Bài viết trình bày những vấn đề cơ bản liên quan đến phương pháp giao tiếp trong dạy học như khái niệm phương pháp giao tiếp và quá trình hình thành phương pháp giao tiếp. Tác giả so sánh phương pháp giao tiếp với các phương pháp dạy học khác nhằm làm nổi bật ưu thế của phương pháp giao tiếp trong dạy học, đồng thời điểm qua tình hình áp dụng phương pháp giao tiếp ở một số nước trên thế giới và ở Việt Nam. Tác giả cũng giới thiệu một số biện pháp dạy học theo phương pháp giao tiếp như điền khuyết thông tin, thu thập thông tin, chuyển đổi thông tin, xử lí thông tin, trò chơi, đóng vai, v.v. Những biện pháp này có thể ứng dụng hiệu quả trong giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 139 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp giao tiếp và dạy tiếng Việt theo phương pháp giao tiếp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
492
PHƯƠNG PHÁP GIAO TIẾP VÀ DẠY TIẾNG VIỆT
THEO PHƯƠNG PHÁP GIAO TIẾP
Nguyn Minh Thuyt
Tóm t
t: Bài viết trình bày những vấn đề cơ bản
liên quan đến phương pháp giao tiếp trong dạy học
như khái niệm phương pháp giao tiếp và quá trình hình
thành phương pháp giao tiếp. Tác giả so sánh phương
pháp giao tiếp với các phương pháp dạy học khác
nhằm làm nổi bật ưu thế của phương pháp giao tiếp
trong dạy học, đồng thời điểm qua tình hình áp dụng
phương pháp giao tiếp ở một số nước trên thế giới và ở
Việt Nam. Tác giả cũng giới thiệu một số biện pháp dạy
học theo phương pháp giao tiếp như điền khuyết thông
tin, thu thập thông tin, chuyển đổi thông tin, xử lí thông
tin, trò chơi, đóng vai, v.v.. Những biện pháp này có thể
ứng dụng hiệu quả trong giảng dạy tiếng Việt như một
ngoại ngữ.
Abstract: The paper introduces main issues of
communicative teaching method such as the definition
and the establishment of the method. The
communicative method is compared with other
teaching methods in order to emphasize its
advantages, as well as its application in some countries
and Vietnam. The paper also introduces several
important skills of communicative method such as filling
information, collecting information, transforming
information, playing games, role-playing, etc. These
skills can be effectively applied in teaching Vietnamese
as a second language.
1. Khái niệm phương pháp giao tiếp trong
dạy học
Dạy ngôn ngữ theo phương pháp giao tiếp là
mô phỏng con đường hình thành và phát triển
năng lực giao tiếp của con người vào việc thiết kế
và thực hiện chương trình học tập nhằm giúp
người học thụ đắc năng lực này một cách nhanh
chóng và bền vững.
Theo Celce-Murcia và các cộng sự, năng lực
giao tiếp (communicative competence) được thể
hiện ở năm khía cạnh như sau1:
- Năng lực diễn ngôn (discourse competence):
khả năng sắp xếp, tổ chức từ ngữ, cấu trúc để tạo
được một diễn ngôn có tính liên kết và mạch lạc.
- Năng lực ngôn ngữ (linguistic competence):
các kiến thức về hệ thống ngôn ngữ, như kiến thức
về ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp, chính tả,... làm
cơ sở để thực hiện giao tiếp dưới hình thức văn
bản (diễn ngôn) nói cũng như viết.
- Năng lực hành động lời nói (actional
competence): khả năng biểu đạt ý định bằng hình
thái ngôn ngữ thích hợp dựa trên kiến thức về chức
năng ngôn ngữ và hành động lời nói (speech act).
- Năng lực văn hóa - xã hội (socio-cultural
competence): khả năng biểu đạt hành động lời nói
một cách phù hợp trong bối cảnh văn hóa - xã hội
cụ thể.
- Năng lực chiến lược (strategic competence):
khả năng đàm phán ngữ nghĩa (negotiation for
meaning) để đạt được sự thông hiểu lẫn nhau khi
năng lực ngôn ngữ còn thấp và có thể gây khó
khăn cho giao tiếp.
