Trước đây, hầu như chỉ có triết học mới dành mối quan tâm nghiên cứu về khoa học như một
phạm trù triết học nhằm giải thích nguồn gốc của khoa học, các tuy luật nội tại của khoa học, quan hệ
giữa khoa học với khách thể mà khoa học nghiên cứu, quan hệ giữa khoa học với các hình thái xã hội.
Đã có một thời triết học lược coi là khoa học của các khoa học. Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão
của khoa học công nghệ, khoa học đã trở thành bộ máy khổng lồ đang nghiên cứu, khám phá tất cả các
góc cạnh của thế giới. Kết quả nghiên cứu đã tạo ra một hệ thống tri thức đồ sộ và mở ra kỷ nguyên
bùng nổ thông tin. Những khám phá mới của khoa học đã làm thay đổi nhiều quan niệm truyền thống
trong sản xuất vật chất và trong đời sống tinh thần của xã hội. Về mặt này, khoa học không chỉ được
xem xét trong quan hệ với khách thể mà khoa học nghiên cứu, mà còn được xem xét trong quan hệ qua
lại với hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội.
Trước sự phát triển nhanh chóng ấy của khoa học và công nghệ, đến phần mình, bản thân khoa
học cũng cần được nghiên cứu một cách khoa học. Một mặt, phải tổng kết thực tiễn hoạt động nghiên
cứu khoa học, phân loại và hệ thống hoá toàn bộ những tri thức đã nhận thức được. Mặt khác, phải khái
quát những lý thuyết về cơ chế và phương pháp sáng tạo khoa học, cũng như tìm tòi các biện pháp tổ
chức, quản lý tốt quá trình nghiên cứu khoa học. Như vậy là, chính khoa học đã trở thành đối tượng
nghiên cứu.
62 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1593 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nguyễn Văn Hộ - Nguyễn Đăng Bình
(Tài liệu dùng cho các lớp cao học thạc sĩ)
Bài mở đầu
ĐỐI TƯỢNG VÀ Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. Đối tượng và nội dung nghiên cứu của phương pháp luận nghiên cứu khoa học:
Trước đây, hầu như chỉ có triết học mới dành mối quan tâm nghiên cứu về khoa học như một
phạm trù triết học nhằm giải thích nguồn gốc của khoa học, các tuy luật nội tại của khoa học, quan hệ
giữa khoa học với khách thể mà khoa học nghiên cứu, quan hệ giữa khoa học với các hình thái xã hội.
Đã có một thời triết học lược coi là khoa học của các khoa học. Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão
của khoa học công nghệ, khoa học đã trở thành bộ máy khổng lồ đang nghiên cứu, khám phá tất cả các
góc cạnh của thế giới. Kết quả nghiên cứu đã tạo ra một hệ thống tri thức đồ sộ và mở ra kỷ nguyên
bùng nổ thông tin. Những khám phá mới của khoa học đã làm thay đổi nhiều quan niệm truyền thống
trong sản xuất vật chất và trong đời sống tinh thần của xã hội. Về mặt này, khoa học không chỉ được
xem xét trong quan hệ với khách thể mà khoa học nghiên cứu, mà còn được xem xét trong quan hệ qua
lại với hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội.
Trước sự phát triển nhanh chóng ấy của khoa học và công nghệ, đến phần mình, bản thân khoa
học cũng cần được nghiên cứu một cách khoa học. Một mặt, phải tổng kết thực tiễn hoạt động nghiên
cứu khoa học, phân loại và hệ thống hoá toàn bộ những tri thức đã nhận thức được. Mặt khác, phải khái
quát những lý thuyết về cơ chế và phương pháp sáng tạo khoa học, cũng như tìm tòi các biện pháp tổ
chức, quản lý tốt quá trình nghiên cứu khoa học. Như vậy là, chính khoa học đã trở thành đối tượng
nghiên cứu.
