Ngày nay, trong hóa trị, hai loại dược phẩm được sử dụng nhiều nhất và
có hiệu quả tốt trong việc điều trị ung thư buồng trứng, ung thư vú, ung thư
phổi là: Paclitaxel (được phát triển từ phân tử Paclitaxel hoạt hóa của Công ty
Bristol Myers Squibb, Mỹ) và Taxotere (được phát triển từ phân tử Docetaxel
hoạt hóa của công ty Sanofi - Aventis, Pháp). Cả hai hoạt chất này đều được
trích ly từ vỏ và lá cây Thông đỏ (Taxus ssp, Taxus brevifolia).
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 533 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp trích ly bằng dung môi siêu tới hạn, trích chiết dược phẩm quý nano paclitaxel từ cây Thông đỏ taxus wallichiana zucc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT20
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G
1. Mở đầu
Trong quá trình trích ly các dược phẩm
quý và lưu tâm đến vấn đề môi trường, CO2 là
một dung môi có nhiều ưu điểm. CO2 không
độc, không cháy, rẻ tiền và có điều kiện tới hạn
thấp. Nhiệt độ tới hạn của CO2 chỉ 31,1
oC vừa
tiết kiệm năng lượng lại vừa không làm phân
hủy các dược chất[1]. Thêm vào đó, tính khuếch
tán cao, tỷ trọng có thể điều chỉnh được và độ
nhớt thấp nên CO2 là lưu chất phù hợp được sử
dụng cho quá trình tạo hạt.
Cây Thông đỏ từ lâu đã được giới khoa học
và người dân biết đến là một loại dược liệu quý,
dùng để điều trị nhiều bệnh, đặc biệt lá và vỏ
cây có thể điều chế các hoạt chất để chữa trị
ung thư.
Cây Thông đỏ thuộc họ Thanh tùng, là
loài cây bụi hay cây thân gỗ nhỏ nhiều cành,
phân bố tại hẻm núi các huyện Đức Trọng, Đơn
Dương, Lạc Dương và TP. Đà Lạt (Lâm Đồng), ở
độ cao từ 1.300 - 1.700m.
Phương pháp trích ly bằng dung môi siêu tới hạn, trích chiết dược phẩm
quý nano paclitaxel từ cây Thông đỏ taxus wallichiana zucc
BÙI THỊ NAM TRÂN,
THÂN THỊ PHƯƠNG, NGUYỄN THỊ HẰNG
Trường Cao đẳng Sư Phạm Gia Lai
Đặc tính của lá Thông đỏ
- Trong lá thông đỏ có những khoáng chất
như Vitamin C, A, K, Acicd Amino thiết yếu,
Carbonhydrate, Phosphorus, Chất sắt, Chất béo,
Mangan, Kẽm...
- Nó chứa các Acid Amin thiết yếu là thành
phần chính của Protein đóng vai trò quan trọng
trong quá trình hình thành cơ thể con người.
- Acidamin có 22 loại mà lá thông đỏ chứa
8 loại thiết yếu trong số đó.
Ngày nay, trong hóa trị, hai loại dược phẩm được sử dụng nhiều nhất và
có hiệu quả tốt trong việc điều trị ung thư buồng trứng, ung thư vú, ung thư
phổi là: Paclitaxel (được phát triển từ phân tử Paclitaxel hoạt hóa của Công ty
Bristol Myers Squibb, Mỹ) và Taxotere (được phát triển từ phân tử Docetaxel
hoạt hóa của công ty Sanofi - Aventis, Pháp). Cả hai hoạt chất này đều được
trích ly từ vỏ và lá cây Thông đỏ (Taxus ssp, Taxus brevifolia).