Có thể thấy ưu điểm rõ rệt của quan niệm nói
trên là chỉ ra được sự cần thiết hình thành và phát
triển năng lực chiến lược và năng lực văn hóa-xã
hội của người học. Người học, nhất là trong giai
đoạn đầu, thường không có đủ vốn từ, vốn ngữ
pháp để diễn đạt ý tưởng của mình và tiếp thu ý
kiến người khác. Bên cạnh đó, việc học theo
phương pháp cấu trúc đơn thuần cũng không tạo
được cho người học khả năng biểu đạt hành động
lời nói một cách phù hợp trong bối cảnh văn hóa-
xã hội cụ thể, nhất là khi việc học diễn ra ngoài
môi trường giao tiếp của người bản ngữ. Chương
1
Celce-Murcia M., Dornyei Z., Thurrell S.
Communicative competence: A pedagogically motivated
model with content specifications. Issues in Applied
linguistics, 6 (2), 1995, p. 5-53.
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
493
trình dạy học mới phải rèn cho họ khắc phục
những hạn chế này, biết cách xoay xở để đạt được
sự thông hiểu lẫn nhau với người đối thoại và cách
nói năng phù hợp với phong tục, tập quán của người
bản ngữ. Đó không chỉ là kĩ năng sử dụng ngôn
ngữ mà còn là kĩ năng mềm cần được rèn luyện.
Bên cạnh ưu điểm trên, danh sách năng lực
giao tiếp do nhóm Celce-Murcia đề xuất có một
nhược điểm khá căn bản là không chú ý đến năng
lực tiếp thụ (giải mã) của nhân vật giao tiếp. Quả
thực, khi nói đến năng lực diễn ngôn, các tác giả
chỉ đề cập khả năng tạo được một diễn ngôn có
tính liên kết và mạch lạc; khi giải thích về năng
lực lời nói, các tác giả chỉ quan tâm đến khả năng
biểu đạt ý định bằng hình thái ngôn ngữ thích
hợp; và khi bàn về năng lực văn hóa-xã hội, chỉ
thấy khả năng biểu đạt hành động lời nói một cách
phù hợp trong bối cảnh văn hóa-xã hội cụ thể. Các
kĩ năng tiếp thụ văn bản (diễn ngôn) như nghe,
đọc không được xếp vào bất cứ năng lực nào.
Việc tách năng lực chiến lược, cụ thể là năng
lực đàm phán ngữ nghĩa, khỏi năng lực hành động
lời nói cũng không thật hợp lí bởi vì năng lực
chiến lược chỉ là một bộ phận của năng lực lời
nói. Sự phân biệt năng lực hành động lời nói với
năng lực diễn ngôn cũng có thể khiến người đọc
băn khoăn về sự cần thiết và tính thuyết phục của
việc này. Sự thực thì diễn ngôn là sản phẩm của
hành động lời nói. Và kết quả mà hành động lời
nói tạo ra - “hình thái ngôn ngữ thích hợp” để biểu
đạt ý định của người nói, như quan niệm của các
tác giả - cũng chính là diễn ngôn.
Từ những điều đã phân tích, có thể hình dung
nhiệm vụ của môn học trong việc tạo năng lực
giao tiếp là tạo ra các năng lực cụ thể như sau:
- Năng lực ngôn ngữ
- Năng lực hành động lời nói
- Năng lực văn hóa - xã hội.
Mỗi năng lực nói trên đều bao gồm hai khía
cạnh tạo lập và tiếp nhận văn bản (diễn ngôn). Đó
là những năng lực cần hình thành ở học sinh (HS)
khi dạy ngoại ngữ cũng như dạy tiếng mẹ đẻ.
2. Quá trình hình thành phương pháp giao tiếp
Phương pháp dạy học có ảnh hưởng rộng rãi
nhất và lâu đời nhất trong cả hai lĩnh vực dạy
ngoại ngữ và dạy tiếng mẹ đẻ (hoặc dạy ngôn ngữ
phổ thông) là phương pháp cấu trúc (tài liệu về
dạy học ngoại ngữ gọi là phương pháp ngữ pháp -
dịch, tiếng Anh: grammar - translation method).
Trong lĩnh vực dạy ngoại ngữ, xuất phát từ
quan niệm học ngoại ngữ (khởi đầu là học tiếng
Latin, tiếng Hy Lạp) là để đọc tài liệu bằng tiếng
nước ngoài và phát triển tri thức, người ta tập
trung dạy các cấu trúc ngữ pháp nhằm phục vụ
việc dịch tài liệu từ tiếng nước ngoài ra tiếng mẹ
đẻ của người học. 2 Các giáo trình và cách dạy
ngoại ngữ cho những lớp không chuyên ngữ ở
nước ta cho đến tận cuối những năm 70 thế kỷ
trước vẫn áp dụng phương pháp này nên người
học không nghe, nói được ngoại ngữ mình học.
