Nếu sau khi tìm được tất cả những nguồn dữ liệu thứ cấp hợp lý, những
câu hỏi nghiên cứu vẫn chưa được trả lời một cách đầy đủ. Nhà nghiên
cứu thị trường phải thu thập đủ dữ liệu cơ sở. Nhà nghiên cứu phải đặt ra
các câu hỏi về doanh thu của doanh nghiệp, các nhà phân phối, thương
nhân trung gian và những khách hàng. Đối với hầu hết việc thu thập dữ
liệu thứ cấp, những câu hỏi của các nhà nghiên cứu đều khẳng định việc
họ nghĩ gì về những chủ điểm hoặc họ có thể phản ứng như thế nào
trong những điều kiện nhất định. Các nghiên pháp nghiên cứu marketing
có thể được tập hợp thành hai loại chủ đề cơ bản là nghiên cứu định tính
và định lượng. ở cả hai phương pháp này, nhà nghiên cứu thị trường rất
quan tâm tới việc thu thập được những kiến thức về thị trường
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: thanhtuan.68 | Lượt xem: 1128 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp nghiên cứu định lượng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phương pháp nghiên cứu định lượng 
Nếu sau khi tìm được tất cả những nguồn dữ liệu thứ cấp hợp lý, những 
câu hỏi nghiên cứu vẫn chưa được trả lời một cách đầy đủ. Nhà nghiên 
cứu thị trường phải thu thập đủ dữ liệu cơ sở. Nhà nghiên cứu phải đặt ra 
các câu hỏi về doanh thu của doanh nghiệp, các nhà phân phối, thương 
nhân trung gian và những khách hàng. Đối với hầu hết việc thu thập dữ 
liệu thứ cấp, những câu hỏi của các nhà nghiên cứu đều khẳng định việc 
họ nghĩ gì về những chủ điểm hoặc họ có thể phản ứng như thế nào 
trong những điều kiện nhất định. Các nghiên pháp nghiên cứu marketing 
có thể được tập hợp thành hai loại chủ đề cơ bản là nghiên cứu định tính 
và định lượng. ở cả hai phương pháp này, nhà nghiên cứu thị trường rất 
quan tâm tới việc thu thập được những kiến thức về thị trường. 
1. Khái niệm nghiên cứu định lượng 
Nghiên cứu định lượng là việc thu thập, phân tích thông tin trên cơ sở 
các số liệu thu được từ thị trường. Mục đích của việc nghiên cứu định 
lượng là đưa ra các kết luận về nghiên cứu thị trường thông qua việc sử 
dụng các phương pháp thống kê để xử lý dữ liệu và số liệu. Nội dung 
của phân tích đinh lượng là thu thập số liệu từ thị trường, xử lý các số 
liệu này thông qua các phương pháp thống kế thông thường, mô phỏng 
hoặc chạy các phần mềm xử lý dữ liệu và đưa ra các kết luận chính xác. 
Các phương pháp thu thập dữ liệu: 
Có hai phương pháp thu thập dữ liệu cơ bản là quan sát và điều tra thông 
qua bộ câu hỏi thông qua bản câu hỏi 
1.1. Phương pháp quan sát 
Ưu điểm đầu tiên của phương pháp quan sát là đưa ra nhiều mục tiêu 
hơn sử dụng câu hỏi . Khi sử dụng phương pháp quan sát nhân viên khảo 
sát không được dựa vào những gì những người được phỏng vấn trả lời 
hoặc là sẽ nói . Điều này được chứng minh thông qua cuộc nghiên cứu 
cổ điển của Lapire . Vào đầu những năm 1930 Lapire và một đôi trẻ tuổi 
người Trung Quốc đó đi du lịch tại Mỹ . Họ dừng chân ở 66 khách sạn, 
trại di động, nhà nghỉ và đến 184 nhà hàng , quán cà phê và họ bị từ chối 
phục vụ chỉ tại một cửa hàng mà thôi. 6 tháng sau một nửa số địa điểm 
trên đã trả lời bộ câu hỏi do Lapire gửi đến bằng thư với câu hỏi là : 
“Ông sẽ chấp nhận những người Trung Quốc như là khách hàng của cửa 
hàng ông được không”. Trên 90% thư trả lời là không. Lý do khác mà 
phương pháp quan sát có xu hướng nói đến nhiều thông tin có mục đích 
hơn là vì không có ảnh hưởng nào được đưa ra bởi người phỏng vấn liên 
quan đến việc liệu ảnh hưởng đó có thực hoặc người trả lời phỏng vấn 
có thể tưởng tượng được hay không . 