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT 21
S
Ố
0
3
N
Ă
M
2
0
182. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài
nước
Vào đầu những năm 1960, Viện Ung thư
Quốc gia Mỹ (NCI) đã phát triển một chương
trình nghiên cứu dịch trích ly từ các nguồn
khác nhau trong tự nhiên. Năm 1962, một trong
những dịch chiết đã được phát hiện có hoạt tính
chống ung thư rõ rệt, có khả năng cô lập những
khối u. Tuy nhiên, công trình này đã không
được phát triển cho tới khi hai nhà nghiên cứu
Wall và Wani của Viện nghiên cứu Triangle, Bắc
Carolina, tách ra được một hợp chất có hoạt
tính chống ung thư từ cây Thông đỏ Thái Bình
Dương Taxus brevifolia. Vào thời điểm này, việc
xác định cấu trúc của hợp chất này không phải
là công việc đơn giản. Năm 1971, Wall và Wani
đã cô lập được dẫn xuất của taxol dưới dạng tinh
thể và xác định được cấu trúc dựa vào nhiễu xạ
tia X. Đây là loại diterpen phức tạp chứa nhiều
oxygen hứa hẹn nhiều về hoạt tính chống ung
thư. Hợp chất này được lấy tên thương mại là
Taxol. Và cũng năm này, Wall và Wani đã công
bố cấu trúc của hợp chất này gọi là Paclitaxel.
Ngày nay, trong hóa trị, hai loại dược phẩm
được sử dụng nhiều nhất và có hiệu quả tốt
trong việc điều trị ung thư buồng trứng, ung
thư vú, ung thư phổi là: Paclitaxel (được phát
triển từ phân tử Paclitaxel hoạt hóa của Công ty
Bristol Myers Squibb, Mỹ) và Taxotere (được phát
triển từ phân tử Docetaxel hoạt hóa của công
ty Sanofi - Aventis, Pháp). Cả hai hoạt chất này
đều được trích ly từ vỏ và lá cây Thông đỏ (Taxus
ssp, Taxus brevifolia), mang về những nguồn thu
khổng lồ cho các hãng sản xuất. Trong 10 năm
qua, Bristol Myers Squibb đã thu được 11 tỷ
USD từ việc bán Paclitaxel. Riêng Sanofi Aventis,
trong năm 2005 đã thu được 1,7 tỷ USD từ việc
bán Taxotere. Vì thế, 10-DAB III và paclitaxel được
xem là thành phần khá quan trọng có trong các
loài Thông đỏ. Và cũng vì Thông đỏ có giá trị
kinh tế cao nên chúng bị khai thác trầm trọng
và nguồn dược liệu này đang đứng trước nguy
cơ bị đe dọa tuyệt chủng. Một số nước trên
thế giới đã rất thành công trong việc sản xuất
paclitaxel từ vỏ cây. Công nghệ này đã làm lão
hóa nhanh và cạn kiệt nguồn nguyên liệu. Tuy
nhiên, các nhà khoa học cũng đã tìm được hợp
chất 10 - deacetyl baccatyl III (10-DAB III), đây là
tiền chất dùng để tổng hợp paclitaxel có trong
cành và lá Thông đỏ với hàm lượng nhiều hơn
so với vỏ cây.
Theo các nhà khoa học, Thông đỏ không
phải là loài cây đặc hữu chỉ có ở Việt Nam mà
phân bố rải rác suốt từ châu Mỹ, châu Âu sang
châu Á. Tuy nhiên, loài Thông đỏ mọc ở vùng
rừng Việt Nam được chứng minh là có giá trị
cao hơn Thông đỏ ở các vùng khác vì chỉ số
tích lũy hoạt chất cao hơn. Theo các kết quả
khảo sát, ở Việt Nam có 2 lại Thông đỏ: Taxus
wallichiana (Thông đỏ Hymalaya) ở Lâm Đồng
và Taxus chinensis (Thông đỏ Trung Hoa) ở Mai
Châu (Hòa Bình) và một số vùng cao khác. Hiện
nay, Trung tâm nghiên cứu trồng và chế biến
cây thuốc Đà Lạt - Vimedimex đang triển khai
trồng Thông đỏ theo các chế độ phân bón khác
nhau để tạo nguồn nguyên liệu chiết tách 10-
DAB III và paclitaxel theo chương trình của nhà
nước. Trung tâm cũng đang thu thập các cá thể
Thông đỏ mọc hoang dại trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng trong việc chọn lọc dòng có hàm lượng
hoạt chất cao.