Từ cuối những năm 70, do ảnh hưởng của giáo
trình và cách dạy của nước ngoài, phương pháp
dạy ngoại ngữ đã có nhiều thay đổi và đưa lại kết
quả khả quan. Tuy nhiên, việc dạy tiếng Việt cho
người nước ngoài và người Việt Nam ở nước
ngoài hầu như không biến chuyển, đặc biệt là ở
các lớp của cộng đồng do giáo viên không chuyên
đảm nhận. Cho đến năm 2006, khi chúng tôi đi
khảo sát việc dạy tiếng Việt của cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài, hầu hết các lớp tiếng Việt
ở Thái Lan, Lào, Campuchia vẫn sử dụng sách
Tiếng Việt tiểu học soạn cho học sinh trong nước
để dạy cho những HS chưa hề biết hoặc biết rất ít
tiếng Việt nên hàng năm trời các em vẫn không biết
nói tiếng Việt. Đây là nguyên nhân chủ yếu khiến
nhiều HS mất hứng thú với tiếng Việt và bỏ học.
Cũng do ảnh hưởng của phương pháp cấu trúc,
trong lĩnh vực dạy tiếng mẹ đẻ, vì quan niệm
người học là người bản ngữ đã biết nói và nghe
thuần thục trước khi đến trường nên chương trình,
sách giáo khoa phổ thông thường chỉ tập trung
trang bị cho HS kiến thức ngôn ngữ học (bao gồm
2
Nguyễn Thị Thuỷ Minh, Đường hướng, phương pháp và
kĩ thuật dạy học ngoại ngữ - một góc nhìn tham chiếu. Tài
liệu “Hội thảo PPDH Ngữ văn”, Viện KHGDVN, Hà Nội,
2009, tr. 59.
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
494
kiến thức lí thuyết về ngữ âm-chính tả, từ vựng-
ngữ nghĩa, ngữ pháp) và các kĩ năng đọc, viết.
Việc rèn kĩ năng nói có được đề cập nhưng hầu
như không triển khai được trên thực tế; còn kĩ
năng nghe thì bị bỏ rơi, nếu không kể việc nó tình cờ
được rèn luyện qua các giờ chính tả ở cấp Tiểu học.
Phương pháp cấu trúc trang bị cho người học
kiến thức ngôn ngữ tường minh (explicit
knowledge, là kiến thức về quy tắc và chuẩn mực
có được nhờ học tập một cách có ý thức) và kiến
thức siêu ngôn ngữ (meta-linguistic knowledge, là
kiến thức lí thuyết ngôn ngữ học). Tuy nhiên, vì
chỉ chú trọng đến hình thái cấu trúc mà bỏ qua ý
nghĩa ngữ dụng (pragmatic meaning) nên người
học dù có nắm được hình thái cấu trúc cũng khó
có thể sử dụng được chúng trong thực tế giao tiếp.
Hơn nữa, theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu,
chỉ có kiến thức ngôn ngữ tiềm ẩn (implicit
knowledge, là kiến thức có được nhờ học một
cách vô thức thông qua sử dụng ngôn ngữ) mới
giúp người ta sử dụng ngôn ngữ trôi chảy.3 Học
theo phương pháp cấu trúc, người học không phát
triển được loại kiến thức này vì không có cơ hội
sử dụng ngôn ngữ trong tình huống giao tiếp.
Từ giữa thế kỷ XIX, ở châu Âu, cơ hội giao
tiếp giữa các nước láng giềng tăng lên, đòi hỏi
người học phải giỏi khẩu ngữ. Người ta bắt đầu
tìm kiếm một phương pháp dạy ngoại ngữ mới có
thể đáp ứng được đòi hỏi ấy và phương pháp trực
tiếp (direct method) là một trong những phương
pháp được ưa chuộng lúc bấy giờ. Nguyên tắc dạy
học của phương pháp này là làm sao để việc học
ngoại ngữ giống với quá trình học tiếng mẹ đẻ.
Dạy học theo phương pháp này, khẩu ngữ được
chú trọng phát triển thay vì tập trung vào phân tích
ngữ pháp, và ngôn ngữ được sử dụng để dạy học
là ngoại ngữ chứ không phải là tiếng mẹ đẻ của
người học. Có thể coi đây là bước đi đầu tiên
hướng tới phương pháp Giao tiếp, nhưng nó chưa
kịp phát huy ảnh hưởng sang lĩnh vực dạy tiếng
mẹ đẻ.
