tả qua sơ đồ sau:
Ngửi-Khứu giác Truyền đạt trí thức
Thông
Nghe-Thính giác Tin Phương pháp thu
nhận thông tin
Thông
Nhìn-Thị giác Người học Phương pháp
xử lý thông tin
tin
Sờ - Xúc giác Phương pháp
ra quyết định
Tri
Nếm-Vị giác Thức Kiểm tra/Đánh giá
kết quả học tập
Phân tích sơ đồ ta thấy:
+ Người học: có thể thu nhận thông tin qua 5 giác quan,
+ Giáo viên: truyền đạt tri thức, dạy phương pháp thu nhận thông tin,
dạy phương pháp xử lý thông tin, dạy phương pháp ra quyết định để đào tạo
năng lực chuyển thông tin thành tri thức của người học và việc kiểm tra đánh
giá kết quả học tập của người học, đó là vai trò đặc biệt quan trọng mà công
nghệ và kỹ thuật dù hoàn thiện và phát triển đến đâu cũng không thể thay thế
được người giáo viên.
Cũng qua sơ đồ, chúng ta nhận thấy, sự tái hiện của thông tin hay tri
thức của người học sẽ là quá trình tái hiện tích hợp của các giác quan. Thí dụ,
khi nói đến “ Chè mạn” thì:
+ ở mức độ thấp, chúng ta đã hình dung ra ngay hình thù, màu sắc,
hương vị của chè mạn.
+ ở mức độ cao, người ta còn nghĩ ngay đến tác dụng của chè làm tỉnh
táo, minh mẫn, rồi nuốt nước bọt vì thèm được uống một chén chè nóng hổi và
thậm trí còn nhớ cả địa danh có chè ngon – chè Thái chẳng hạn.
Tất cả các điều phân tích trên đây cho phép:
+ Xác lập được phương pháp học tập hiệu quả nhất cho người học
72
+ Dễ dàng lý giải được các số liệu thống kê sau đây:
Nghe không thôi chỉ nhớ được 20%; Nhìn không thôi chỉ nhớ được
30%; Vừa nghe vừa nhìn thì nhớ được đến 50%;Nói lại được nhớ đến 80%;
Còn vừa nói vừa làm thì nhớ được đến 90%.
+ Lý giải các câu châm ngôn: nếu tôi chỉ nghe thì tôi sẽ quên ngay,
nhưng nếu tôi nhìn thì tôi sẽ nhớ, còn nếu tôi thực hành thì tôi sẽ hiểu (I hear I
forget, I see I remember, I do I understand). Hoặc: Trăm nghe không bằng một
thấy, trăm thấy không bằng một làm.
Về phương châm học tập ở bậc đại học:
Bác Hồ đã nói về phương châm học tập một cách hết sức tóm tắt là
“Cách học tập: Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”. Như
vậy theo cách nói của Bác, phương châm học tập là ngoài việc lấy tự học làm
chính thì việc học còn phải qua thảo luận nhóm và có sự hướng dẫn của thầy.
Khổng tử dạy học trò học tập theo phương châm sau đây:
+ “Học cho rộng, hỏi cho kỹ, phản biện cho sáng tỏ, làm cho hết sức.
+ Có điều không học, nhưng đã học có điều gì chưa thấu thì không thôi.
+ Có điều không hỏi, nhưng đã hỏi có điều gì mà chưa kỹ thì không thôi.
+ Có điều không phản biện, nhưng đã phản biện điều gì mà chưa sáng
tỏ thì không thôi.
+ Có điều gì không nghĩ, nhưng đã nghĩ điều gì mà chưa nghĩ đến nơi
thì không thôi.
+ Có điều gì không làm, nhưng đã làm điều gì mà chưa tận lực thì
không thôi.
+ Người ta dụng công một, ta dụng công một mà không được thì phải
dụng công gấp trăm; người ta dụng công mười, ta dụng công mười mà không
thành thì phải dụng công gấp nghìn lần để kỳ được mới thôi.