Theo hướng đó, trong hơn hai nghìn bộ môn khoa học hiện đại, có một số bộ môn đã đề cập khá
sâu sắc tới nhiều khía cạnh khác nhau của khoa học và hoạt động nghiên cứu khoa học như: Lịch sử
khoa học, tâm lý học sáng tạo, xã hội học khoa học, kinh tế học khoa học, tổ chức và quản lý khoa học
.v.v... Chúng ta có thể kể đến các bộ môn quan trọng sau đây:
Bộ môn thứ nhất là Triết học. Triết học nghiên cứu tổng kết tất cả các thành tựu của khoa học, dựa
trên đó đã khái quát các qui luật nhận thức chung của loài người. Hệ thống quan điểm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử đã trở thành thế giới quan, là cơ sở phương pháp luận chung cho mọi quá trình
nhận thức, hướng dẫn các nhà khai học trên con đường tìm tòi sáng tạo.
Bộ môn thứ hai là Lịch sử phát triển khoa học tư nhiên và kỹ thuật đã tổng kết thực tiễn nghiên
cứu khoa học Tự nhiên và Kỹ thuật trong lịch sử thế giới, cho chúng ta bức tranh chung về quá trình
phát triển khoa học, nhờ đó mà ta có thể phát hiện ra các qui luật, các xu hướng phát triển khoa học hiện
đại.
Bộ môn thứ ba là Khoa học luận (Epistomology): Khoa học luận là bộ môn khoa học "Nghiên cứu
tổng hợp và tổng kết về mặt lý luận, kinh nghiệm hoạt động của các hệ khoa học, phẩm dự báo chính
sách khoa học - kỹ thuật, củng cố tiềm lực khoa học và nâng hiệu suất của quá trình khoa học, thông qua
các biện pháp tác động về mặt tổ chức và xã hội". Đôbrôv G.M. Khoa học về khoa học. NXB Khoa học
và Kỹ thuật, Hà Nội 1976.Tr.31).
Đối tượng của Khoa học luận là bản thân khoa học được xem như một hệ thống nhất thế. Phương
pháp nghiên cứu của Khoa học luận là phân tích và tổng hợp lý luận và thực tiễn hoạt động của các hệ
2
khoa học. Khoa học học luận là bộ môn khoa học có ý nghĩa to lớn đối với công tác tổ chức, quản lý và
điều hành các hoạt động nghiên cứu khoa học.
Bộ môn thứ tư đặc biệt quan trọng là Phương pháp luận nghiên cứu khoa học.
Phương pháp là một hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ những tri thức về các quy luật
khách quan dùng để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu đã
xác định.
Các phương pháp nhận thức khoa học hiện đại rất đa dạng và cách phân loại chúng cũng rất khác
nhau. Cách thường gặp hơn cả là dựa vào phạm vi tác động của các quy luật khách quan đã được nhận
thức và được khái quát dưới hình thức lý luận, từ đó hình thành hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh hoạt
động của chủ thể. Theo cách phân loại này, các phương pháp được chia ra thành phương pháp riêng,
phương pháp chung và phương pháp phổ biến. Phương pháp riêng chỉ thích hợp cho từng bộ môn khoa
học (phương pháp sinh vật học, phương pháp hoá học, phương pháp xã hội học). Phương pháp chung
được sử dụng cho nhiều ngành khoa học khác nhau (các phương pháp quan sát, thí nghiệm, phương
pháp mô hình hoá, phương pháp tối ưu hoá, phương pháp quy hoạch hoá thực nghiệm). Phương pháp
phổ biến thích hợp cho mọi ngành khoa học khác nhau cùng nhà đối với mọi lĩnh vực trong hoạt động
thực tiễn. Phương pháp biện chứng chính là phương pháp phổ biến và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của
khoa học hiện đại.
Phương pháp luận (Methodology) là học thuyết hay lý luận về phương pháp. Đó là hệ thống
những quan điểm (nguyên lý) chỉ đạo, xây dựng các nguyên tắc hợp thành phương pháp, xác định phạm
vi, khả năng áp dụng chúng có hiệu quả. Trong đó quan trọng nhất là các nguyên ly có quan hệ trực tiếp
với thế giới quan, có tác dụng định hướng việc xác định phương hướng nghiên cứu, tìm tòi, lựa chọn và
vận dụng phương pháp. Phương pháp và phương pháp luận là khác nhau.
Phương pháp là phạm trù rất rộng, cho liên phạm vi bao quát của phương pháp luận rất lớn.
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học đặt ra cho mình hàng loạt những nhiệm vụ quan trọng sau đây:
+ Nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất của khoa học và hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết các
quy luật phát triển của khoa học hiện đại.
+ Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ chế tư duy sáng tạo trong nhận thức của nhà khoa học và các kỹ
năng thực hành sáng tạo của họ.
