Tóm tắt
Tài nguyên nước ở Việt Nam phân bố không đều theo không gian và thời gian
cũng như ẩn chứa nhiều yếu tố không bền vững. Nước dưới đất có thể được khai
thác sử dụng phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất tuy nhiên lượng nước được khai thác
phụ thuộc rất nhiều vào khả năng bổ cập cho tầng chứa nước. Bổ cập nước dưới đất
là quá trình mà nước thấm, ngấm trong các lỗ hổng, khe nứt của đất đá đến vùng
bão hòa nước bằng con đường tự nhiên hoặc nhân tạo. Lượng bổ cập cho nước
dưới đất là thông số cơ bản trong phương trình cân bằng nước lưu vực cũng như
cho hầu hết các mô hình tính toán tài nguyên nước dưới đất. Lượng bổ cập nước
dưới đất thường được xác định bằng phương pháp trực tiếp như lysmeter hoặc gián
tiếp như cân bằng nước, dao động mực nước ngầm, sử dụng chất chỉ thị hóa học và
cân bằng nồng độ chất hòa tan, kỹ thuật đồng vị, ứng dụng viễn thám và GIS, Tuy
nhiên, mỗi phương pháp xác định lượng bổ cập đều có những ưu nhược điểm riêng.
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 642 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp xác định lượng bổ cập tự nhiên nước dưới đất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 19 - năm 201838
PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH LƯỢNG BỔ CẬP TỰ NHIÊN
NƯỚC DƯỚI ĐẤT
Lê Việt Hùng1, Phạm Quý Nhân1, Trần Quốc Cường2
1 Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
2 Viện Địa chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Tóm tắt
Tài nguyên nước ở Việt Nam phân bố không đều theo không gian và thời gian
cũng như ẩn chứa nhiều yếu tố không bền vững. Nước dưới đất có thể được khai
thác sử dụng phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất tuy nhiên lượng nước được khai thác
phụ thuộc rất nhiều vào khả năng bổ cập cho tầng chứa nước. Bổ cập nước dưới đất
là quá trình mà nước thấm, ngấm trong các lỗ hổng, khe nứt của đất đá đến vùng
bão hòa nước bằng con đường tự nhiên hoặc nhân tạo. Lượng bổ cập cho nước
dưới đất là thông số cơ bản trong phương trình cân bằng nước lưu vực cũng như
cho hầu hết các mô hình tính toán tài nguyên nước dưới đất. Lượng bổ cập nước
dưới đất thường được xác định bằng phương pháp trực tiếp như lysmeter hoặc gián
tiếp như cân bằng nước, dao động mực nước ngầm, sử dụng chất chỉ thị hóa học và
cân bằng nồng độ chất hòa tan, kỹ thuật đồng vị, ứng dụng viễn thám và GIS, Tuy
nhiên, mỗi phương pháp xác định lượng bổ cập đều có những ưu nhược điểm riêng.
Từ khóa: Bổ cập nước dưới đất, cân bằng nước, ứng dụng viễn thám và GIS
Abstract
Method of determining for groundwater recharge
Water resources in Vietnam distribute unevenly in the space and the time,
as well as contain many unstable factors. The groundwater can be exploited and
used to serve living and economic activity; however, the exploitation depends on
groundwater recharge rate of the aquifer. Groundwater recharge is the process by
which water seepage by the fl aw of the soil, the crack of the rocks to zone saturation
by natural or artifi cial way. Groundwater recharge is the fundamental component
in the water balance of the watershed and is the funamental parameter in the most
model to evaluate groundwater resources. The quantifi tion of groundwater recharge is
usually determined by directly method such as lysmeter, seepage or indirectly method
such as water balance, groundwater level fl uctuation, using chemical indicator and
balance solute concentration, using remote sensing and GIS,... However, each of the
complementary measures has its limitation and also has its advantages.