Nếu quả theo được đạo ấy thì tuy ngu rồi cũng thành sáng”.
Như vậy theo Khổng tử thì phương châm học tập là phải tham khảo
nhiều tài liệu, tìm hiểu bài cho thật sâu qua điều tra vặn hỏi, học phải có bình
luận đánh giá và thực hành cho thật nhiều với một quyết tâm cao thì trước chưa
thạo nhưng rồi cũng sẽ thành thạo.
Nội dung dạy cách học ở trường đại học:
1- Dạy cách lập kế hoạch học tập:
+ Dạy cách lập kế hoạch phấn đấu trong học tập với mục tiêu cụ thể: để
có mục tiêu phấn đấu, để phân biệt được việc chính với việc phụ, việc làm ngay
với việc sẽ phải làm và đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu phấn đấu để từng
bước tích luỹ kết quả học tập.
+ Dạy cách lập kế hoạch sử dụng thời gian: để làm chủ được quĩ thời
gian và không quên các việc sẽ phải làm, không bị động trước rất nhiều các tư
liệu cần phải đọc và các công việc phải hoàn thành đúng hạn.
2- Dạy cách nghe giảng và ghi bài trên lớp:
73
+ Dạy nguyên tắc chính của nghe-ghi: Nghe ghi đầy đủ, tỷ mỉ để có khả
năng kết hợp cao nhất đồng thời thính giác, thị giác và tri giác, nhờ đó hiểu và
tái hiện thông tin-tri thức một cách dễ dàng và sâu sắc nhất.
+ Dạy các thủ thuật nghe – ghi: tuỳ theo đặc điểm của từng môn học,
dạy cách viết tắt, viết gạch chân để nhấn mạnh và dễ nhớ. . .
+ Dạy cách theo dõi, đọc tài liệu: có hiệu quả và hiệu suất cao.
3- Dạy cách học bài:
+ Dạy cách tự học: học theo các bậc nhận thức cao của Bloom (học vận
dụng, học phân tích, học tổng hợp và học bình luận đánh giá từng kiến thức),
học tư duy trừu tượng, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo trong mối quan hệ hệ
thống của các kiến thức.
+ Dạy cách học nhóm: để học cách giao tiếp, học cách trình bầy diễn
giải bằng lời, học cách thuyết phục đồng nghiệp, học cách quản lý và tổ chức từ
một nhóm nhỏ học tập đến một hội thảo đông đảo, học cách tham khảo trí tuệ
của bạn học và đồng nghiệp . . .
4- Dạy cách đọc sách:
+ Dạy cách chọn sách đọc: chọn sách cho phù hợp với mục tiêu môn
học, chọn sách cho phù hợp với trình độ người học, chọn sách để đào sâu, học
rộng . .
+ Dạy cách đọc sách và ghi chép: để lưu giữ thông tin, để bổ sung bài
giảng và để tự học nâng cao tri thức, năng lực. . .
5- Dạy cách nghiên cứu và giải quyết vấn đề:
+ Dạy cách chọn vấn đề: theo ý nghĩa khoa học hay ý nghĩa thực tiễn
hay; chọn vấn đề theo sở thích hay theo hệ thống nghiên cứu của thày, của đơn
vị
+ Dạy cách nghiên cứu vấn đề: cách xây dựng đề cương nghiên cứu;
cách thu thập tư liệu; cách viết tổng quan; cách phân tích, tổng hợp và bình
luận đánh giá các tư liệu thu thập được và đề xuất phương hướng giải quyết
vấn đề . . .
+ Dạy cách giải quyết vấn đề: cách chọn lọc phương pháp giải quyết
vấn đề, các bước triển khai giải quyết vấn đề, các thử nghiệm giải quyết vấn đề,
cách kiểm tra đánh giá kết quả giải quyết vấn đề.
IV. Dạy –học để phát triển tư duy:
Dạy và học là hoạt động nhận thức và hoạt động tư duy của thày và trò.