Trong một số trường hợp, kĩ thuật quan sát có thể đề cập nhiều thông tin 
hơn các phương pháp khác, đặc biệt là những vấn đề nhạy cảm, vấn đề 
cá nhân hoặc vấn đề tranh cãi có liên quan. Vì phương pháp này độc lập 
với cảm giác không hài lòng hoặc không có khả năng trả lời được của 
người được phỏng vấn . Từng cá nhân riêng rẽ thường miễn cưỡng khi 
nói về thói quen hoặc tiêu dùng cá nhân và phương pháp quan sát lại 
tránh được điều này. ở Trung Đông, châu Mỹ la tinh và châu á , người 
phỏng vấn thường bị nghi ngờ là nhân viên giám sát thuế gây khó khăn 
cho việc thu thập dữ liệu về thu nhập và tiêu dùng. Do hiệu quả của 
phương pháp quan sát, Ewdard T. Hall, một nhà nhân khẩu học có tiếng 
cho rằng việc quan sát có thể thay thế việc lắng nghe và đặt câu hỏi. Mặc 
dầu kĩ thuật quan sát trực tiếp và cá nhân được sử dụng thường xuyên 
nhất, quan sát không phải được thực hiện ở một người . Phương thức ghi 
âm bằng các thiết bị kĩ thuật thường được sử dụng để hỗ trợ cho việc 
quan sát. Tuy nhiên, những phương thức này ít phổ biến ở nhiều quốc 
gia do nó rất tốn kém, đặc biệt ở những nước mà tiền lương lao động 
tương đối thấp. 
Có nhiều ý kiến mâu thuẫn về việc những nhân viên nào nên được áp 
dụng hình thức quan sát trực tiếp. Có vài người cho rằng các nhà quan 
sát trong nước nên được sử dụng vì những mối quan hệ của họ và sự am 
hiểu của họ về văn hoá truyền thống trong nước. Trong khi đó, một số 
người khác lại tin rằng những mối quan hệ thân mật sẽ gây nên tình 
trạng bất cẩn. Các nhà quan sát trong nước do đó khó quen thuộc với 
những sự kiện trong nước thường có xu hướng làm cho chúng trở thành 
đúng theo chủ quan ý chí của mình. Kết quả là những chi tiết cần thiết 
và quan trọng nhiều khi lại bị bỏ qua khi báo cáo. Ví dụ, một nhà quan 
sát trong nước có thể bị thất bại khi thu thập thông tin cho một hãng của 
Mĩ muốn bán quần áo cho trẻ em đI học,nếu như đựợc biết rằng học sinh 
thường mặc đồng phục tới trường nước. Tất nhiên là tình huống có thể 
đảo ngược lại. Một nhà quan sát Mĩ có thể chẳng thấy gì bất thường về 
việc học sinh mặc những chiếc quần jeans tới trường , nhưng đIều đó 
cũng có thể đập ngay vào mắt những nhà quan sát không phải là người 
Mĩ. 
Các nhà quan sát cần phải đựơc đào tạo cẩn thận. Các nhà quan sát phải 
được chỉ dẫn một cách chính xác về hậu quả của những giả thiết. Việc 
đào tạo và thực hành là khá cần thiết, bên cạnh đó những chi tiết cần 
thiết phải được lưu ý và ghi âm một cách hệ thống. 