+ Nghiên cứu những quan điểm tổng quát, những cách tiếp cận đối tượng nhận thức, đồng thời
xây dựng hệ thống lý thuyết về phương pháp nghiên cứu khoa học, với tư cách là con đường, cách thức
và kỹ thuật nghiên cứu cụ thể, đây là vấn đề trung tâm của phương pháp luận.
+ Phương pháp luận khẳng định phương pháp nghiên cứu khoa học không những nằm trong lôgíc
nhận thức mà còn nằm trong cấu trúc nội dung một công trình khoa học. Cho nên Phương pháp luận
nghiên cứu khoa học một mặt xác định các bước đi trong tiến trình nghiên cứu một đề tài, mặt khác còn
tìm ra cấu trúc lôgic nội dung của các công trình khoa học đó.
+ Phương pháp luận nghiên cứu khoa học cũng chú ý đến phương pháp tổ chức, quản lý nghiên
cứu hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, coi đó là một khâu ứng dụng chính các thành tựu
khoa học, nhằm nâng cao tiềm lực khoa học và tổ chức quá trình nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả cao.
Tóm lại Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là hệ thống lý thuyết về phương pháp nhận thức
khoa học bao gồm đốc các lý thuyết về cớ chê sáng tạo, những quan điểm tiếp cận đôi tượng khoa học,
cùng với hệ thống lý thuyết về phương pháp kỹ thuật và lôgíc tiên hành nghiên cứu một công trình khoa
học cũng như phương pháp tổ chức , quản lý qúa trình ấy.
II. Ý nghĩa của việc nghiên cứu hoàn thiện và nắm vững phương pháp luận nckh
3
1. Khoa học hiện đại có kết cấu bởi nhiều thành phần, trong đó có ba bộ phận chủ yếu và quan
trọng sau đây:
+ Hệ thống những khái niệm phạm trù, những quy luật, các lý thuyết, học thuyết khoa học.
+ Hệ thống trí thức ứng dụng đưa các thành tựu khoa học vào sản xuất và quản lý xã hội, nhằm cải
tạo thực tiễn.
+ Hệ thống lý thuyết về phương pháp nghiên cứu, về các con đường tìm tòi, sáng tạo khoa học.
Như vậy, phương pháp luận là một trong ba bộ phận quan trọng của khoa học.
2- Nghiên cứu khoa học luôn là sáng tạo và cách mạng, trong mỗi giai đoạn phát triển của khoa
học hiện đại đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới đối với khoa học, phải tìm ra các phương pháp nghiên
cứu mới, phải phát hiện ra các con đường mới để ứng dụng khoa học vào thực tiễn. Có thể nói: Hoàn
thiện về phương pháp luận là sự đòi hỏi thường xuyên của sự phát triển khoa học hiện đại.
3- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là kết quả của quá trình khái quát lý thuyết và thực tiễn
nghiên cứu khoa học và nó trở thành công cụ sắc bén để chỉ dẫn tất cả các nhà khoa học và các nhà quản
lý trong công tác tổ chức, quản lý và thực hành sáng tạo khoa học.
4- Ngày nay trong thế giới hiện đại, để hoàn thành có chất lượng bất cứ một loại công việc nào,
nhà chuyên môn cũng phải là người sáng tạo, có ý thức tìm tòi các con đường, các phương pháp tạo
động mới. Thiếu tinh thần sáng tạo không có chỗ đứng trong cuộc sống đầy sôi động. Cải tiến chuyên
môn thông qua con đường hoạt động thực tiễn của mình đã góp phần làm phát triển khoa học và công
nghệ. Như vậy, nắm vững phương pháp luận nghiên cứu khoa học không chỉ có nghĩa đối với các nhà
nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp, mà còn đối với các nhà chuyên môn trong các lĩnh vực hoạt động
thực tiễn.
Tóm lại, phương pháp luận nghiên cứu khoa học là một bộ phận quan trọng của khoa học. Hoàn
thiện phương pháp luận nghiên cứu khoa học là sự tự ý thức về sự phát triển của bản thân khoa học.
Như vậy, nắm vững phương pháp luận nghiên cứu khoa học không chỉ có nghĩa đối với các nhà nghiên
cứu khoa học chuyên nghiệp, mà còn đối với các nhà chuyên môn trong các lĩnh vự thực tiễn.