3
Ellis, R. 2005. Principles of Instructed Language
Learning. Asian EFL Journal Vol. 7, Issue 3. Dẫn theo
Nguyễn Thị Thuỷ Minh, Tlđd, tr. 60.
Phương pháp trực tiếp rất phổ biến ở châu Âu
và Mỹ vào cuối thế kỉ XIX cho đến đầu thế kỷ
XX. Nhưng từ những năm 20 của thế kỉ trước trở
đi, phương pháp này bắt đầu mất dần sự ảnh
hưởng, đặc biệt là ở Mỹ, vì nó khó áp dụng được
ở trường công, nơi phần lớn các lớp học đều đông
người học, ngân quỹ hạn hẹp không thuê được
giáo viên (GV) bản ngữ, trình độ GV (không phải
bản ngữ) còn hạn chế, thời gian trên lớp không đủ
để phát triển kĩ năng hội thoại và nhiều người học
cũng không có nhu cầu giao tiếp bằng ngoại ngữ.4
Sau khi phương pháp trực tiếp không còn được
ưa chuộng, vào những năm 30 của thế kỷ trước, ở
Anh đã hình thành phương pháp tình huống
(situational language teaching). Theo Richards và
Rodgers, việc dạy ngoại ngữ theo tình huống tuân
theo những nguyên tắc chính như sau5:
- Giờ học được tiến hành bằng ngôn ngữ đích.
- Ngữ liệu được dạy bằng lời nói trước khi
chúng được trình bày ở dạng viết.
- Ngôn ngữ mới trong bài được giới thiệu và
luyện tập trong tình huống.
- Cấu trúc ngữ pháp được sắp xếp theo quy tắc
các cấu trúc đơn giản được dạy trước các cấu trúc
phức tạp hơn.
Dạy ngôn ngữ gắn liền với tình huống là một
bước tiến mới trên con đường hình thành phương
pháp giao tiếp.
Tuy nhiên, thành công của phương pháp này bị
hạn chế bởi chương trình dạy cấu trúc (structural
syllabus) của nó, trong đó các cấu trúc ngữ pháp
được tổ chức dạy theo trình tự từ dễ đến khó. Như
các nghiên cứu về thụ đắc ngôn ngữ thứ hai đã chỉ
ra, người học ngoại ngữ cũng giống như trẻ em
học ngôn ngữ thứ nhất, có chương trình học đã
được lập trình (built-in syllabus hay internal
syllabus) của riêng mình, trong đó một số hình vị
4
Richards, J., & Rodgers, T. Approaches and Methods in
language teaching: a Destription and Analysis.
Cambridge, 1996: CUP. Dẫn theo Nguyễn Thị Thuỷ
Minh, Tlđd, tr. 61-62.
5
Như trên, tr. 62.
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
495
và cấu trúc được tiếp thụ trước một số khác.6 Ví
dụ, trẻ em bản ngữ và người học tiếng Anh đều
tiếp thụ dạng thức -ing trước dạng thức -ed của
động từ, bất kể cái gì được dạy trước. Việc dạy
cấu trúc phải tôn trọng chương trình đã được lập
trình này của người học mới có hiệu quả. Tuy
nhiên, cho đến nay, những gì chúng ta biết về
trình tự thụ đắc các cấu trúc trong các ngôn ngữ
khác nhau là quá ít để có thể xây dựng một
chương trình dạy học đáp ứng được đòi hỏi này.
Hạn chế nói trên của phương pháp tình huống
được khắc phục nhờ sự ra đời của phương pháp
dạy học theo nhiệm vụ (task-based language
learning and teaching).
Theo Ellis, nhiệm vụ là một kế hoạch hành
động (work plan) có mục đích rõ ràng. Ông phân
biệt nhiệm vụ tập trung (focused task) với nhiệm
vụ không tập trung (unfocused task). Nhiệm vụ
tập trung là những nhiệm vụ được thiết kế nhằm
luyện tập một cấu trúc cụ thể nào đó. Nhiệm vụ
không tập trung, ngược lại, là những nhiệm vụ
không nhằm luyện tập một cấu trúc cụ thể nào.7
Một giờ học theo nhiệm vụ có ba giai đoạn8:
- Giai đoạn đầu là giai đoạn chuẩn bị (pre-
task). Ở giai đoạn này, GV nêu nhiệm vụ, xác
định yêu cầu, hướng dẫn người học các chiến lược
giao tiếp,... GV cũng có thể cho người học nghe
hoặc xem một đoạn băng về những người khác
thực hiện nhiệm vụ tương tự như thế nào, với điều
kiện việc này không ảnh hưởng đến cách giải
quyết vấn đề của người học (ví dụ tiết lộ đáp án,
giải pháp,...).
