Phương pháp tính toán các chỉ tiêu giá trị sản xuất (GO), chi phí trung gian (IC), giá trị tăng thêm (VA) ngành xây dựng

Ngành xây dựng theo nghĩa rộng ( hay còn có thể gọi là lĩnh vực đầu tư nghành xây dựng) bao gồm chủ đầu tư có công trình xây dựng, kèm theo các bộ phận có liên quan, các doanh nghiệp xây dựng chuyen nhận thầu xây lắp công trình, các tổ chức tư vấn đầu tư và xây dựng ( chuyên làm những công việc như lập dự án đầu tư, khảo sát thiết kế, quản lý thực hiện dự án ) các tổ chức cung ứng vật tư và thiết bị cho xây dựng, các tổ chức tài chính và ngân hàng phục vụ xây dựng, các tổ chức nghiên cứu và đào tạo phục vụ xây dựng, các cơ quan nhà nước trực tiếp liên quan đến xây dựng và các tổ chức dịch vụ khác phục vụ xây dựng.

doc43 trang | Chia sẻ: maiphuongtt | Lượt xem: 9174 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phương pháp tính toán các chỉ tiêu giá trị sản xuất (GO), chi phí trung gian (IC), giá trị tăng thêm (VA) ngành xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT XÂY DỰNG I. KHÁI NIỆM, Ý KIẾN CỦA NGHÀNH XÂY DỰNG TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN 1. Khái niệm - Ngành xây dựng theo nghĩa rộng ( hay còn có thể gọi là lĩnh vực đầu tư nghành xây dựng) bao gồm chủ đầu tư có công trình xây dựng, kèm theo các bộ phận có liên quan, các doanh nghiệp xây dựng chuyen nhận thầu xây lắp công trình, các tổ chức tư vấn đầu tư và xây dựng ( chuyên làm những công việc như lập dự án đầu tư, khảo sát thiết kế, quản lý thực hiện dự án … ) các tổ chức cung ứng vật tư và thiết bị cho xây dựng, các tổ chức tài chính và ngân hàng phục vụ xây dựng, các tổ chức nghiên cứu và đào tạo phục vụ xây dựng, các cơ quan nhà nước trực tiếp liên quan đến xây dựng và các tổ chức dịch vụ khác phục vụ xây dựng. - Lĩnh vực đầu tư ở đây mà ngành xây dựng quan tâm là lĩnh vực đầu tư được thực hiện thông qua việc xây dựng công trình để vận hành và sinh lời và không bao gồm các lĩnh vực đầu tư khác như đầu tư tài chính, đầu tư không kèm theo các giải pháp xây dựng công trình. 2. Ý nghĩa ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân - Ngành xây dựng là một trong những ngành kinh tế lớn (ngành cấp I) của nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò chủ chốt ở khâu cuối cùng của quá trình sáng tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật và tài sản cố định (xây dựng công trình và lắp đặt thiết bị, máy móc và công trình cho mọi hoạt động của đất nước và xã hội dưới mọi hình thức (xây dựng mới, cái mở rộng và hiện đại hoá tài sản cố định). - Công trình xây dựng luôn luôn có tính chất kinh tế, kỹ thuật, văn hoá, nghệ thuật và xã hội tổng hợp. Một công trình mới được xây dựng thường là kết tinh của các thành quả khoa học, kỹ thuật nghệ thuậ và nhiều ngành ở thời điểm đang xét và nó lại có tác động góp phần mở ra một giai đoạn phát triển văn hoá và nghệ thuật kiến trúc có tác động quan trọng đến môi trường sinh thái. - Ngành xây dựng chi phí một nguồn vốn khá lớn của quốc gia và xã hội. Những sai lầm xây dựng thường là gây nên những thiệt hại khá lớn và có thể rất khó sửa chữa trong nhiều năm. - Theo báo cáo của chính phủ tại kỳ hợp thứ bẩy của quốc hội khoá 9 (năm 1995) vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội 1994 có thể đạt 48.000 tỷ đồng, khối lượng đầu tư xây dựng đã được thực hiện thuộc vốn ngân sách nhà nước là 8.833 tỷ đồng. - Tỷ lệ đầu tư bằng vốn trong nước so với tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 1995 là 12,7% theo dự báo để nâng cao thu nhập tính cho một đầu người lãi gấp đôi đến năm 2000 cần khoảng 40 tỷ USD, trong đó phần lớn là dành cho xây dựng. - Ngành