Keywords: Groundwater recharge; Water balance; Remote sensing and GIS
application
I. Giới thiệu
Tài nguyên nước ở Việt Nam phân
bố không đều theo không gian và thời
gian cũng như ẩn chứa nhiều yếu tố
không bền vững: (i) gần 60% lượng
nước ở Việt Nam có nguồn gốc bên
ngoài lãnh thổ, (ii) tốc độ tăng dân số
nhanh làm lượng nước bình quân đầu
người giảm từ 3800m3/người/năm hiện
nay xuống còn 2800m3/người/năm vào
2025, (iii) thu hẹp đáng kể diện tích
rừng đầu nguồn làm suy giảm khả năng
giữ nước và bổ sung nước cho các tầng
chứa nước dưới đất... [5].
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 19 - năm 2018 39
Nước dưới đất, tồn tại trong các
tầng chứa nước dưới đất [1], được khai
thác sử dụng phục vụ cho sinh hoạt,
sản xuất ở những nơi mà nước mặt
không đáp ứng được nhu cầu sử dụng
nước. Lượng nước dưới đất được khai
thác phụ thuộc rất nhiều vào khả năng
bổ cập cho nước dưới đất từ nước mặt,
nước mưa. Bổ cập nước dưới đất là quá
trình mà nước thấm và ngấm trong các
lỗ hổng, khe nứt của đất đá đến vùng
bão hòa nước bằng con đường tự nhiên
hoặc nhân tạo. Lượng bổ cập cho nước
dưới đất có vai trò quan trọng để đảm
bảo khôi phục một phần trữ lượng nước
dưới đất bị lấy đi [4]. Lượng bổ sung
cho nước dưới đất này gọi là trữ lượng
động tự nhiên của nước dưới đất, là giá
trị cung cấp tự nhiên từ nước mưa, nước
mặt cho nước dưới đất qua quá trình
thấm, thấm xuyên,... Lượng bổ cập cho
nước dưới đất phụ thuộc vào đặc điểm cấu
tạo địa chất của khu vực nghiên cứu (vị trí
của các tầng chứa nước trong cấu tạo địa
chất, loại đất đá chứa nước và đất đá của đới
thông khí, sự tồn tại hay không tồn tại các
đới phá huỷ kiến tạo v.v...), điều kiện địa lý
(khí hậu, đặc điểm thuỷ văn, kớp phủ thổ
nhưỡng và thực vật), nhân tố địa chất thuỷ
văn (tính thấm và bề dày của tầng chứa
nước, đất đá của đới thông khí và các
lớp ngăn cách, chiều sâu thế nằm của
nước ngầm) v.v... Xác định lượng bổ cập
tự nhiên cho nước dưới đất (tính toán trữ
lượng động tự nhiên) nhằm thành lập sơ
đồ sử dụng tổng hợp tài nguyên nước,
lập kế hoạch sử dụng nước trong tương
lai và đánh giá trữ lượng khai thác của
nước dưới đất, đánh giá tương quan của
tài nguyên nước mặt và tài nguyên nước
dưới đất Một số nghiên cứu thông qua
việc xác định bổ cập nước dưới đất đã
đánh giá được tiềm năng khai thác nước
dưới đất ở một khu vực như i) Phạm
Quý Nhân (2000), xác định tổng trữ
lượng khai thác tiềm năng toàn vùng
Đồng bằng Bắc Bộ là 8.115.600 m3/
ngày. Tổng lưu lượng khai thác dự báo
theo các phương án quy hoạch đến 2015
là 1.129.956 m3/ ngày. ii) Đoàn Văn
Cánh (2015) đã tính toán được lượng bổ
cập tự nhiên từ nước mưa cho nước dưới
đất chiếm 42,9% tổng lượng bổ cập cho
TCN Đệ tứ vùng Đồng bằng Bắc Bộ.