“Nghiên cứu quy trình trồng cây Thông đỏ
để làm nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh”
do ThS. Vương Chí Hùng - Trung tâm Nghiên cứu
trồng và chế biến cây thuốc Ðà Lạt (VIMEDIMEX)
- thực hiện cùng với nhóm tác giả nhằm thuần
hóa cây Thông đỏ (một loại cây rừng) thành
cây trồng hướng thâm canh cây nông nghiệp
có một ý nghĩa rất lớn. Trên cơ sở nghiên cứu,
nhóm tác giả nói trên đã bước đầu đưa ra những
Thông số kỹ thuật phù hợp về điều kiện sinh
thái, thời vụ, chế độ phân bón... để thâm canh
trồng cây Thông đỏ theo phương thức canh tác
nông nghiệp tại vùng đất Lâm Ðồng - cái nôi
cuối cùng của cây Thông đỏ Việt Nam. Các nhà
khoa học đã nghiên cứu được 49 dòng Thông
đỏ tự nhiên và qua đó chọn lọc được chín loài
Thông đỏ cho hàm lượng hoạt chất 10-DAB III và
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT22
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G taxol cao. Ðây cũng là chín loài được chọn để tạo
ra nguồn giống bằng phương pháp vô tính mới.
Nhà nghiên cứu Trần Công Luận và cộng
sự đã tiến hành xác định được đặc điểm vi
học và khảo sát thành phần hóa học của lá
Thông đỏ Taxus Wallichiana Zucc như các hợp
chất: tinh dầu; chất béo; triterpenoid; alkaloid;
proanthocianidin; tannin; saponin; chất khử;
acid hữu cơ.
3. Hợp chất paclitaxel
Hợp chất Paclitaxel có tên theo UIPAC
là4α,5β,7β,10β,13α)-4,10-Bis(acetyloxy)-13-
{[(2R,3S)-3-(benzoylamino)-2-hydrox y-3-
phenylpropanoyl]oxy}-1,7-dihydroxy-9-oxo-
5,20-epoxytax-11-en-2-yl benzoate, còn tên theo
thương mại là Abraxane, Taxol, Onxol, Nov-Onxol.
Hình 2: Cấu trúc hóa học của hợp chất Paclitaxel.
Paclitaxel là một loại thuốc dùng để điều
trị ung thư buồng trứng, vú, phổi, tuyến tụy
và những bệnh ung thư khác. [3] Paclitaxel
và docetaxel đại diện cho họ gia đình thuốc
taxane. Cơ chế hoạt động của Paclitaxel liên
quan đến việc can thiệp với sự cố thông thường
của vi ống trong phân chia tế bào. Tác dụng
phụ thường gặp bao gồm: rụng tóc, đau cơ và
khớp và tiêu chảy, .... [6] Đó là kết quả của một
nguy cơ nhiễm trùng nghiêm trọng. Sử dụng
loại thuốc này trong khi mang thai thường dẫn
đến các vấn đề ở trẻ sơ sinh...
Paclitaxel được phát hiện bắt đầu vào năm
1962 [3] như là một kết quả của một chương
trình tầm soát ung thư quốc gia Hoa Kỳ tài trợ;
được phân lập từ vỏ cây của Thủy tùng Thái
Bình Dương, brevifolia Taxus, đúng như tên
gọi của nó “taxol”. Phát triển thương mại bởi
Bristol-Myers Squibb, tên chung đã thay đổi để
“paclitaxel” với tên thương mại trở thành Taxol.
Các thương hiệu khác bao gồm Abraxane. Các
bác sĩ đôi khi sử dụng chữ viết tắt “PTX” cho
paclitaxel, mà không được khuyến khích, bởi
vì nó không phải là một định danh duy nhất.[10]
Paclitaxel là tên gọi được Tổ chức Y tế thế giới
công nhận trong Danh sách thuốc thiết yếu,
thuốc quan trọng nhất cần thiết trong một hệ
thống y tế cơ bản.