xây dựng cũng có một phần đóng góp đáng kể vào giá trị tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. - Theo số liệu của Liên Xô (cũ) sản phẩm của ngành xây dựng chiếm khoảng 11% tổng sản phẩm xã hội, giá trị tài sản cố định sản xuất của ngành xây dựng kể cả ở các ngành liên quan như vật liệu xây dựng, chế tạo máy xây dựng chiếm khoảng 20% giá trị tài sản cố định của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. - Ở một số nước tư bản phát triển giá trị sản phẩm của ngành xây dựng chiếm khaỏng từ 6% đến 10% cá biệt lên tới 20%. - Ở nước ta phần đóng góp này còn nhỏ nhưng cũng đang ngày càng tăng lên đáng kể. - Trong nhiều ngành kinh tế ở Việt Nam, vai trò của nhập khẩu còn khá lớn. Riêng đối với ngành xây dựng phần tự làm trong nước khi xây dựng công trình trong nước còn khá lớn thông qua phần vật liệu xây dựng và phần nhân công xây lắp. - Có nhiều công việc xây dựng buộc phải thực hiện bằng vật tư và nhân công trong nước mới có liên quan (ngay cả đối với các chủ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam). Đó là ngành xây dựng còn có một nhiệm vụ quan trọng là phải nâng cao trình độ tự lực giải quyết vấn đề xây dựng và phải bảo đảm có đủ lực lượng để cộng tác với chủ đầu tư nước ngoài, không để có chủ thầu xây dựng nước ngoài lũng đoạn thị trường xây dựng trong nước đối với các công trình của chủ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. II. PHẠM VI NGÀNH XÂY DỰNG CÁC KHÁI NIỆM CẦN BIẾT TRONG THỐNG KÊ XÂY DỰNG 1. Phạm vi ngành xây dựng * Ngành xây dựng bao gồm các hoạt động - Xây dựng và lắp đặt các thiết bị trong các công trình, phục vụ sản xuất, đời sống xã hội và dân cư, do các tổ chức xây lắp thuộc các thành phần kinh tế, kể cả các hộ sản xuất kinh doanh cá thể thực hiện dưới mọi hình thức nhận thầu. - Sửa chữa lớn các công trình xây lắp do các thành phần (ghi ở trên) nhận thầu thực hiện. - Hoạt động thi công cơ giới phục vụ cho việc xây dựng các công trình xây lắp. - Hoạt động xây dựng, lắp đặt và sửa chữa lớn tự làm của các thành phần kinh tế và các hộ dân cư. 2. Các khái niệm cần biết trong thống kê xây dựng 2.1. Hoạt động xây dựng * Hoạt động xây dựng là quá trình lao động để tạo ra những sản phẩm xây dựng cho nền kinh tế quốc dân, gồm những công việc sau: - Thăm dò, khảo sát, thiết kế - Xây dựng mới, xây dựng lại công trình - Cải tạo mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình. - Cho thuê phương tiện, máy móc thi công có người điều khiển đi kèm. + Tuy vậy, theo phân ngành kinh tế hiện nay (hệ thống tài khoản quốc gia: SNA - viết tắt chữ System of National Accunts), ngành xây dựng cơ bản chỉ tính công việc thăm dò khảo sát thiết kế phát sinh trong quá trình thi công, các công trình, còn việc thăm dò, khảo sát, thiết kế ban đầu là thuộc ngành hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn. 2.2. Sản xuất xây dựng - Là hoạt động của những người lao động thuộc ngành xây dựng tác động vào đối tượng lao động để tạo ra các sản phẩm xây dựng cần thiết cho xã hội, nhằm phục vụ sản xuất và đời sống vật chất, tinh thần ngày càng nâng cao của mọi thành viên trong xã hội. - Sản xuất xây dựng là những hoạt động xây dựng mới, xây dựng lại, cải tạo, mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá, lắp đặt thiết bị máy móc, sửa chữa lớn những công trình nhà cửa, vật kiến rúc hoặc các công trình dân dụng khác kể cả công việc thăm dò khảo sát thiết kế phục vụ trong quá trình thi công các công trình đó. - Sản xuất xây dựng là ngành kinh tế quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, nó tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và những tài sản cố định