CHƯƠNG I KHOA HỌC, KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ
Để có cơ sở bàn về nghiên cứu khoa học, trước hết cần xem xét các khía cạnh rất đa rạng và
phong phú trong khái niệm hiện đại về khoa học.
Từ khi bắt đấu lịch sử khoa học, các nhà nghiên cứu trong đó có những triết gia lớn, các nhà
khoa học lớn như Aristote, R. Descarte, F. Bacon. F. Hegel. Marx, Engels, v.v... đã dành nhiều quan
tâm đến việc nhận dạng bản chất và cấu trúc của khoa học; đặc điểm của hoạt động khoa học; chức
năng xã hội của khoa học cũng như chính sách của chính phủ đối với nghiên cứu khoa học. Khoa
học, do vậy, đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học khác nhau
A- KHOA HỌC
I. Khoa học là gì?
Trong các từ điển cũng như trong các tài liệu chuyên môn khác nhau, khoa học được giải
thích theo nhiều cách khác nhau.
Một số tài liệu chuyên khảo về phương pháp luận nghiên cứu khoa học chỉ hướng mối quan
tâm từ giác độ phương pháp luận nghiên cứu và chỉ giới hạn trong phạm vi những gì cần thiết cho
công việc của người làm nghiên cứu khoa học. Trên hướng tiếp cận này, chắt lọc những ý tưởng cốt
4
lõi trong khái niệm khoa học mà các tác giả khác nhau đã đề cập, khoa học có thể được xem xét
theo một số giác độ sau:
1. Xét theo kết quả của quá trình tích luỹ trí thức của nhân loại thì KHOA HỌC LÀ
MỘT HỆ THỐNG TRI THỨC VỀ THẾ GIỚI KHÁCH QUAN:
Ngay từ khi xuất hiện, để tồn tại con người phải lao động, cùng với lao động con người nhận
thức thế giới xung quanh. Nhận thức trước hết để thích ứng, tồn tại cùng với môi trường, sau đó để
vận dụng những điều đã biết vào cuộc sống làm cho cuộc sống ngày càng tốt hơn. Hoạt động nhận
thức phát triển theo dòng lịch sử và kết quả nhận thức ngày một phong phú, trở thành một hệ thống
tri thức về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Quá trình nhận thức của con người được thực hiện với nhiều trình độ, bằng các phương thức
khác nhau và tạo ra hai hệ thống tri thức về thế giới.
a. Tri thức thông thường:
Trong cuộc sống đời thường, con người tiếp xúc với thiên nhiên với xã hội, phải giải quyết
những công việc thực tế hàng ngày, bằng các giác quan, con người tri giác, cảm nhận về bản thân,
về thế giới xã hội xung quanh, từ đó mà có những kinh nghiệm sống. những hiểu biết về mọi mặt.
Đó chính là tri thức thông thường. Tri thức thông thường được tạo ra từ phép quy nạp đơn giản,
không có mô hình lý thuyết, do vậy nó chưa chỉ ra được bản chất bên trong, chưa phát hiện được
các quy luật của những sự vật, hiện tượng và chưa thành một hệ thống vững chắc.
Tri thức thông thường được con người sử dụng, trao đổi với nhau, truyền đạt cho nhau, mỗi
ngày chúng được bổ xung, được hoàn thiện, tính xã hội được xác lập và trở thành tri thức dân gian.
Tri thức thông thường có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp nhiều ích lợi cho cuộc sống hàng ngày của
con người.
b. Tri thức khoa học:
Sự phát triển của lao động sản xuất và hoạt động xã hội là nguyên nhân khiến con người phải
đi sâu nghiên cứu đầy đủ hơn về thế giới và tìm hiểu khả năng nhận thức của chính mình. Để tạo ra
công cụ sản xuất, con người phải tìm tòi, nghiên cứu các loại vật liệu khác nhau. Để thuần dưỡng
động vật, con người phải biết về cấu tạo cơ thể và đặc điểm sinh hoạt của chúng. Để trồng trọt con
người phải nghiên cứu đất đai, cây trồng và thời tiết... Những hiểu biết lúc đầu còn ít ỏi, về sau tăng
dần trở thành một hệ thống tri thức vững chắc.