4. Lưu chất siêu tới hạn (supercritical fluid)
Lưu chất siêu tới hạn nói chung được định
nghĩa là một trạng thái vật lý của một chất nào
đó ở điều kiện nhiệt độ và áp suất cao hơn nhiệt
độ tới hạn và áp suất tới hạn. Lưu chất siêu tới
hạn có các thông số vật lý nằm trong khoảng
biến thiên giữa lưu chất ở trạng thái khí và trạng
thái lỏng [4]. Do mang cả tính chất của chất khí
(dễ khuếch tán vào chất khác) và tính chất của
chất lỏng (hòa tan chất) nên lưu chất siêu tới
hạn có rất nhiều ứng dụng trong thực tiễn.
Đặc điểm của một số chất lỏng được sử
dụng làm dung môi siêu tới hạn thể hiện ở
bảng sau
Bảng 1. Một số chất lỏng siêu tới hạn thông
dụng
Dung môi Nhiệt độ tới hạn (oC)
Áp suất tới hạn
(bar)
Nước 374 218
EtOH 241 61
MeOH 240 80
Aceton 235 46
NH3 132 115
CO2 thường được sử dụng làm lưu chất
siêu tới hạn do các ưu điểm nổi trội của nó so
với các chất khác, đặc biệt là trong công nghiệp
dược phẩm.
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT 23
S
Ố
0
3
N
Ă
M
2
0
18Điểm tới hạn thấp (TC = 31,1
0C, PC = 73,8
bar) vì thế ít tốn năng lượng hơn để đưa CO2
tới vùng siêu tới hạn.
Hình 3: Giản đồ pha thể hiện điểm tới hạn của CO2[9].
5. Phương pháp kỹ thuật trích ly siêu
tới hạn
Trong nhiều thập kỷ qua, kỹ thuật lỏng
siêu tới hạn đã được sử dụng rất nhiều chủ
yếu trong việc nghiên cứu về dược phẩm, thực
phẩm. Trong ngành công nghiệp thực phẩm,
việc trích chiết các hợp chất là rất quan trọng
nhưng một yêu cầu đặt ra là phải loại bỏ hoàn
toàn lượng dung môi sử dụng[8]. Chất lỏng
siêu tới hạn (SCFs) nói chung có thể được định
nghĩa là trạng thái vật lý của một chất nào đó
thể hiện cả tính chất của chất lỏng và chất khí.
Không giống như chất khí, SCFs có tính chất
của một dung môi mạnh và nó còn thể hiện
khả năng khuếch tán tốt hơn dung môi thông
thường. SCFs được nghiên cứu từ thế kỷ thứ
19 khi Hannay phát hiện ra điểm tới hạn của
phân tử (Critical point). Họ cũng quan sát thấy
ảnh hưởng của áp suất lên độ tan của KI trong
Ethanol. Sự tiến bộ của kỹ thuật SCFs phát
triển chậm hơn mãi đến những năm 1970 và
1980 một số quy trình mới được thương mại
hóa và nghiên cứu tăng cường. Theo tính chất
nhiệt động lực học, định nghĩa SCFs như là
chất lỏng ở nhiệt độ và áp suất cao hơn giá trị
tới hạn [9]. Giản đồ pha trạng thái siêu tới hạn
của một chất. Điểm ba là nơi mà ba trạng thái
rắn, lỏng và khí giao nhau. Các đường cong là
nơi hai trạng thái cùng hiện diện. Quan sát dọc
theo đường cong khí - lỏng hướng lên cao gặp
1 điểm, nơi đó nồng độ của khí và lỏng bằng
nhau. Điểm này được gọi là điểm siêu tới hạn và
hợp chất lúc đó gọi là chất lỏng siêu tới hạn. Tại
điểm tới hạn, áp suất và nhiệt độ có các giá trị
được gọi lần lượt là áp suất tới hạn (Pc) và nhiệt
độ tới hạn (Tc ). Hai giá trị này là đặc trưng cho
từng chất riêng biệt. Các trạng thái vật lý của
một chất tinh khiết được miêu tả trong giản đồ
ba chiều áp suất-thể tích-nhiệt độ (PVT), thể
hiện như hình sau:
Giản đồ P-T-V của SCFs các bề mặt đại diện
các trạng thái rắn, lỏng và khí tương ứng với các
giá trị khác nhau của nhiệt độ và áp suất. Theo
quy tắc pha, cân bằng hai pha (rắn-lỏng, rắn-
hơi, lỏng-hơi) của một chất tinh khiết chỉ thể
hiện trong phạm vi nhất định. Vì vậy, áp suất cân
bằng trong mỗi trường hợp là một hàm theo
nhiệt độ. Hình chiếu đường cân bằng rắn-lỏng,
rắn-hơi, lỏng-hơi được thể hiện bên trái.