Tiềm năng nước dưới đất tầng chứa
nước qp hệ tầng Hà Nội giả ước khai
thác trong 27 năm là: 12.829.261,82
m3/ngày còn dự báo theo phương pháp
mô hình là 11.023.721,00m3/ngày Theo
tác giả, hiện trạng khai thác và trữ lượng
tiềm năng của các tầng chứa nước đã
được thống kê và đánh giá thì trữ lượng
khai thác hiện nay so với trữ lượng khai
thác tiềm năng chỉ chiếm một phần nhỏ
(bảng 1). Tuy nhiên trong các giếng
khoan khai thác, mực nước liên tục
suy giảm, một số nơi xảy ra hiện tượng
nhiễm bẩn.
Bảng 1. Hiện trạng khai thác sử dụng nước dưới đất Đồng bằng Bắc Bộ, Hà Nội và
Việt Nam [2]
TT Thành phố, tỉnh
Lượng nước đang
khai thác, m3 /ngày
Trữ lượng khai thác
tiềm năng, m3 /ngày
% khai thác so
với tiềm năng
1 Đồng bằng Bắc Bộ 2.264.898,00 17.191.102,00 13,17
2 Hà Nội 1.779.398,00 8.362.000,00 21,27
3 Toàn lãnh thổ Việt Nam 8.364.513,00 172.599.897,00 4,85
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 19 - năm 201840
Bảng 2. Đặc điểm thạch học môi trường chứa nước và phương pháp xác định lượng
bổ cập [11]
TT Môi trường chứa nước Phương pháp xác định Khu vực nghiên cứu
1
Trầm tích lòng sông và
trầm tích trước núi thành
phần gồm đá, sỏi, cuội
Cân bằng nước, đồng vị,
mô hình, thủy động lực,
thủy văn
Sabarmati, Ấn Độ; thung lũng
Namoa, Úc; Lybia; Syria
2 Cát và đá cát Thủy động lực, mô hình
Nubian, Bắc Phi; Niger, Nigeria; Các
tiểu vương quốc Ả rập; New Mexico
3 Đá vôi và đá đô lô mít
Thủy văn, mô hình, cân
bằng nước
Cao nguyên Gambier, Úc; Portigal,
Brasil; Kabwe, Zambia;
4 Đá phấn Thủy động lực London, Anh; Negev, Isrel;
5 Đá núi lửa
Thủy văn, cân bằng, thực
nghiệm
Khối bazan Deccan Trap, Ấn Độ;
Idaho, Nhật; Djibouti, Đông Phi;
2. Thạch học môi trường chứa nước
Lượng bổ cập nước dưới đất phụ
thuộc nhiều vào điều kiện địa chất, địa
chất thủy văn của khu vực, nhất là thành
phần thạch học của môi trường chứa
nước. Thạch học của môi trường chứa
nước được phân thành i) các trầm tích
lòng sông và trầm tích trước núi gồm
đá, sỏi; ii) cát và đá cát; iii) đá vôi và
đá đô lô mít; iv) đá phấn; v) đá núi lửa.
Một vùng có thể có một hoặc nhiều
thành phần thạch học nêu trên. Trong
mỗi trường hợp, đặc điểm lượng bổ cập
nước dưới đất của mỗi thành tạo đá sẽ
được xác định riêng.
3. Các phương pháp xác định bổ
cập nước dưới đất
Nước mặt gồm nước mưa và nước
sông, hồ là các nguồn nước tự nhiên
chính bổ cập cho nước dưới đất hay còn
gọi là nguồn bổ cập tự nhiên cho nước
dưới đất. Bổ cập nhân tạo cho nước
dưới đất là nước dưới đất được bổ sung
trữ lượng dưới sự can thiệp của con
người hoặc các nguồn bổ sung có nguồn
gốc nhân tạo như sự rò rỉ từ hệ thống
đường ống cấp nước, rò rỉ từ hệ thống
thoát nước thải, hố ga, tưới cho nông
nghiệp,[4].