Thực tế là không có công ty nào có thể tìm hiểu về đối thủ cạnh tranh 
thông qua việc phỏng vấn các đối thủ của mình. Đây là một tình huống 
mà kĩ thuật quan sát thể hiện sự hữu ích của mình trong việc thu thập 
thông tin. Một phương pháp thông thường được sử dụng trong việc thu 
thập các dữ liệu liên quan đến những nguồn lực truyền thống như các 
phương tiện thông tin đại chúng và những chỉ số kinh doanh. Những 
người kinh doanh thường tìm hiểu về các đối thủ cạnh tranh bằng việc 
đọc những mẩu tin trên báo hoặc tạp chí về đối thủ của mình. Vấn đề là 
ở chỗ những nguồn thông tin đó trên các tạp chí in ấn là quá chung 
chung và cũ rích. Thêm nữa, những phương tiện in ấn đó không thể cung 
cấp những thông tin về tình hình hoạt động của doanh nghiệp,qui mô, 
tiềm lực kinh doanh, cơ cấu tổ chức và hệ thống phân phối. 
Để có được những thông tin không phổ biến đó, đôi khi nhà nghiên cứu 
thị trường phải dùng những mẹo để thu thập thông tin một cách thông 
minh. 
Nếu một người kinh doanh muốn biết về qui mô lực lượng lao động của 
đối thủ, nhà quan sát có thể đếm số chỗ đỗ xe trong nhà máy. Một 
phương án hay là đếm số người đi vào hoặc ra cùng lúc với việc đếm số 
người trong những ca sản xuất. Một công ty của Nhật đã biết cách gửi 
một số nhân viên tới nhà máy của đối thủ cạnh tranh sau giờ làm việc để 
đếm số lượng gỉ sắt chất đống bên cạnh hàng rào nhà máy. Với cách 
quan sát này, công ty đó có thể biết được số lần vỏ hộp xe thường được 
cán trong một tuần hoặc một tháng. Thông tin này giúp phát hiện số 
lượng các chuyến hàng được nhà máy nhận là bao nhiêu. 
Một kĩ thuật quan sát nữa là đọc thật kĩ những mẩu quảng cáo yêu cầu 
cần giúp đỡ của đối thủ cạnh tranh, từ khi họ tiết lộ thông tin về trang 
thiết bị, mạng lưới dịch vụ và sản phẩm mới. Thậm chí một chiếc vỏ hộp 
bỏ đi có thể mang lại những thông tin về doanh nghiệp. ở đáy hộp có thể 
có thông tin về nhà sản xuất vỏ hộp, nếu liên lạc được với nhà sản xuất 
đó có thể biết được số lượng vỏ hộp mà đối thủ cạnh tranh đó đặt hàng. 
1. 2.Điều tra qua bộ câu hỏi (Questionnaire) 
Một nhà nghiên cứu thị trường nên cố gắng nhiều để cho thấy được tính 
hiệu quả của kế hoạch Marketing hỗn hợp. Trong nhiều trường hợp, 
ngay cả việc nghiên cứu khám phá hay nghiên cứu quan sát tổng thể đều 
không chính xác và thích hợp cho mục đích nghiên cứu. Thay vào đó, 
vài kiểu kỹ thuật thực nghiệm có thể cần thiết để chỉ ra quan hệ nhân 
qủa. 
Một dạng trong những kiểu nghiên cứu tại hiện trường thường được sử 
dụng là bộ câu hỏi. Kỹ thuật có thể được sử dụng để kiểm tra chương 
trình kế hoạch Marketing mang tính quốc gia về một sản phẩm mới 
trong một khu vực địa lý giới hạn. Một bộ câu hỏi có chất lượng phải có 
những đặc điểm sau: 
 Phải có tính bao quát, toàn diện. 
 Phải riêng cho từng khu vực thương mại. 
Điều lưu tâm trong tính toàn diện bao gồm cả khả năng so sánh cá thể. 
Một bộ câu hỏi thăm dò phải phù hợp với phần của đất nước và dân số, 
phải nói lên phần nào đặc điểm của vùng đất nước. Thị trường này phải 
đủ lớn để cung cấp được những dữ liệu có ý nghĩa và cũng không cần 
quá rộng để tạo nên những hạn chế về chi phí trong nghiên cứu. 