mới, phục vụ đời sống con người và tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển. 2.3. Hoạt động xây lắp - Là quá trình lao động xây dựng và lắp đặt thiết bị máy móc và các công trình. Đây là hoạt động chủ yếu nhất của các đơn vị xây dựng, bao gồm những công việc đào, xúc, san lấp mặt bằng, làm đường, xây dựng, sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trú và lắp đặt các thiết bị máy móc vào các công trình, kể cho cho thuê phương tiện máy móc thi công có người điều khiển đi kèm. - Những đơn vị doanh nghiệp chuyên làm những công việc này thường gọi chung là các đơn vị thi công xây lắp nhận thầu. 2.4. Sản phẩm xây dựng * Khái niệm và hình thức biểu hiện của sản phẩm xây dựng - Sản phẩm xây dựng mà sản phẩm chính của nó là sản phẩm xây lắp, là những công trình xây lắp, xây dựng và những bộ phận cấu thành, nêu chúng còn đang xây dựng dở dang, cùng những công việc có tính chất xây lắp như sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc và lắp đặt thiết bị máy móc vào công trình. - Sản phẩm xây dựng là một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội, là kết quả trực tiếp và hữu ích của lao động trong lĩnh vực sản xuất xây dựng sáng tạo, ra theo đúng quy trình công nghệ xây lắp và đảm bảo chất lượng thiết kế yêu cầu. - Sản phẩm xây dựng được biểu hiện dưới hai hình thức: Hình thức vật chất cụ thể và hình thức giá trị công việc có tính chất xây lắp: - Đại bộ phận sản phẩm xây dựng có hình thức vật chất cụ thể, có thể dùng các đơn vị đo lường vật lý để xác định dung tích, khối lượng, công suất… Đó là những công trình xây lắp, xây dựng nhà cửa, vật kiến trúc, công trình dân dụng khác và các bộ phận cấu thành của chúng đang xây dựng dở dang. - Còn những sản phẩm không biểu hiện bằng hình thức cá thể được (những công việc thăm dò thiết kế phát sinh trong thi công, công việc sửa chữa nhà cửa, vật kiến trúc, công việc lắp đặt thiết bị máy móc), tuy không tạo ra giá trị sử dụng mới nhưng chúng đã khôi phục và làm tăng giá trị sử dụng hiện có, tạo điều kiện cho máy móc hoạt động. * Phân loáip theo mức độ hoàn thành Trong xây dựng cũng như trong bất cứ ngành sản xuất nào khác tại mỗi thời điểm của quá trình sản xuất, sản phẩm sẽ hoàn thành ở một giai đoạn nhất định. Mức độ hoàn thành của các đối tượng được xây dựng sẽ khác nhau tuỳ thuộc bởi khối lượng công việc được tiến hành từ khi bắt đầu xây dựng các đối tượng đó. Để xác định đúng đắn khối lượng sản phẩm xây dựng đã thực hiện được, phục vụ cho việc hạch toán theo dõi, thanh toán, báo cáo được kịp thời, đúng với tình hình thực tế thi công, người ta đã phân loại sản phẩm theo ba mức độ hoàn thành như sau: + Thành phẩm + Khối lượng thi công xong + Khối lượng thi công dở dang - Thành phẩm: là những công trình, hạng mục, công trình đã hoàn chỉnh, đã làm xong hạng mục nghiệm thu sử dụng theo đúng chế độ quy định của nhà nước và có thể sẵn sàng huy động sử dụng được ngay. Thành phẩm của ngành xây dựng đồng thời cũng là tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân. Những công việc sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc, lắp đặt thiết bị máy móc và công trình, nếu hoàn thành đã bàn giao cũng được coi là thành phẩm. - Công trình là biểu hiện tổng hợp của các vật thể kiến trúc có liên quan với nền đất, được tạo bởi các vật liệu xây dựng, được thi công trên một hoặc nhiều địa điểm, nhưng có chung một bản thiết kế và giá trị của đối tượng đó được tính chung cho một bản tổng dự toán. Công trình có thể chỉ là một ngôi nhà, hoặc một vật kiến trúc, nếu có thiết kế và dự toán độc lập. Hạng mục công trình là các đối tượng xây dựng có thiết kế, dự toán