- Giai đoạn thứ hai là giai đoạn thực hiện (task
circle). Ở giai đoạn này, người học sẽ thực hiện
nhiệm vụ theo cặp/nhóm và sử dụng bất cứ cấu
6
Ellis, R. 1994. The Study of Second Language
Acquisition. Oxford: Oxford University Press. Dẫn theo
Nguyễn Thị Thuỷ Minh, Tlđd, tr. 63.
7
Ellis, R. Task-based Language Learning and Teaching.
Oxford, 2003: OUP. Dẫn theo Nguyễn Thị Thuỷ Minh,
Tlđd, tr. 76.
8
Harmer, J. The Practice of English Language Teaching.
Longman, 2003. Dẫn theo Nguyễn Thị Thuỷ Minh, Tlđd,
tr. 77-78.
trúc hay từ ngữ nào họ muốn để diễn đạt ý kiến
của mình. Trong khi đó, GV sẽ đi xung quanh lớp
để khuyến khích và giúp người học diễn đạt
những điều họ muốn diễn đạt (nhưng không sửa
lỗi của họ). Mục đích của giai đoạn này là xây
dựng sự tự tin cho người học, giúp họ luyện tập
ngôn ngữ một cách tự phát trong nhóm nhỏ. Sau
đó, các nhóm sẽ chỉ định người mô tả lại cách mà
cả nhóm thực hiện nhiệm vụ cho các nhóm khác
nghe. Các nhóm sẽ luyện tập lại cách thực hiện
nhiệm vụ, trong khi GV đi quanh lớp và giúp họ
sửa lỗi. Mục đích của việc sửa lỗi này là để giúp
người học sử dụng ngôn ngữ chính xác, mạch lạc.
Sau khi các nhóm đã sẵn sàng, GV sẽ mời một số
nhóm lên trình bày hoặc thực hiện lại nhiệm vụ
trước lớp và cho các nhóm đối chiếu kết quả với
nhau. GV nghe và đưa ra nhận xét về nội dung
thực hiện; có thể giúp người học diễn đạt chính
xác hơn nhưng không sửa lỗi một cách công khai
và tường minh.
- Giai đoạn cuối cùng (post-task) là giai đoạn
hậu kì, để cho người học thực hiện lại nhiệm vụ,
đánh giá nhiệm vụ và luyện tập thêm. Người học
được hướng dẫn để tìm hiểu hình thái, ngữ nghĩa
và cách sử dụng của những cấu trúc đã xuất hiện
hoặc họ đã sử dụng khi thực hiện nhiệm vụ và GV
có thể cung cấp thêm các bài tập luyện tập về cấu
trúc để người học nắm vững hơn.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập
theo nhóm, vì người học buộc phải sử dụng ngôn
ngữ để trình bày ý kiến của mình nên GV sẽ đánh
giá được nhu cầu về từ ngữ và cấu trúc để cung
cấp cho người học thay vì áp đặt trước cho họ như
các chương trình cấu trúc truyền thống. Bằng cách
này, việc học ngôn ngữ thứ hai sẽ diễn ra giống
với việc trẻ em học ngôn ngữ mẹ đẻ ở chỗ việc
học diễn ra hoàn toàn tình cờ khi người học có
nhu cầu giao tiếp. Và vì các hiện tượng ngôn ngữ
được học là để phục vụ cho cầu giao tiếp cụ thể
nên người học sẽ nhận ra được mối quan hệ giữa
một hiện tượng ngữ pháp với chức năng nó thực
hiện. Nói tóm lại, phương pháp dạy học theo
nhiệm vụ không dẫn người học đi từ kiến thức
ngôn ngữ tường minh (nhờ các bài lí thuyết) đến
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
496
việc sử dụng những kiến thức đó, mà hình thành
dần kiến thức ngôn ngữ tiềm ẩn và kĩ năng sử
dụng ngôn ngữ cho họ thông qua hoạt động giao
tiếp để hoàn thành nhiệm vụ. Đúng như nhận xét
của Richards và Rodges, đây là bước chuyển từ
quan niệm “học ngoại ngữ để sử dụng được nó”
sang “sử dụng ngoại ngữ để học nó”.9
So với dạy học ngoại ngữ, phương pháp giao
tiếp được áp dụng trong lĩnh vực dạy học tiếng mẹ
đẻ ở trường phổ thông chậm chạp và khó khăn
hơn. Qua cuốn Ngôn ngữ học với việc dạy tiếng
Pháp xuất bản năm 1970 ở Paris, ta có thể biết lúc
bấy giờ phương pháp này bắt đầu được áp dụng
trong nhà trường Pháp nhưng chưa phải đã đạt
được kết quả khả quan và giành được sự tin tưởng,
đồng tình rộng rãi của giới nghiên cứu. Đây là ý
kiến của hai nhà nghiên cứu J. Pâytar và E.