Thị trường phải có tính riêng biệt so với lượng quan điểm thông tin 
nhằm tránh đi việc tiết lộ thông tin trên thị trường. Nếu thị trường không 
thể hiện tính riêng biệt so với những thông tin chung thì chi phí thông tin 
sẽ lãng phí bơỉ vì người cần thông tin sẽ tiếp nhận những thông tin trái 
với xu hướng của thị trường. Lượng thông tin cũng phải tương hợp với 
lý do về chi phí. 
Cuối cùng bộ câu hỏi thị trường phải có tính riêng biệt cho vùng thương 
mại. Điều này là cần thiết nhằm tránh sự biến động vào ra trong khu 
vực. Ví dụ, nếu thành phố chỉ có lượng dân số lớn trong thời gian ban 
ngày vì những người ngoại tỉnh vào thành phố để làm việc, tối sẽ về nhà 
mình, thì khó có thể đạt được doanh số bán hàng chính xác. 
Đối với việc nghiên cứu định lượng, người trả lời được yêu cầu dựa vào 
các câu hỏi được đã được sắp xếp gồm hai loại là “Có” hoặc “Không” 
hoặc để lựa chọn một câu trả lời từ một loạt sự lựa chọn. Những câu hỏi 
được thiết kế để có được một câu trả lời có liên quan tới các lĩnh vực về 
thái độ, dự định, quan điểm, động cơ, và các đặc tính nhân khẩu học. 
Nghiên cứu định lượng giúp nhà nghiên cứu thị trường đưa ra những câu 
trả lời được trình bày bằng những sự ước tính chính xác. Những câu trả 
lời có cấu trúc thu thập được từ việc điều tra có thể được tóm tắt theo tỷ 
lệ, mức độ trung bình hoặc những số liệu khác. Ví dụ như 76% những 
người trả lời thích sản phẩm A hơn sản phẩm B, v,v. Nghiên cứu điều tra 
nhìn chung có liên quan tới nghiên cứu định lượng và công cụ điển hình 
được sử dụng trong bộ câu hỏi được đưa ra ở những cuộc phỏng vấn cá 
nhân, thư từ hay điện thoại. 
Nghiên cứu định lượng cũng rất có ích trong việc khám phá những ảnh 
hưởng của các nhân tố về văn hoá xã hội đến những kiểu thái độ và để 
phát triển lý thuyết nghiên cứu mà có thể được thử nghiệm ở những lần 
nghiên cứu tiếp theo được thiết kế để lượng hoá quan niệm và những 
mối quan hệ có liên quan dựa trên việc thu thập thông tin định lượng thì 
chúng ta không thể thấy được. Nghiên cứu được tiến hành bởi công ty 
Procter & Gamble ở Ai Cập là một ví dụ điển hình của nghiên cứu định 
lượng, thể hiện rõ phương pháp đo hiệu quả của nghiên cứu định lượng. 
Trong nhiều năm P&G đã tiếp thị loại bột giặt Ariel tới 5% những gia 
đình ở thị trường Ai Cập dùng loại máy giặt tự động. Họ đã lên kế hoạch 
mở rộng tầm ảnh hưởng của mình ở Ai Cập và thực hiện nhiệm vụ: 1) 
xác định những cơ hội có lợi ở thị trường bột giặt của Ai cập và 2) phát 
triển quan điểm đúng đắn về sản phẩm, giá cả, nhãn hiệu, đóng gói, và 
quảng cáo một khi hình thành quyết định theo đuổi một thị phần thị 
trường bột giặt. 