riêng trong thiết kế chung và dự toán tổng hợp với các đối tượng khác, nó có thể huy động năng lực độc lập theo thiết kế riêng hoặc phục vụ huy động năng lực tổng hợp của cả công trình. Ví dụ: Công trình nhà máy thủy điện có bốn tổ máy phát điện, được ghi chung trong một bản thiết kế và dự toán tổng hợp. Từng tổ máy phát điện lại có thiết kế và dự toán riêng nằm trong dự toán chung. Như vậ, từng tổ máy phát điện là hạng mục công trình và cả nhà máy là một công trình. Tóm lại: thành phẩm là những công trình, hạng mục công trình và những công việc xây lắp khác hoàn thành đã đạt được các yêu cầu sau đây: + Hoàn thành toàn bộ các khối lượng công tác xây lắp theo thiết kế quy định. + Đảm bảo chất lượng thiết kế xây dựng qui định và sẵn sàng huy động được ngay theo đúng chức năng đã đề ra. + Đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng theo đúng chủ đề nhà nước quy định. - Khối lượng thi công xong (còn gọi là thành phẩm quy ước của đơn vị nhận thầu). Khối lượng thi công xong là những khối lượng xây lắp đã hoàn thành đến giai đoạn quy ước (giai đoạn quy định đối với từng công trình, hạng mục công trình cụ thể) trong thiết kế, dự toán và theo nội dung hợp đồng đã ký kết giữa hai bên giao thầu (bên A), nhận thầu (bên B) và đã được bên A xác nhận thanh toán. Tiêu chuẩn để xác định khối lượng thi công xong là: + Khối lượng công việc thi công xong đảm bảo đo, tính được dễ dàng. + Có thể kiểm tra được chất lượng sản phẩm + Đã cấu tạo và thực thể công trình + Đã thi công đấu phần việc cuối cùng trong đơn dự toán. Như vậy, những khối lượng xây lắp nào chưa được bên A xác nhận là hoàn thành đến giai đoạn quy ước, thì không được tính là khối lượng thi công xong, mà sẽ tính là khối lượng thi công dở dang. - Khối lượng thi công dở dang Là những khối lượng xây lắp đang thi công, chưa hoàn thành đến giai đoạn quy ước, chưa được bên A xác nhận thanh toán. Tiêu chuẩn xác định khối lượng thi công dở dang: + Khối lượng công việc có thể đo, tính được dễ dàng + Sơ bộ kiểm tra được chất lượng sản phẩm + Đã thi công theo đúng thiết kế, dự toán + Phải là công việc do công nhân xây lắp thi công tại hiện trường. Để xác định được khối lượng thi công dở dang, các doanh nghiệp xây lắp phải thực hiện nghiêm ngặt việc kiểm kê sản phẩm dở dang ở các tổ, đội sản xuất vào ngày cuối mỗi tháng, phải có sự xác nhận của nhân viên kỹ thuật của nhân viên kỹ thuật giám sát thi công và cán bộ tổ, đội sản xuất trong văn bản kiểm kê, không được tuỳ ý, tuỳ tiện ước tính. Cả 2 loại khối lượng thi công xong và thi công dở dang đều là khối lượng sản phẩm xây dựng dở dang. III. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH XÂY DỰNG VIỆT NAM ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHƯƠNG PHÁP TÍNH CÁC CHỈ TIÊU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT, CHI PHÍ TRUNG GIAN, GIÁ TRỊ TĂNG THÊM NGÀNH XÂY DỰNG. 1. Đặc điểm chung của ngành xây dựng do tính chất của sản phẩm xây dựng - Tình hình và điều kiện sản xuất trong xây dựng thiếu tính ổn định, luôn biến đổi theo địa điểm xây dựng. Cụ thể là trong xây dựng con ngưòi và công cụ lao động luôn phải di chuyển từ công trình này đến công trình khác, còn sản phẩm xây dựng (tức là các công trình xây dựng) thì hình thành và đứng yên tại chỗ, một đặc điểm hiếm thấy ở các ngành khác. Các phương án xây dựng về mặt kỹ thuật và tổ chức sản xuất cũng luôn luôn phải thay đổi theo từng địa điểm và giai đoạn xây dựng. Đặc điểm này làm khó khăn cho việc tổ chức sản xuất, khó cải thiện điều kiện cho người lao động, làm nảy sinh nhiều chi phí cho khâu di chuyển. Đặc điểm này cũng đòi hỏi các tổ chức xây dựng phải chú ý tăng cường