Phương thức huyền thoại hóa trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 về đề tài Chiến tranh

Tóm tắt. Trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 về chiến tranh, phương thức huyền thoại hóa được sử dụng qua nhân vật người kể chuyện, nhân vật hồn ma hoặc qua những điểm báo, những giấc mơ. Nhân vật người kể chuyện kì lạ giúp nhà văn thể hiện cái nhìn đa chiều về cuộc sống, về con người trong và sau chiến tranh. Còn nhân vật hồn ma, hay những điềm báo, những giấc mơ góp phần thể hiện sự khốc liệt của chiến tranh sự tàn phá khủng khiếp của nó với tâm hồn con người. Có thể nói, phương thức huyền thoại hóa đã góp phần không nhỏ vào việc cách tân tiểu thuyết Việt Nam về đề tài chiến tranh.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 183 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương thức huyền thoại hóa trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 về đề tài Chiến tranh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Science Sci., 2011, Vol. 56, No. 8, pp. 62-68 PHƯƠNG THỨC HUYỀN THOẠI HÓA TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975 VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH Nguyễn Thị Thanh Trường Cao đẳng Hải Dương E-mail: nguyenthithanh-cdhd@yahoo.com.vn Tóm tắt. Trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 về chiến tranh, phương thức huyền thoại hóa được sử dụng qua nhân vật người kể chuyện, nhân vật hồn ma hoặc qua những điểm báo, những giấc mơ. Nhân vật người kể chuyện kì lạ giúp nhà văn thể hiện cái nhìn đa chiều về cuộc sống, về con người trong và sau chiến tranh. Còn nhân vật hồn ma, hay những điềm báo, những giấc mơ góp phần thể hiện sự khốc liệt của chiến tranh sự tàn phá khủng khiếp của nó với tâm hồn con người. Có thể nói, phương thức huyền thoại hóa đã góp phần không nhỏ vào việc cách tân tiểu thuyết Việt Nam về đề tài chiến tranh. 1. Mở đầu Sau năm 1975, đặc biệt từ thời kì đổi mới, nằm trong mạch vận động chung của cả nền văn học, tiểu thuyết về chiến tranh đã có nhiều thay đổi và đạt được thành tựu đáng ghi nhận. Tuy không được sử dụng nhiều như ở các đề tài khác nhưng phương thức huyền thoại hóa vẫn là yếu tố nghệ thuật quan trọng góp phần đổi mới diện mạo tiểu thuyết chiến tranh Việt Nam. Chúng ta có thể thấy điều đó khi tìm hiểu về phương thức huyền thoại hóa trong các tác phẩm: Nỗi buồn chiến tranh (Thân phận của tình yêu) của Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Bến đò xưa lặng lẽ của Xuân Đức, Những bức tường lửa của Khuất Quang Thụy, Mùa hè giá buốt của Văn Lê. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái niệm huyền thoại Từ điển Tiếng Việt đưa ra định nghĩa: “Huyền thoại là câu chuyện huyền hoặc, kì lạ, hoàn toàn do tưởng tượng” [5;454]. Phùng Văn Tửu đã cắt nghĩa nội dung của huyền thoại “thường không rõ ràng vì bị che lấp phía sau những thứ linh tinh chẳng có liên quan gì đến bản thân nó” [8]. Trong Phương thức huyền thoại hoá và sự biểu hiện đời sống tâm linh trong văn xuôi Việt Nam từ sau 1975, Đỗ Thu Hương đã rút ra ba ý nghĩa cơ bản của phương thức huyền thoại hoá: 62 Phương thức huyền thoại hóa trong tiểu thuyết Việt Nam... 1) Huyền thoại hoá là phương thức nghệ thuật độc đáo: cái thực được diễn đạt qua cái ảo, cái bình thường được thể hiện bằng cái kì lạ, phi thường, mà qua đó nhà văn bộc lộ quan niệm về con người, về đời sống. 2) Nó được tạo ra nhờ trí tưởng tượng và được thể hiện bằng các yếu tố hoang đường, siêu nhiên, kì lạ. 3) Nó là sự phản ứng trước những trật tự gò bó, cũ kĩ, làm lộ ra khả năng