- Khả năng hòa tan có thể tăng hay giảm
khi nhiệt độ tăng lên ở điều kiện đẳng áp. Trong
mọi trường hợp, khả năng hòa tan giảm đột
ngột khi lưu chất bị hạ áp suất ở điều kiện đẳng
nhiệt dưới áp suất tới hạn của nó. Đây là điều
cơ bản của hầu hết các qui trình sử dụng SCF:
SCF được sử dụng như những dung môi trong
vùng siêu tới hạn để có thể chiết một cách có
chọn lọc một số hợp chất trước khi bị hạ áp để
thu được hợp chất tinh khiết ở kích thước nano
hoặc sub-micro cần chiết. Cần lưu ý rằng, nước
hầu như hòa tan rất ít trong SCF. Ví dụ như trong
SCF CO2, nước chỉ có thể hòa tan được 1 - 2 g/
kg, nhưng nó đóng vai trò quan trọng như một
đồng dung môi cho rất nhiều các chất tan là
các phân tử phân cực. Hiện nay, nước được sử
dụng rộng rãi trong hầu hết các ứng dụng, đặc
biệt trong quá trình sản xuất các sản phẩm tự
nhiên. Tóm lại, bởi vì đặc điểm không có tính
phân cực, SCF được sử dụng như một loại dung
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT24
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G môi chống lại các dung môi hữu cơ phân cực (có
chứa chất tan), dẫn đến sự suy giảm tính phân
cực của chúng, và là nguyên nhân dẫn đến sự
lắng của các hợp chất mà trước đó đã được hòa
tan trong các dung môi này. Mặt khác, những
dung môi siêu tới hạn SCFs có tỉ trọng lớn (0,2 -
0,5g/cm3), tương đối đậm đặc, có khả năng hòa
tan các phân tử không bay hơi có kích thước lớn
không phân cực, ví dụ như CO2 siêu tới hạn dễ
dàng hòa tan n-ankan từ C5 đến C30, di-n-ankyl
phthalates với nhóm ankyl từ C4 đến C16 và một
số các hợp chất đa vòng khác. Cường độ solvat
hóa của SCF có liên quan trực tiếp đến tỉ trọng
của lưu chất. Vì thế khả năng hòa tan của chất
rắn có thể được điều chỉnh bằng cách thay đổi
nhiệt độ và áp suất.
Tính chất vật lý: Chất lỏng siêu tới hạn có
đặc tính trung gian giữa hai trạng thái khí và
lỏng của nó. Bảng 1.2 cho thấy tính chất vật lý
của chất ở các trạng thái khác nhau.
CO2 được sử dụng rộng rãi nhất trong kỹ
thuật siêu tới hạn. Một số ưu điểm nổi bật của
CO2 siêu tới hạn (SC-CO2): + Áp suất và nhiệt
độ tới hạn thấp (T = 31,10C P = 73,8 at): + Giá
tiền rẻ + Bền về hóa học + Không độc, không
dễ cháy + Độ nhớt thấp + Khả năng khuếch tán
cao + An toàn, độ tinh khiết cao + Ưu điểm nổi
bật của CO2 siêu tới hạn là tạo điều kiện cho
việc phân riêng sản phẩm thu hồi tái sử dụng
xúc tác + Có thể pha thêm MeOH, EtOH để tạo
thành dung dịch chiết chất phân cực. Vấn đề
chính đối với SC-CO2 chính là khả năng hòa
tan kém các chất phân cực, chỉ có thể hòa tan
tốt các chất không phân cực và phân cực yếu
như: Hidrocacbon, Hidrocacbon halogelnua,
chất béo,.