Giơnuvriê về tiết học theo khuynh hướng mới:
“Theo khuynh hướng mới này, cần dành cho trẻ
em tối đa sự tự do [...] Trẻ em cần hoạt động trong
tiếng mẹ đẻ như trong môi trường tự nhiên của nó,
bằng cách tự do diễn đạt bằng ngôn ngữ viết cũng
như ngôn ngữ nói, bằng cách tự nhúng mình trong
những bài học khác nhau, những bài nghe
đĩa,...[....]. Chúng ta đã được nhìn thấy trên màn
ảnh vô tuyến truyền hình một bộ phim trong đó
GV - với tư cách là người quan sát hơn là người
biểu diễn - chỉ can thiệp nhằm theo dõi một cuộc
đối thoại mà người dẫn trò là một chú bé mười
tuổi; công việc là tiến hành phân tích một câu khá
đơn giản trong nửa giờ. Chúng tôi không phủ nhận
rằng một bài đối thoại cần thiết cho toàn bộ sinh
hoạt học đường cần được suy nghĩ một cách chính
đáng. Song chúng tôi bác bỏ việc tin vào hiệu quả
của một bài học được tiến hành như vậy. Nhân
danh việc dành cho trẻ sự chủ động, ở đây người
ta làm cho trẻ mất thời gian trong một cuộc tranh
biện về tiếng nói của mình, trong khi trẻ không có
khả năng thực hành ngôn ngữ một cách đúng
đắn.”10 Nhận xét của hai nhà nghiên cứu về sự
9
Richards, J., & Rodgers, T. Approaches and Methods in
language teaching Dẫn theo Nguyễn Thị Thuỷ Minh,
Tlđd, tr. 66.
10
Pâytar J. và Giơnuvriê E. Hướng tới một lí luận mới về
việc dạy ngữ pháp. Vương Toàn dịch. Trong Phương
chệch hướng và lãng phí thời gian của tiết học có
thể là đúng, nhưng lời kêu gọi của họ - “Công việc
khẩn cấp lúc này là phải biện hộ cho một cách dạy
tiếng Pháp thật sự, nghĩa là dạy từ vựng và ngữ
pháp, ở tất cả các cấp độ của đời sống nhà
trường.”11 - tỏ ra không phù hợp với xu hướng dạy
học theo phương pháp giao tiếp.
Cũng vào thời gian trên, ở Liên Xô, các nhà
nghiên cứu bắt đầu bàn đến vấn đề áp dụng lí
thuyết hành động lời nói vào dạy học tiếng Nga.
Chương trình phổ thông lúc đó đã xác định nhiệm
vụ dạy phát triển các kĩ năng hành động lời nói
như: kĩ năng định hướng (xác định dung lượng và
giới hạn đề tài bài viết; thể hiện tư tưởng cơ bản
thông qua bài viết), kĩ năng lập chương trình (thu
thập tài liệu phục vụ bài viết; hệ thống hóa tài
liệu), kĩ năng hiện thực hóa chương trình (xây
dựng văn bản thuộc các dạng khác nhau; bộc lộ tư
tưởng của mình một cách chính xác, đúng đắn,
phù hợp với chuẩn văn hóa) và kĩ năng kiểm tra
(hoàn thiện bài viết).12 Giới nghiên cứu cũng đã
nhận ra rằng: “Khó khăn chính của việc phát triển
ngôn ngữ trong nhà trường là tình trạng giờ học
tách rời tính giao tiếp tự nhiên của ngôn ngữ [...].
Chỉ có một cách duy nhất để thoát khỏi tình trạng
đó là phải tạo nhu cầu giao tiếp cho HS.”13
Ở Việt Nam, có lẽ lần đầu tiên người dạy tiếng
Việt làm quen với thuật ngữ phương pháp giao
tiếp là nhờ giáo trình Phương pháp dạy học tiếng
Việt của Lê A và các cộng sự. Phương pháp giao
tiếp được hiể