hoài nghi đối với những gì mà lí trí kiểm soát được, chống lại chủ nghĩa duy ý chí, bệnh xơ cứng của lí trí thuần tuý [2]. Chúng tôi cho rằng đây là ý kiến giàu sức thuyết phục. 2.2. Đôi nét về huyền thoại hóa trong văn học Việt Nam Huyền thoại đã xuất hiện từ xa xưa trong sáng tác văn chương. Qua các thời kì phát triển, nó được nhìn nhận chủ yếu từ hai góc độ: thứ nhất là một kiểu tư duy, thứ hai là một thủ pháp nghệ thuật. Chẳng hạn, ở thần thoại, yếu tố huyền thoại gắn với tư duy cổ sơ, thể hiện khát vọng nhận thức thế giới của người xưa. Tới văn học viết trung đại, yếu tố huyền thoại được sử dụng đậm đặc nhất trong truyện truyền kì và huyền thoại hóa đã trở thành một phương thức nghệ thuật. Phương thức huyền thoại hóa cũng được sử dụng khá thành công trong nhiều tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại từ đầu thế kỉ XX đến 1945. Có thể kể tới một số truyện ngắn của Thế Lữ như Cái đầu lâu, Lưỡi tầm sét, Vàng và máu,. . . Trong Thơ Mới, yếu tố huyện thoại cũng được các thi sĩ như Thế Lữ, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử sử dụng đầy hiệu quả. Từ 1945 đến 1975, do yêu cầu “phản ánh chân thực và hùng hồn” cuộc chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân ta, yếu tố huyền thoại ít được các nhà văn Việt Nam sử dụng. Từ năm 1975 tới nay, đặc biệt là từ thời kì đổi mới, yếu tố huyền thoại đã góp phần làm nên giá trị cho nhiều tác phẩm văn học. Phương thức huyền thoại đã phát huy tác dụng trong việc khám phá những vùng hiện thực đa chiều. Nhờ huyền thoại, thực tại có thể biến thành cõi mộng ảo và bức tranh đời sống trở nên mới lạ, đa diện, đa nghĩa hơn. Nhiều khi, tác phẩm trình bày hiện thực bất khả tín lại tạo được hiệu quả nghệ thuật phong phú hơn một hiện thực quen thuộc. Đồng thời, nhờ yếu tố huyền thoại, bạn đọc có thể thả sức trôi dạt vào những miền phong phú của trí tưởng tượng phi thường mà nhà văn tạo ra để trải nghiệm những cảm xúc mới. Chính phương thức huyền thoại hóa đã làm nên thành công cho hàng loạt tác phẩm như Sự tích những ngày đẹp trời của Hòa Vang, Con gái thủy thần của Nguyễn Huy Thiệp, Sống mãi với cây xanh của Nguyễn Minh Châu, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái,... Nằm trong mạch vận động chung của cả nền văn học, tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 đã có nhiều thay đổi. Tuy không được sử dụng nhiều như ở các đề tài khác nhưng phương thức huyền thoại hóa là yếu tố nghệ thuật quan trọng góp phần đổi mới diện mạo tiểu thuyết chiến tranh Việt Nam. Vì chiến tranh xưa nay vẫn được xem như là một đề tài lịch sử, chất liệu của đề tài này được coi là xác thực, 63 Nguyễn Thị Thanh và quan trọng hơn, các tác phẩm thường đưa ra mục đích tái tạo hiện thực qua một tình huống lịch sử để phân biệt chính nghĩa – phi nghĩa nên người ta khó chấp nhận huyền thoại. Sau 1975, trong nhiều tác phẩm, chiến tranh không phải mục đích phản ánh mà là phương tiện, là “thi pháp” để khám phá con người, để triết lí về lịch sử, về cuộc sống. Và huyền thoại đã xuất hiện như một minh chứng cho sự đổi mới tư duy nghệ thuật của nhà văn. 2.3. Phương thức huyền thoại hóa trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 Qua việc khảo sát một số tiểu thuyết chiến tranh sau 1975, chúng tôi nhận thấy, phương thức huyền thoại hóa chủ yếu được thể hiện qua hai phương diện sau: 2.3.1. Một thế giới bị ám ảnh bởi những hồn ma chết trận Hồn ma là loại nhân vật khá quen thuộc trong văn học dân gian và văn học trung đại. Có nhiều kiểu nhân vật hồn ma: oan hồn, ma quấy nhiễu cuộc sống người