Tính toán bổ cập tự nhiên nước dưới
đất là công việc không thể thiếu khi tiến
hành điều tra đánh giá tài nguyên nước
dưới đất của một khu vực. Tuy nhiên
lựa chọn phương pháp xác định lượng
bổ cập tự nhiên nước dưới đất lại tương
đối khó khăn do lượng bổ cập nước dưới
đất phụ thuộc vào nhiều dữ liệu khác
nhau về điều kiện địa hình, địa mạo, độ
dốc, độ lỗ hổng, tính chất của đất đá, địa
chất, lượng mưa, nhiệt độ, độ bốc hơi,
sử dụng đất hiện có của khu vực nghiên
cứu,[2].
Các phương pháp ước lượng lượng
bổ cập nước dưới đất thể dựa vào:
- Đặc điểm địa chất thủy văn hay
môi trường chứa nước của khu vực (các
vùng có điều kiện tương tự về khí hậu
và địa chất với cùng lịch sử địa mạo):
môi trường địa chất chứa nước là trầm
tích cát và cát kết; là trầm tích lòng sông
và bồi tích sông hoặc núi lửa,[14];
- Đặc điểm về thủy văn của khu
vực: điều kiện khí quyển, nước mặt
(sông, hồ), vùng bão hòa và không bão
hòa [10];
Theo cách tiếp cận, các phương
pháp có thể được phân chia thành:
- Phương pháp trực tiếp như
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 19 - năm 2018 41
phương pháp thủy tiêu hóa (lysmeter)
hoặc phương pháp gián tiếp như phương
pháp cân bằng nước, phương pháp dao
động mực nước ngầm, phương pháp mô
hình số,;
- Phương pháp sử dụng nguyên
tố vết như phương pháp sử dụng chất
chỉ thị hóa học (Chemical Signatures),
phương pháp cân bằng nồng độ chất hòa
tan (Solute Balances), phương pháp sử
dụng kỹ thuật đồng vị;
- Phương pháp ứng dụng viễn thám
và hệ thống thông tin địa lý (GIS) như sử
dụng ảnh Landsat, MODIS, Sentinel,
và công cụ ArcGIS, MapInfo để xây
dựng các lớp bản đồ và cơ cơ dữ liệu
phục vụ tính toán.
3.1. Nhóm phương pháp thủy
động lực
3.1.1. Phương pháp sai phân hữu
hạn (G.N.Kamenxki, 1940)
Phương pháp này dự a trên cơ sở
nghiên cứu động thái mực nước ngầm
trong một nhóm các lỗ khoan để dự báo
mực nước dưới đất và giá trị cung cấp
của nước ngầm những thành phần tham
gia vào cân bằng nước trong khu cân
bằng bao gồm hiệu số lượng nước chảy
đến và chảy đi theo phương x - ∆Qx,
theo phương y - ∆Qy, giá trị cung cấp
hoặc bốc hơi từ bề mặt nước dưới đất:
± W∆Qx∆Qy. Sự thay đổi giá trị cung
cấp và thoát theo các phương đã dẫn đến
sự dâng cao hay hạ thấp mực nước dưới
đất và đi liền là sự thay đổi thể tích nước
trong phân tố nghiên cứu:
(1)
Trong đó : ∆x, ∆y là khoảng cách
giữa các lỗ khoan quan trắc trong sân
cân bằng theo phương x và y;
W là cường độ cung cấp của nước
mưa (hoặc bốc hơi) từ bề mặt nước dưới
đất trên một đơn vị diện tích.