Cùng với quá trình phân công lao động xã hội, xuất hiện những người thông thái có khả năng
trí tuệ đặc biệt, biết chế tạo và sử dụng những công cụ, những phương pháp độc đáo để tìm hiểu thế
giới và kết quả là tạo ra một hệ thống hiểu biết có giá trị đặc biệt, đó chính là tri thức khoa học.
Cũng từ đây có hoạt động nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp.
Như vậy tri thức khoa học là kết quả của quá trình nhận thức có mục đích, có kế hoạch, có
phương pháp tiện đặc biệt, do đội ngũ các nhà khoa học thực hiện.
Tri thức khoa học là hệ thống tri thức khái quát về các sự vật, hiện tượng của thế giới và về
các qui luật vận động của chúng. Đây là hệ thống tri thức được xác lập trên các căn cứ xác đáng, có
thể kiểm tra được và có tính ứng dụng.
Mỗi kết luận khoa học đều được dựa trên các tài liệu thực tiễn hay lý thuyết, nhờ có phép suy
luận và các thao tác khái quát hoá, tựu tượng hoá con người gạt bỏ những cái ngẫu nhiên, đi vào
những mối quan hệ sâu xa bên trong của các sự vật, hiện tượng, từ đó mà phát hiện ra những quy
luật khách quan về thế giới. Như vậy tri thức khoa học là sản phẩm cao cấp của trí tuệ con người.
5
Tri thức khoa học và tri thức thông thường tuy khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Tri thức khoa học có thể xuất phát từ tri thức thông thường, theo gợi ý của những hiểu biết
thông thường để tiếp hành không nghiên cứu một cách sâu sắc. Tuy nhiên tri thức khoa học không
phải là tri thức thông thường được hệ thống hoá lại hay những tri thức thông thường được hoàn
thiện. Tri thức khoa học là kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học đặc biệt.
Từ những phân tích trên chúng ta có thể đồng tình với định nghĩa sau đây: khoa học là hệ thông tri
thức về tự nhiên, về xã hội và tư duy. về những qui luật phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và tư
duy, hệ thống tri thức lấy được hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn
xã hội". (Đại bách khoa toàn thư Liên Xô. Quyển XIX, tr.241, bản tiếng Nga).
Phân tích toàn diện khái niệm khoa học ta thấy:
Đối tượng của khoa học là những hình thức tồn tại khác nhau của vật chất đang vận động và
cả những hình thức phản ánh chúng vào ý thức của con người. Nói cách khác đối tượng của khoa
học là thế giới khách quan và cả những Phương pháp nhận thức thế giới.
Nội dung của khoa học bao gồm:
+ Những tài liệu về thế giới do quan sát, điều tra, thí nghiệm mà có.
+ Những nguyên lý được rút ra dựa trên những sự kiện đã được thực nghiệm chứng minh.
+ Những qui luật, những học thuyết được khái quát bằng tư duy lý luận.
+ Những Phương pháp nhận thức sáng tạo khoa học.
+ Những qui trình vận dụng lý thuyết khoa học vào sản xuất và đời sống xã hội.
Chức năng của khoa học là:
+ Khám phá bản chất các hiện tượng của thế giới khách quan: Giải thích nguồn gốc phát sinh,
phát hiện ra các qui luật vận động và phát triển của các hiện tượng ấy.
+ Hệ thống hoá các tri thức đã khám phá được tạo thành các lý thuyết, học thuyết khoa học.
+ Nghiên cứu ứng dụng những thành quà sáng tạo khoa học để cải tạo thực tiễn.
Động lực của sự phát triển khoa học là nhu cầu thực tiễn của cuộc sống con người. Nhu cầu
thực tiễn gợi ý cho mọi đề tài và đồng thời là mục tiêu phải giải quyết của mọi đề tài khoa học.
Thực tiễn vừa là nguồn gốc nhận thức vừa là tiêu chuẩn để xác minh tính chân thực, vừa là mục tiêu
giải quyết của mọi lý thuyết khoa học. Xét trên giác độ xã hội thì:
a) KHOA HỌC LÀ MỘT HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI.
Theo quan điểm triết học các được trinh bầy trong Từ điển Triết học của Rozental, khoa học
tồn tại như một hình thái xã hội.