Giữa nhận thức và tư duy có mối quan hệ chặt chẽ, được mô tả bởi Costa (2001) trong
bảng đối chiếu sau đây :
Bảng : Mức độ tư duy đối chiếu với phân loại của Bloom về quá trình
nhận thức
Kết quả học tập
Chuỗi cấp
độ tư duy
Năng lực tư duy Phân loại của Bloom
về năng lực nhận thức
Quá trình
nhận thức
74
Tư duy cơ bản:
. Thu thập thông tin
. Truyền lại thông tin
1. Nhận biết:
. Nhớ lại thông tin giống như đã
được trình bày
2. Hiểu:
. Có khả năng sử dụng một số
thông tin mà không nhất thiết hiểu
toàn bộ hàm ý và mối liên quan của
chúng
. Thu thập
. Lưu trữ
. Tái hiện
Tư duy sâu sắc và đáp
ứng:
. Đưa ra những suy
nghĩ nghiêm túc, . .
. Đưa ra các nhiệm vụ
và các vấn đề được
khảo sát một cách có
phê phán
(tư duy phê phán)
3. ứng dụng (vận dụng):
. Có khả năng sử dụng các công cụ
được học vào các tình huống khác
nhau
4. Phân tích
.Có khả năng dùng những công cụ
khác bên ngoài để hiểu thành phần
cấu thành
.Có khả năng phân nhỏ thông tin
thành các thành phần
. Mã hoá
. Phác hoạ
. Suy diễn
Từ cấp độ
thấp,
Đơn giản
Đến cấp
độ cao,
Phứctạp.
Tư duy năng động :
. Tạo ra những điểm
mới, khác thường hay
là một sản phẩm, một
phương pháp, một hệ
thống, một ý tưởng
mới.
(tư duy sáng tạo).
5. Tổng hợp:
. Có khả năng sáng tạo từ các thành
phần thành một chỉnh thể mới
. Đặt các riêng rẽ liên hợp với nhau
một cách minh bạch
. Tổ hợp các yếu tố để tạo nên một
cấu trúc.
6. Đánh giá:
. Tạo nên những phán quyết
. Liên kết
thành một
khối kiến
thức.
. Hình thành
thông tin mới
Như vậy, Dạy-học tư duy, chính là dậy năng lực nhận thức bậc cao.
Theo (Costa, 2001), việc dạy tư duy cần phải bao gồm ba thành tố tạo thành
một hoạt động Dạy-học cân đối, đó là dạy để phát triển tư duy, dạy có tư duy
và dạy về tư duy (Teaching for thinking, teaching of thinking and teaching
about thinking)
4.1 Dạy để phát triển tư duy
Dạy để phát triển tư duy có nghĩa là giảng viên phải xem xét, theo dõi,
hướng dẫn và tạo điều kiện cho sinh viên hướng tới tư duy. Giáo viên cần:
1. Đề xuất các vấn đề, nêu các câu hỏi và xen vào là những nghịch lý, những
tình huống khó xử, những mâu thuẫn nhằm tạo sự thách thức và cuốn hút
sinh viên suy nghĩ.
2. Xây dựng môi trường học tập trong đó tư duy được khuyến khích phát triển:
Giảng viên phải coi đây là một mục tiêu cần được coi trọng, được giành thời
gian và nguồn tài liệu phong phú.
3. Thu thập bằng chứng cụ thể về tư duy, sản phẩm của tư duy, tổ chức đánh
giá và báo cáo.
75
4. Tích cực quan tâm và có những nhận xét về ý tưởng mà sinh viên đưa ra
nhằm tạo niềm tin, khích lệ tính mạo hiểm, trải nghiệm và sáng tạo của
sinh viên. Để làm được điều này, đòi hỏi giảng viên phải có sự lắng nghe
“phi phê phán”, có sự thăm dò những ý tưởng và giả thiết mà sinh viên đưa
ra.
5. Nỗ lực nâng cao và mô hình hoá các thao tác tư duy mà giảng viên mong
muốn sinh viên đạt được.