Nghiên cứu về “Thói quen và Tập quán”, P&G đã đặt tên cho giai đoạn 
này như vậy, bao gồm các chuyến viếng thăm tại gia và thảo luận theo 
nhóm, để tìm hiểu xem các bà nội trợ ở Ai cập làm công việc giặt giũ 
như thế nào. Họ muốn biết về sở thích, những điều thích và những thói 
quen (những hiểu biết của công ty về tập quán giặt là ở Ai Cập chỉ là sự 
hạn chế của máy giặt). Cuộc điều tra cho thấy các khách hàng Ai Cập đã 
giặt đồ theo nhiều cách khác nhau và họ đã rất vất vả. Trong số 95% các 
gia đình giặt bằng loại máy giặt không tự động hoặc bằng tay thì quá 
trình giặt bao gồm các thao tác từ việc làm ướt, khoắng quần áo trong 
nước, cho chất tẩy rửa và giặt từng cái một. Vài sản phẩm được sử dụng 
trong quá trình này như: xà phòng bánh hoặc bột giặt được được sử dụng 
trong quá trình giặt, cùng với các chất làm trắng và hồ quần áo đã cho 
thấy rõ sự phiền toái của các sản phẩm giặt tẩy kém chất lượng của các 
hãng sản xuất địa phương. Những tìm hiểu về thị trường này cho thấy 
khả năng tiềm tàng về những loại chất giặt tẩy chất lượng cao có thể 
thực hiện được mọi công đoạn của quá trình giặt hiện tại. Công ty đã 
đưa ra quyết định tiếp tục phát triển và giới thiệu nhiều loại bột giặt chất 
lượng cao. 
Một khi những ý tưởng cơ bản về sản phẩm (có nghĩa là một sản phẩm 
thay thế cho vài sản phẩm để giặt) được đưa ra, công ty cần xác định 
thành phần quan trọng nhất cho kế hoạch Marketing hỗn hợp để giới 
thiệu sản phẩm mới. Công ty sẽ tiếp tục theo đuổi việc nghiên cứu thị 
trường theo nhóm để đánh giá phản ứng của người tiêu dùng đối với các 
thương hiệu khác nhau (người tiêu dùng đang cân nhắc hai sản phẩm 
Ariel – sản phẩm đã tồn tại nhiều năm trên thị trường, ít bọt và Tide đã 
từng được bán trên thị trường Ai Cập vào thập kỷ 1960 và 1970), để lấy 
ý kiến về những cách quảng cáo sản phẩm, kiểm tra các mức giá, thiết 
kế bao bì và kích thước cho sản phẩm. Những thông tin thu thập được từ 
các nhóm đã giúp cho công ty ra quyết định gạt bỏ những ý tưởng thu 
hút khách hàng ở mức độ thấp và tập trung vào việc làm thế nào để tăng 
độ hấp dẫn của sản phẩm đối với khách hàng. Hơn nữa, các nhóm này 
còn hỗ trợ đắc lực trong việc đưa ra các biện pháp quảng cáo và xúc tiến 
thương mại hiệu quả nhằm đáp ứng tốt nhất khả năng tiếp nhận thông tin 
sản phẩm từ phía khách hàng. 
ở giai đoạn cuối, công ty có ý tưởng thu thập thông tin từ nhiều nhóm 
khác nhau nhưng mỗi nhóm nghiên cứu lại không không được những 
tiếp xúc với các nhóm khác trên thị trường mục tiêu. Liệu họ có tiếp tục 
tiến hành cách thức tương tự như các nhóm trước đã làm? Để trả lời câu 
hỏi này, công ty lại tiếp tục triển khai bước tiếp theo là, một chương 
trình nghiên cứu bao gồm nhiều ý tưởng từ nhiều nhóm có cùng chung 
định hướng (nghiên cứu định lượng) và mẫu điều tra từ thị trường mục 
tiêu tương đối lớn. Thêm nữa, thương hiệu, giá cả, kích cỡ và lợi nhuận 
dự kiến của sản phẩm cũng được kiểm tra kỹ càng trong bản điều tra 
này. Thông tin thu được chắt lọc từ những bản điều tra cuối cùng mới là 
thiết yếu cho công ty trong việc phát triển chương trình Marketing để 
giới thiệu sản phẩm và ghi nhận thương hiệu Ariel nổi tiếng trên thị 
trường Ai Cập 
Thương hiệu này là minh chứng điển hình của thể loại thông tin mà các 
nhà nghiên cứu thị trường quốc tế cần khi thâm nhập thị trường nước 
ngoài và họ sẽ làm gì để phát triển kế hoạch marketing từ việc nghiên 
cứu định tính và định lượng.