6. Hướng phát triển trong tương lai
Phương pháp SCF, phương pháp trích ly
dùng dung môi siêu tới hạn thật sự thu hút vì
quy trình đơn giản và tương đối dễ vận hành,
không gây ô nhiễm môi trường và các dược
phẩm quý sau khi được trích ly vẫn không bị lẫn
các dung môi khó đuổi và độc hại mà phương
pháp trích ly truyền thống đang gặp phải. Tuy
nhiên, phương pháp này có tính ưu việt đối với
các dược chất có tính phân cực yếu đến trung
bình và tan được trong CO2 siêu tới hạn là tiêu
chí cho sự lựa chọn dung môi sạch.
Paclitaxel là một dược phẩm vô cùng quý
giá. Các nhà khoa học trong nước đang lựa chọn
hướng đi mới này cho các dược phẩm quý được
trích ly bằng dung môi CO2 siêu tới hạn. Đồng
thời, những dược phẩm quý khác nữa cũng sẽ
được nghiên cứu trên các dung môi siêu tới
hạn có độ phân cực khác nhau, khác với dung
môi CO2./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Defne Kayrak, Ugur, Akman, Oner Hortacsu,
Micronization of Ibuprofen by RESS, Supercritical Fluids,
Elsevier, Accepted 18 September 2002.
2. Edited by Ya- Ping Sun, Supercritical Fluid technology
inmaterials science and engineering, New York, 2002.
3. Jennifer Jung, Michel Perrut, Particle design using
supercritical fluids: Literature and patent survey, Supercritical
Fluids, Elsevier, Accepted 28 December 2000.
4. Jump up^ Heldman, AW; Cheng, L; Jenkins, GM;
Heller, PF; Kim, DW; Ware Jr, M; Nater, C; Hruban, RH; et
al. (2001). “Paclitaxel stent coating inhibits neointimal
hyperplasia at 4 weeks in a porcine model of coronary
restenosis”.Circulation 103 (18)
5 . M . M i r z a j a n z a d e h , M . A r d j m a n d , H .
Moghadamzadeh, L. Khosravani, F. Saberi, Sh. Saed
Lashgari, Determining sublimation pressure of ibuprofen
from solubility data in supercritical carbon dioxide, Procedia
Engineering, Elsevier, August 2012.
6. Mehdi Ahmadi Sabegh, Feridun Esmaeilzadeh,
Solubility of ketoprofen in supercritical carbon dioxide,
Supercritical Fluids, Elsevier, Accepted 18 August 2012.
7. P. Hirunsit, Z. Huang, T. Srinophakun, M.
Charoenchaitrakool, S. Kawi, Pariticle formation of ibuprofen-
supercritical CO2 system from rapid expansion of supercritical
solution (RESS): A mathematical model, Powder Technology,
Elsevier, Accepted 11 March 2005.
8. Pankaj Pathak, Mohammed, Ya-Ping Sun, Formation
and stabilization of ibuprofen nanoparticle in supercritical
fluid processing, Supercritical Fluids, Elsevier, Accepted 26
September 2005.
9. Peter Molnár, Edit Székely, Béla Simándi, Sándor
Keszei, Judit Lovász, Elemér Fogassy, Enantioseparation
of ibuprofen by supercritical fluid extraction, Supercritical
Fluids, Elsevier, Accepted 17 October 2005.
10. Ranjit Thakur, Ram B. Gupta, Rapid expansion of
supercritical solution with solid cosolvent (RESS-SC) process:
Formation of 2-aminobenzoic acid nanoparticle, Supercritical
Fluids, Elsevier, Accepted 19 December 2005.
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT 25
S
Ố
0
3
N
Ă
M
2
0
18Tính toán năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) và đánh giá vai trò của khoa
học công nghệ đối với tăng trưởng TFP của tỉnh Gia Lai giai đoạn 2010-2016
ThS. NGÔ XUÂN HÒA & CỘNG SỰ
Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng tỉnh Gia Lai
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT26
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT 27
S
Ố
0
3
N
Ă
M
2
0
18
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT28
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT 29
S
Ố
0
3
N
Ă
M
2
0
18