μ là hệ số nhả nước trọng lực (khi
mực nước hạ thấp) hoặc hệ số thiếu hụt
bão hòa (khi mực nước dâng cao);
ΔH là biên độ dao động mực nước
ứng với khoảng thời gian Δt
Trong phương pháp sai phân hữu
hạn, không gian khu vực nghiên cứu
được phân ra thành nhiều ô. Trong mỗi
ô, các giá trị tham gia vào phương trình
được coi là không đổi. Bằng cách này,
người ta đưa phương trình đạo hàm về
một hệ phương trình tuyến tính với số
lượng các phương trình tương đương
với số các ô lưới được phân chia. Nếu
như bước lưới càng nhỏ thì kết quả thu
được từ lời giải sai phân càng gần đúng
với lời giải của phương trình đạo hàm
riêng phần và gần xấp xỉ với giá trị thực
tế. Kết quả H(x,y,z,t) sẽ là một lưới ô
chứa các giá trị h khác nhau.
3.1.2. Phương pháp tính lượng bổ
cập dao động mực nước tại lỗ khoan
quan trắc - Phương pháp Binđeman
Đây là phương pháp đánh giá gần
đúng lượng thấm của nước mưa trong
điề u kiệ n lỗ khoan quan trắ c đượ c bố trí
trong cá c vù ng phân thủ y đối với dòng
thấm không áp nằm ngang, giá trị thấm
trung bình năm:
(2)
(3)
Trong đó: W - Cường độ ngấm của
nước mưa cung cấp cho nước dưới đất
(mm/ngày)
∆H - Đại lượng dâng cao mực
nước trong thời gian t (mm)
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 19 - năm 201842
∆z - Đại lượng ngoại suy theo tốc
độ hạ thấp mực nước của thời kỳ liền
trước (mm)
t - Thời gian quan trắc (ngày)
Mn - Modul dòng chảy nước dưới
đất (l/s km2)
- Hệ số nhả nước của đất đá xác
định theo kết quả thí nghiệm thấm
2.1.3. Phương pháp theo lưu lượng
dòng ngầm bằng công thức của động
lực học nước dưới đất
Sử dụng định luật Darcy có thể xác
định được lượng bổ cập nước dưới đất
của một tầng chứa nước nếu như xác
định được độ cao cột nước và hệ số
thấm ở nguồn vào và nguồn ra của tầng
chứa nước. Lượng bổ cập của một tầng
chứa nước bão hòa nước được xác định
theo công thức sau [8]:
(4)
Trong đó: K(θ) là hệ số thấm
H là chiều cao cột nước tổng
h là chiều cao bề mặt mực nước ngầm
z là khoảng cách giữa hai điểm đo
chiều cao cột nước
Việc áp dụng luật của Darcy đòi
hỏi phải đo được hoặc ước lượng được
độ dốc thủy lực và độ dẫn nước không
bão hòa của môi trường chứa nước xung
quanh, thường được sử dụng trong môi
trường khô hạn hoặc bán khô hạn.
3.2. Nhóm phương pháp cân bằng
3.2.1. Phương pháp cân bằng
nước mặt
Phương pháp cân bằng nước
(Thornthwaite (1948)) xem lượng bổ
cập như là phần nước dư thừa của tất cả
dòng chảy đi và đến tầng chứa nước. Một
số phương pháp thường sử dụng để xác
định lượng nước dư thừa này như phương
pháp xác định độ ẩm đất, phương pháp
độ dâng mực nước ngầm, Phương
pháp cân bằng nước có thể được xác định
theo công thức sau [5]:
(5)
Trong đó: R
i
là lượng bổ cập (mm)
P là lượng mưa (mm)
E
a
là độ bốc thoát hơi nước hiện
tại (mm)
ΔW là thay đổi độ ẩm (mm)
R
n
là lượng mưa chảy tràn bề mặt
(mm)
Trên một lưu vực, khi tính toán bổ
cập nước dưới đất bằng phương pháp
cân bằng, cần xác định với các thông số
khác nhau về lượng mưa, độ bốc thoát
hơi nước, loại cây trồng và kiểu đất.
Trong phương pháp này, việc xác định
và hiểu chỉnh mô hình là tương đối khó
khăn do các tham số trong mô hình khó
đo trực tiếp ngoài hiện trường như độ
bốc thoát hơi nước, độ ẩm, tốc độ thấm.