trần thế, ma lấy người... Trong tín ngưỡng dân gian và trong văn học, ma quỷ là thế giới đầy bí ẩn, luôn đe dọa cuộc sống bình yên của con người. Giai đoạn 1945 - 1975, kiểu nhân vật hồn ma hầu như không xuất hiện trong văn học cách mạng. Song từ thời kì đổi mới, kiểu nhân vật này đã trở lại như một phương thức nghệ thuật, thể hiện sự tìm tòi và cách tân của một số nhà văn. Nhân vật hồn ma xuất hiện trong khá nhiều tiểu thuyết chiến tranh. Đó có thể là những anh bộ đội đã hy sinh vì Tổ quốc, là những người lính chết trận phía bên kia hay là người phụ nữ hậu phương. Tất cả hồn ma ấy đều hiền lành vô sự. Nhân vật kể chuyện của Bến đò xưa lặng lẽ là hồn ma liệt sĩ Khảm: “Thành người thiên cổ, không vướng bận thể xác, tôi có thể lặn vào bất cứ ngõ ngách kín đáo nào của bất kỳ một ai đó, để biết rành rọt họ đang toan tính những gì” [1]. Người kể chuyện “biết tuốt” này là một kiểu nhân vật siêu thực rất hiếm gặp trong tiểu thuyết chiến tranh. Khảm trở lại dương thế, đến phiên tòa đặc biệt với mong muốn kêu oan cho một người trong vụ án xử những kẻ bất lương, vì tiền mà dám “bấu xé, bứt ra, chia bo” khoảng một trăm bộ hài cốt liệt sĩ thành con số vài trăm. Từ phiên tòa đó, Khảm kể chuyện mình, chuyện người trong thời gian suốt bốn mươi năm (từ năm 1952 đến năm 1992). Vì đã trở thành ma, không còn bị ràng buộc bởi bất kì một “sinh mệnh chính trị nào” nên Khảm có vẻ dễ dàng hơn khi kể lại những hành động đáng chê trách đối với vợ con. Lỗi lầm lớn nhất của anh là sợ việc thăng tiến bị ảnh hưởng nên không dám công khai mối quan hệ với Lương và cũng không dám nhận con mình. Trước cải cách ruộng đất, cũng vì sợ ảnh hưởng tới “sinh mệnh chính trị” của mình mà Khảm - Lương đã không dám công khai nhận lại con gái khi Li và Đọt phải vượt sông đem bé Linh đến cho họ. Chính Khảm - Lương đã đẩy Li - Đọt đến cuộc hôn nhân vô cùng bất hạnh. Khảm, Lương, Li đã tự gây nên mối hận thù suốt hơn ba chục năm ròng giữa hai người bạn gái vốn vô cùng thân thiết Lương – Li. Vì là ma, có thể đi sâu vào ngõ ngách tâm hồn từng người, Khảm nhìn rõ tâm 64 Phương thức huyền thoại hóa trong tiểu thuyết Việt Nam... địa đen tối của Thuẫn, một kẻ “cướp người yêu, cướp chức vụ, địa vị” và cướp luôn cả cái biệt danh “gấu xám đường Chín” của Đọt. Anh còn nhìn rõ những góc khuất, u ám nhất trong tâm hồn hai người phụ nữ có liên quan mật thiết tới cuộc đời mình là Lương và Li. Bằng lời kể chuyện của hồn ma, Xuân Đức đã thể hiện một bầu không khí ngột ngạt vì hận thù và nghi kị, ghen ghét. Qua cái nhìn của Khảm, phần lớn nhân vật đều là những người bất toàn; trong tâm hồn họ có cả “rồng phượng lẫn rắn rết”, có cả “thiên thần và ác quỷ”. Thông qua hệ thống nhân vật ấy, phải chăng nhà văn muốn đem đến tư tưởng đối thoại với quan niệm về con người vẹn toàn, không tì vết trong văn học chiến tranh giai đoạn 1945 – 1975? Khi hồn ma liệt sĩ – một người trong cuộc nhưng không còn bị ràng buộc bởi bất kì “sinh mệnh chính trị nào” – trở thành nhân vật kể chuyện, việc tự thú và phơi bày những góc khuất trong tâm hồn người lính có phần thẳng thắn hơn, vì thế ý thức đối thoại cũng mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Với kiểu nhân vật kể chuyện huyền thoại, “không đáng tin cậy”, Xuân Đức đã công khai thừa nhận khả năng hư cấu về lịch sử. Như vậy, nhà văn đã viết về “chiến tranh như một thi pháp”. Trong một số tiểu thuyết chiến tranh, hồn ma thường xuất hiện ở nghĩa trang hoặc ở các khu rừng đã diễn ra những trận đánh ác liệt. Gặp gỡ với hồn ma thường là những người lính bị chấn thương tinh