tính cơ động, linh hoạt và gọn nhẹ. Về mặt trang bị tài sản cố định sản xuất, lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất linh hoạt, tăng cường điều hành tác nghiệp, phấn đấu giảm chi phí có liên quan đến vận chuyển, lựa chọn vùng hoạt động thích hợp, lợi dụng tối đa lực lượng xây dựng tại chỗ và liên kết tại chỗ để tranh thầu xây dựng, chú ý đến nhân tố chi phí vận chuyển khi lập giá tranh thầu. Đặc điểm này cũng đòi hỏi phải phát triển rộng khắp trên lãnh thổ các loại hình dịch vụ sản xuất phục vụ xây dựng như các dịch vụ cho thuê máy xây dựng, cung ứng và vận tải, sản xuất vật liệu xây dựng.v.v.. - Chu kỳ sản xuất (thời gian xây dựng công trình) thường dài. Đặc điểm này làm cho vốn đầu tư xây dựng công trình và vốn sản xuất của tổ chức xây dựng thường bị ứ đọng lâu tại công trình đang được xây dựng, các tổ chức xây dựng dễ gặp phải các rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian, công trình xây dựn xong dễ bị hao mòn vô hình do tiến bộ của khoa học và công nghệ. Đặc điểm này đòi hỏi các tổ chức xây dựng phải chú ý đến nhân tố thời gian khi lựa chọn phương án, phải lựa chọn phương án có thời gian xây dựng hợp lý, phải có chế độ thanh toán và kiểm tra tra chất lượng trung gian thích hợp dự trữ hợp lý. - Sản xuất xây dựng phải tiến hành theo đơn đặt hàng cho từng trường hợp cụ thể thông qua hình thức ký kết hợp đồng sau khi thắng thầu, vì sản phẩm xây dựng rất đa dạng, có tính cá biệt cao và chi phí lớn. Trong phần lớn các ngành sản xuất khác người ta có thể sản xuất sẵn hàng loạt sản phẩm để bán. Nhưng với các công trình xây dựng thì không thể được trừ một vài trường hợp rất hiếm khi chủ đầu tư làm sẵn một số nhà ở để bán. Nhưng ngay cả ở đây mỗi nhà cũng đều có những đặc điểm riêng do điều kiện địa chất và địa hình đem lại. Đặc điểm này dẫn đến yêu cầu là phải xác định giá cả của sản phẩm xây dựng trước khi sản phẩm được làm ra và hình thức giao nhận thầu hoặc đấu thầu xây dựng cho từng công trình cụ thể trở nên phổ biến trong sản xuất xây dựng. Đặc điểm này cũng đòi hỏi các tổ chức xây dựng muốn thắng thầu phải tích luỹ nhiều kinh nghiệm cho nhiều trường hợp xây dựng cụ thể và phải tính toán cẩn thận khi tranh thầu. - Quá trình sản xuất xây dựng rất phức tạp, các đơn vị tham gia xây dựng công trình phải cùng nhau đến công trường thi công với diện tích có hạn để thực hiện phần việc của mình theo một trình tự nhất định về thời gian và không gian. Đặc điểm này đòi hỏi các tổ chức xây dựng phải có trình độ phối hợp tổ chức cao trong sản xuất, coi trọng công tác chuẩn bị và thiết kế tổ chức thi công, phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức xây dựng tổng thầu hay thầu chính và các tổ chức thầu phụ. - Sản xuất xây dựng phải tiến hành ngoài trời nên chịu ảnh hưởng của thời tiết, điều kiện làm việc nặng nhọc. Ảnh hưởng của thời tiết, thường làm gián đoạn quá trình thi công, năng lực sản xuất của tổ chức xây dựng không được sử dụng điều hoà theo bốn quý, gây khó khăn cho việc lựa chọn công trình, đòi hỏi phải dự trữ nhiều vật liệu… Đặc điểm này đòi hỏi các tổ chức xây dựng phải lập tiến độ thi công hợp lý để tránh thời tiết xấu, phấn đấu tìm cách hoạt động tròn năm, áp dụng kết cấu lắp ghép làm sản phẩm sẵn trong xưởng để giảm bớt thời gian thi công trong công trường, áp dụng cơ giới hoá hợp lý, chú ý độ bền chắc của máy móc, đặc biệt quan tâm đến việc cải thiện điều kiện lao động của công nhân, chú ý đến nhân tố rủi ro, quan tâm đến phát triển xây dựng trong điều kiện nhiệt đới… - Sản xuất xây dựng chịu ảnh hưởng của lợi nhuận chênh lệch do điều kiện địa điểm xây dựng đem lại. Cùng một loại công trình