3.2.2. Phương pháp cân bằng nồng
độ chất hòa tan
Một trong những phương pháp cân
bằng nồng độ chất hòa tan là phương
pháp cân bằng Clo (Chloride mass
balance). Phương pháp này sử dụng
hàm lượng Clo 36, 36Cl, trong nước
mưa khí quyển và trong nước dưới đất
để xây dựng các phương trình cân bằng
và tính toán lượng bổ cập nước. Wood
(1999) đã đưa ra phương trình cân bằng
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 19 - năm 2018 43
hàm lượng Clo trong nước mưa và nước
dưới đất như sau:
(6)
Trong đó: Ri là lượng bổ cập của
nước mưa cho nước dưới đất (mm/năm)
P là lượng mưa trung bình năm
(mm/năm)
Cl
r
là hàm lượng Clo trong nước
mưa (ppm)
Cl
gw
là hàm lượng Clo trong nước
ngầm (ppm)
Tuy nhiên, khi xác định lượng bổ
cập nước dưới đất bằng phương pháp
này cần lưu ý sự sai lệch nồng độ Clo
ở những nơi có lượng mưa lớn, xảy ra
trong thời gian dài. Vì ở những vùng
này, nồng độ Clo trong nước ngầm
thường rất cao và ảnh hưởng đến việc
xác định lượng bổ cập.
3.3. Phương pháp ứng dụng kỹ
thuật đồng vị
Các đồng vị và
thường được sử dụng trong các
nghiên cứu bổ cập nước dưới đất. Trong
đó các đồng vị mô phỏng
chính xác nhất sự di chuyển của nước
dưới đất vì chúng tạo thành một phần
của phân tử nước [6]. Phân tử nước có
công thức hóa học là H
2
O. Hydro có ba
đồng vị là proti , deuteri và triti .
Oxy có 3 đồng vị có ý nghĩa nghiên cứu
là . Về lý thuyết, có thể sử
dụng bất kỳ nguyên tố vết nào để xác
định lượng bổ cập, nhưng đồng vị bền
gồm D ( ), và đồng vị phóng xạ
thường được sử dụng hơn cả.
Đối với 3H thì mố i quan hệ giữ a
nồng độ (hoạ t độ ) đo được của triti tại
thời điểm t, C(t) với nồng độ ban đầu C
0
theo phương trình sau:
(7)
Trong đó: C(t) là hàm lượng triti tại
thời điểm t (TU)
C
0
là hàm lượng triti tại thời điểm
ban đầu (TU)
f(τ) là hàm phân bố thời gian lưu (năm)
τ là tuổi của nước (năm)
(8)
là hằng số phân rã phóng xạ
Tuy nhiên sử dụng kỹ thuật đồng
vị thường tốn kém và đòi hỏi phải có kỹ
thuật chuyên sâu. Đối với tritium, các
nghiên cứu định lượng rất khó đạt được vì
khó xác định cân bằng khối lượng tritium.
3.4. Phương pháp mô hình số
Mô hình hoá quá trình thấm và lan
truyền chất của nước dưới đất là phương
pháp thực nghiệm để giải các bài toán
động lực học và lan truyền nước dưới đất
bằng việc xác định lưu lượng dòng thấm
và sự phân bố áp lực trên toàn bộ miền
chuyển động của nước dưới đất, kể cả
trên ranh giới cũng như phân bố nồng độ
các chất hòa tan trong tầng chứa nước.
Bản chất mô hình toán là mô tả đông
thái mực nước, nồng độ các chất hòa tan
trong điều kiện môi trường không đồng
nhất và dị hướng với các điều kiện biên,
điều kiện ban đầu của tầng chứa nước
tạo thành một mô hình toán học về dòng
chảy nước dưới đất [3].
Các mô hình về vận chuyển dòng
chảy và ô nhiễm nước dưới đất đã và
đang được sử dụng rộng rãi trong các
nghiên cứu về các tầng chứa nước
dưới đất.