Toàn bộ cuộc sống của xã hội loài người bao gồm hai lĩnh vực: lĩnh vực vật chất (tồn tại xã
hội) và lĩnh vực tinh thần (ý thức xã hội). Tồn tại xã hội là tất cả những gì đang diễn biến xung
quanh chúng ta. Ý thức xã hội là kết qua sự phản ánh tồn tại xã hội vào bộ não con người. Sự phản
ánh này được thực hiện với nhiều mức độ khác nhau như: ý thức sinh hoạt đời thường, tâm lý, ý
thức xã hội, trong đó có hệ tư tưởng.
Ý thức đời thường là sự phản ánh những cái cụ thể trực tiếp, gần gũi của cuộc sống hàng ngày
của con người. Ý thức xã hội là sự phản ánh những cái sâu sắc toàn diện và hệ thống về thế giới.
Ý thức xã hội được phản ánh bằng nhiều hình thái khác nhau như: Tôn giáo, Đạo đức Nghệ
thuật, Chính trị, Khoa học... Sự khác nhau giữa các hình thái ý thức xã hội được qui định bởi mục
6
đích, tính chất và phương thức phản ánh. Thế giới là đối tượng duy nhất của sự nhận thức và cũng
là nguồn gốc duy nhất đem lại nội dung cho sự nhận thức.
Các hình thái ý thức xã hội là những hình thức khác nhau của sự phản ánh về một thế giới
thống nhất và chúng có chức năng xã hội riêng.
+ Tôn giáo là một hình thái ý thức phản ánh lòng tin không có căn cứ của con người trước lực
lượng siêu tự nhiên, mà bản thân con người không hiểu nổi, không giải thích được nó và từ đó thần
thánh hoá các sức mạnh siêu tự nhiên đó. Tôn giáo xuất hiện rất sớm trong lịch sử loài người, trong
điều kiện trình độ nhận thức và thực tiễn xã hội còn thấp kém. Tôn giáo làm cho con người lệ thuộc
vào thiên nhiên, trở thành nhỏ bé trước sức mạnh của thiên nhiên
+ Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh các quan niệm về cái thiện, cái ác trong các
mối quan hệ xã hội, về quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người trong cuộc sống cộng đồng và được
biểu hiện bằng những qui tắc, chuẩn mực cụ thể. Tiêu chuẩn đạo đức không được ghi thành văn
bản, nhưng có giá trị to lớn trong cuộc sống nhân loại. Đạo đức định hướng giá trị cho cuộc sống cá
nhãn và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Đạo đức đưa xã hội loài người tới cuộc sống văn minh.
+ Nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội phản ánh các hình tượng thẩm mỹ của thế giới
hiện thực thông qua những rung cảm thẩm mỹ cá nhân. Hình tượng nghệ thuật là hình ảnh chủ quan
về thế giới khách quan, nó mang thấu ấn độc đáo của chủ thể sáng tạo. Ý tưởng nghệ thuật xuất luật
trong một hoàn cảnh cụ thể trong điều kiện sống của cá nhân, trong cộng đồng dân tộc và thời đại.
Nghệ thuật là quá trình chủ thể hoá đối tượng thẩm mỹ và khách thể hoá tình cảm thẩm mỹ. Nghệ
thuật có chức năng nhận thức, chức năng giáo dục và chức năng giải trí và có vai trò to lớn trong
đời sống nhân loại.
+ Chính trị là hình thái ý thức xã hội phản ánh các mối quan hệ kinh tế - xã hội, vị trí và
quyền lợi của các giai cấp, của các quốc gia xung quanh vàm đề lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế.
Chính là thể hiện trong cuộc đấu tranh giữa các giá cấp để thiết lập trật tự xã hội và cuộc đấu tranh
giữa các quốc gia để xác lập chủ quyền dân tộc, trong quản lý và bảo vệ đất nước. Chính trị được
duy trì bằng các công cụ chuyên chính. Mọi hình thái ý thức xã hội đều bị chi phối bởi ý thức chính
trị, phục túng đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền.
+ Khoa học là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực khách quan, tạo ra hệ thống
chân lý về thế giới. Hệ thống chân lý này được diễn đạt bằng các khái niệm, phạm trù trừu tượng,
những nguyên lý khái quát, những giả thuyết, học thuyết... Khoa học phản ánh thế giới bằng các
phương thức và công cụ đặc biệt. Khoa học không những hướng vào giải thích thế giới mà còn
n