nhưng nếu nó được đặt tại nơi có sẵn nguồn nguyên vậtliệu xây dựng, sẵn nguồn máy xây dựng cho thuê và sẵn nhân công thì người nhận thầu xây dựng trường hợp này có nhiều cơ hội hạ thấp chi phí sản xuất và thu được lợi nhuận cao hơn. - Tốc độ phát triển kỹ thuật xây dựng thường chậm hơn nhiều ngành khác. Tất cả các điều kiện trên đã ảnh hưởng đến sản xuất xây dựng, ảnh hưởng đến phương pháp tính toán các chi phí thống kê xây dựng. Ngoài ra, đặc điểm riêng của ngành xâydựng Việt Nam cũng ảnh hưởng rất lớn đến phương pháp tính toán các chỉ tiêu. 2. Đặc điểm xuất phát từ những điều kiện tự nhiên và kinh tế của Việt Nam - Về điều kiện tự nhiên: sản xuất xây dựng ở Việt Nam được tiến hành trong điều kiện khí hậu nhiệt đới, đất nước dài và hẹp, điều kiện địa chất thuỷ văn phức tạp, có một số nguồn vật liệu xây dựng phong phú. Do đó, các giải pháp xây dựng ở Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh của nhân tố này. - Về trình độ xây dựng theo các mặt kỹ thuật, tổ chức sản xuất, quản lý kinh tế còn thấp kém so với nhiều nước. Quá trình sản xuất xây dựng ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra như một quá trình phát triển tổng hợp, kết hợp bước đi tuần tự và bước đi nhảy vọt, kết hợp giữa hợp tác hoá lao động giản đơn, công trường thủ công, nửa cơ giới, cơ giới hoá và một phần tự động hoá. Trong bối cảnh hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng, trình độ xây dựng của nhà nước ta đang đứng trước nhiều cơ hội và điều kiện để phát triển nhanh. - Đường lối chung phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận dụng cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, đang quyết định phương hướng và tốc độ phát triển ngành xây dựng của Việt Nam. CHƯƠNG II PHƯƠNG PHÁP TÍNH TOÁN CÁC CHỈ TIÊU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT (GO), CHI PHÍ TRUNG GIAN (IC), GIÁ TRỊ TĂNG THÊM (VA) NGÀNH XÂY DỰNG A. CÁC CHỈ TIÊU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT, CHI PHÍ TRUNG GIAN, GIÁ TRỊ TĂNG THÊM THEO HỆ THỐNG TÀI KHOẢN QUỐC GIA Hệ thống tài khoản quốc gia SNA là một hệ thống các tài khoản có liên hệ hữu cơ với nhau, bao gồm các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, trình bày dưới dạng tài khoản nhằm phản ánh quá trình tái sản xuất sản phẩm xã hội và GDP trong một thời kỳ nhất định. Hệ thống tài khoản quốc gia do cơ quan thống kê nhà nước lập, mô tả quá trình tái sản xuất đã được thực hiện, hoàn thành, xây dựng từ các nguồn số liệu đầu tra về quá trình sản xuất đã xảy ra, xác định quy mô, trình độ và hiệu quả của sản xuất, là kiểu tổ chức hạch toán nền kinh tế quốc dân dựa trên lý luận về toàn bộ quá trình sản xuất bao gồm cả sản xuất vật chất và sản xuất dịch vụ, là công cụ để tổ chức quản lý nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, ngày 25/12/1992, thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 183/Tgg về việc chính thức áp dụng hệ thống tài khoản quốc gia SNA vào Việt Nam thay cho hệ thống bảng cân đối kinh tế quốc dân MPS. Chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian, giá trị gia tăng là 3 chỉ tiêu rất quan trọng trong hệ thống SNA. I. Giá trị sản xuất (Gros out put - GO) 1. Khái niệm Tổng giá trị sản xuất là toàn bộ giá trị của sản phẩm do lao động trong các ngành của nền kinh tế quốc dân tạo ra trong một thời kỳ nhất định, thường là 1 năm. 2. Nội dung kinh tế Tổng giá trĩ là chỉ tiêu phản ánh kết qua sản xuất của toàn bộ nền kinh tế theo từng thời kỳ: tháng, quý; 6 tháng, năm. Chỉ tiêu này được xác định bằng tổng cộng giá trị sản xuất của từng ngành kinh tế, thành phần kinh tế. Tổng giá trị sản xuất bao gồm toàn bộ các y