Một số mô hình được sử dụng
như mô hình một chiều, hai chiều, ba
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 19 - năm 201844
Trong đó:
Kxx, Kyy, Kzz là các hệ số thấm nước
theo phương x,y và z (phương đứng);
h là cốt cao mực nước tại vị trí
(x,y,z) ở thời điểm t
W là các giá trị bổ cập hay thoát
của nước dưới đất tại vị trí (x,y,z) ở thời
điểm t
W = W (x,y,z,t) là hàm số phụ thuộc
vào thời gian t và không gian (x,y,z).
SS là hệ số nhả nước;
SS = SS (x,y,z), Kxx = Kxx( x,y,z), Kyy
= Kyy (x,y,z), Kzz = Kzz (x,y,z) các hàm
phụ thuộc vào vị trí không gian x,y,z.
Giải phương trình trên bằng cách
xác định giá trị của h(x,y,z,t) thoả mãn
(9) và thoả mãn các điều kiện biên. Giá
trị độ cao mực nước h sẽ biến động
theo thời gian và đặc trưng cho tính
chất cũng như hướng của dòng chảy
và có thể sử dụng để dự báo động thái
nước dưới đất.
3.5. Phương pháp ứng dụng viễn
thám và hệ thống thông tin địa lý (GIS)
Phương pháp này không thể xác
định trực tiếp lượng bổ cập nước
dưới đất mà thông qua việc xác định
độ bốc thoát hơi nước từ lượng mưa,
chúng ta xác định được tổng lượng
dòng chảy hàng năm. Từ tổng lượng
nước chảy hàng năm, nếu xác định
được lưu lượng dòng chảy bề mặt, sẽ
xác định được dòng chảy cơ bản, nó
tương đương với lượng nước bổ sung
cho tầng chứa nước hàng năm. Nghiên
cứu viễn thám và GIS có thể xác định
được các thông số khí tượng thủy văn
như độ bốc thoát hơi nước, nhiệt độ,
lượng mưa, hay các thông số về môi
trường chứa nước tại khu vực nghiên
cứu như sử dụng đất, loại đất, độ dốc,
hệ thống đứt gãy, độ ẩm đất, Đây là
các thông số đầu vào của hầu hết các
mô hình được sử dụng để xác định bổ
cập nước dưới đất.
Sử dụng GIS thành lập bản đồ mực
nước dưới đất và chồng xếp các bản đồ
chuyên đề để xác định độ nhạy của các
yếu tố này đến bổ cập nước dưới đất.
GIS dựa trên đặc tính phân tích
không gian, lập bản đồ và viễn thám dựa
trên đặc tính phản xạ phổ của các đối
tượng cho phép
- Xác định tiềm năng của tầng chứa
nước dựa trên đặc điểm tự nhiên, đặc
điểm khí tượng thủy văn và đặc điểm
địa chất của khu vực
- Cấu trúc địa chất, địa hình địa
mạo của khu vực để xác định mối liên
hệ với hệ thống địa chất thủy văn
- Xác định và khoanh vùng bổ cập,
vùng thoát của tầng chứa nước
- Mối liên hệ giữa nước dưới đất và
các thành phần khác của khu vực (nước
mặt, thực vật, nguồn ô nhiễm,)
chiều của dòng chảy hoặc phương trình
Richard. Mô hình thủy lực, số hóa và
phân tích, xác định mối liên hệ giữa
thấm, mưa và bổ cập.
Phương pháp mô hình dòng nước
dưới đất coi toàn bộ sự biến thiên độ
cao mực nước dưới đất được mô tả bằng
một phương trình đạo hàm sau:
(9)
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 19 - năm 2018 45
Hình 1: Phương trì nh cân bằ ng nướ c khi không có và có lượ ng nướ c bổ sung nhân
tạ o tạ i mỗ i ô lướ i
Xác định lượng bổ cập tự nhiên cho