4.2 Dạy có tư duy
Dạy có tư duy đòi hỏi giảng viên trực tiếp hướng dẫn cho sinh viên các
quy trình tư duy thông qua hệ thống bài tập đã được chuẩn bị chu đáo, tích cực
sử dụng các kỹ năng tư duy như ‘khả năng và mâu thuẫn’, ‘phân tích, đánh giá,
tổng hợp’, ‘tổ chức và quy trình’.
Dạy có tư duy không chỉ bao gồm dạy các bước và các phương pháp
giải quyết vấn đề, dạy tư duy sáng tạo và ra quyết định mà còn bao gồm cả thói
quen hoá thái độ, làm nên đặc trưng của một con người có kỹ năng tư duy
thành thục và hiệu quả. Những thói quen như vậy chỉ được thiết lập thông qua
những cơ hội do giảng viên tạo ra để sinh viên có thể áp dụng chúng trong các
bối cảnh và ngữ cảnh đa dạng. Sinh viên phải có khả năng phát triển các
khuynh hướng và thói quen tư duy bao gồm:
• sự ham hiểu biết
• nhu cầu xác minh
• suy nghĩ lô gíc và tư duy phê phán
• xem xét các giả thiết và kết quả
• chú ý tới tính đúng đắn và chính xác
• kiên nhẫn và bền bỉ
4.3 Dạy về tư duy
Trọng tâm của hoạt động dạy về tư duy trong học tập là nhận thức
chuyển đổi. Nhận thức chuyển đổi có thể được mô tả thông qua những cuộc
thảo luận với sinh viên về những gì đang diễn ra trong tâm trí họ khi họ tư duy,
so sánh các phương pháp giải quyết vấn đề và ra quyết định khác nhau của sinh
viên, xác định những gì đã biết, cái gì cần biết và phương pháp để đạt được tri
thức đó. Người ta đã thấy rằng những người có khả năng giải quyết tốt các vấn
đề đều vận dụng nhận thức chuyển đổi - họ hoạch định một quy trình hành
động trước khi bắt tay vào giải quyết một nhiệm vụ nào đó, tự kiểm soát hướng
đi của mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đó, có ý thức điều chỉnh kế
hoạch cho phù hợp, đánh giá công việc sau khi hoàn thành. Chuyển đổi nhận
thức trong học tập liên quan đến việc nhận biết mục tiêu, ý định và suy xét để
đạt được mục tiêu đó.
Dường như việc đẩy mạnh học tập tư duy trong một lớp đông sinh viên
gặp khá nhiều khó khăn hơn. Một phương pháp đơn giản nhưng hữu hiệu nhằm
cuốn hút sinh viên chú ý và tư duy trong giờ giảng cho một lớp đông sinh viên
76
là yêu cầu sinh viên trong 5 phút cuối viết ra 3 vấn đề chính của bài giảng mà
họ cho là quan trọng nhất đối với họ và giải thích sự lựa chọn của mình. Một
cách khác là viết nhật ký học tập, ghi chép lại các hoạt động học tập và suy
nghĩ của bản thân về các hoạt động học tập này.
Tư duy có hiệu lực nhất thông qua hoạt động học tập theo nhóm hoặc
theo cặp. Đây là một khó khăn đối với một lớp đông sinh viên, nhưng Tư duy -
Theo cặp - Chia xẻ là một loại hình hoạt động rất dễ dàng thực hiện được ngay
cả trong một lớp có thể đông tới một vài trăm sinh viên.
V. Giảng viên trong dạy học tư duy:
5.1 Các phương pháp chính để giảng viên phát triển kỹ năng tư duy cho
sinh viên
Dưới đây là một số gợi ý quan trọng giúp giảng viên phát triển kỹ năng tư
duy cho sinh viên do Kolb (1984), Gibbs (1992), Rogers (2001) và Giarrusso
(2001) đề xuất trong các nghiên cứu về học tập tư duy:
1.