thần. Có lẽ do chấn thương tinh thần nên Kiên và đồng đội (Nỗi buồn chiến tranh) rất hay gặp ma. Khi còn chiến tranh, “nhiều người đã chính mắt nom thấy những toán lính da đen không đầu chơi trò rước đèn ở ven rừng” [6;16]. Khi hòa bình, Trần Sơn, lính lái xe chở hài cốt liệt sĩ còn kể rằng: “Mà nói chung ở cả cái B3 này đâu chả nhiều ma quỷ. Tôi lái cho đoàn gom xương nhặt cốt này từ hồi 73 tới giờ mà đã quen nổi với đám hành khách từ trong mồ hiện ra kia đâu. Chẳng đêm nào mà họ không lay mình dậy để chuyện gẫu. Phát khiếp lên được. Đủ loại. Lính cũ. Lính mới. Linh sư 10, sư 2, quân tỉnh đội, quân cơ động 320, đoàn 559. Thỉnh thoảng có các “mộng” tóc dài... Đôi khi chen vào vài anh ngụy” [6;44]. Kiên là người bị chấn thương nặng nề nhất nên hồi ức của anh hầu như chỉ là ấn tượng khủng khiếp về chiến trận tàn khốc với những trận “mưa cẳng chân, cẳng tay”, những cảnh “máu tới bụng chân, lội lõm bõm”, những con đom đóm to kinh dị, tiếng chim khóc than như tiếng người, măng mọc lên có màu đỏ như những tảng thịt ròng ròng máu, những âm thanh gào rú, ca hát trong các hang động tối om... Cũng vì vậy mà anh thường gặp phải các hồn ma trong những cơn mơ hãi hùng: “Và trống ngực nện thùm thùm, tôi nhìn chằm chằm vào các góc tối cầu thang nơi các hồn ma rách nát thường vẫn hiện hình, ôm theo những vết thương đỏ lòm, toác hoác” [6;51]. Còn gì đau hơn những sinh lực trẻ trung mà trở thành những hồn ma “rách nát”, vất vưởng ôm nỗi nhớ tiếc cõi trần! Trong Ăn mày dĩ vãng, Hai Hùng, người lính trinh sát bị chấn thương nặng nề, đã đối thoại với rất nhiều hồn ma khi đến một nghĩa trang liệt sĩ: “Cái bóng của Viên vượt lên, hơi thở ram ráp liếm vào tai tôi: “Anh quên em rồi sao anh Hai? Giá như đêm ấy anh đừng lệnh đi thì em đâu có chết! Em biết là sẽ chết nhưng không thể nói ra, không dám nói. Em sợ anh đánh giá em là bể bạt, là hèn nhát. Em chỉ 65 Nguyễn Thị Thanh còn cách dùng cái chết để biện minh...”. Bóng Viên biến mất, cái bóng của Bảo thay thế, cũng hơi thở ram ráp: “Sao lại chôn vội thế thủ trưởng ơi! Lúc ấy giá anh cứ cho rút bỏ cái chuôi đạn ác nghiệt ra khỏi bụng tôi, tất nhiên ruột gan sẽ theo ra cả đống nhưng biết đâu tôi chả có thể sống? Sao chôn vội thế? Sao ác thế?” (...) Một cái bóng khác, cái bóng khác nữa... Rồi lại một cái bóng... Xào xào, rin rít, khò khè” [3;58]. Trong Nỗi buồn chiến tranh và Ăn mày dĩ vãng, phương thức huyền thoại hóa vừa thể hiện được sự khốc liệt của chiến tranh, vì nó diễn tả những ấn tượng, những trải nghiệm đã trở thành ám ảnh, thành ảo giác nơi người lính, vừa giúp nhân vật tự đối thoại với góc khuất trong tâm hồn mình. Theo chúng tôi, dùng hồn ma để nói về chiến tranh khác nói bằng hiện thực ở chỗ: nỗi đau thì đau hơn, phê phán thì quyết liệt hơn, giá trị sống khi đã mất thì lớn hơn nên tiếc nuối hơn. Nhờ vậy, phương thức huyền thoại hóa đã góp phần gia tăng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo cho hai tác phẩm. Trong Mùa hè giá buốt, Văn Lê dùng hồn ma nhân vật Lụa (vợ tiểu đoàn trưởng Nguyễn Sĩ Việt) để nói về sự mong manh của hạnh phúc và thân phận con người. Nhận được tin vợ chết, sau hơn ba mươi giờ đồng hồ cuốc bộ liên tục, Việt về nhà đúng vào lúc gia đình đang tổ chức lễ cầu hồn cho Lụa. Mẹ Việt kể rằng: “Con Lụa thiêng lắm... Ngay đêm ấy, nó đã báo mộng cho mẹ. Thấy người nó ướt sũng, mẹ nhắc là phải vào buồng thay quần áo kẻo bị cảm lạnh. Nhưng nó cứ đứng nhìn mẹ mà không nói một lời nào. Một lúc sau đó, nó khóc, bảo rằng nó bị nạn ở sông Cái, hiện trôi dạt vào làng Thanh Giang. Nói xong, nó theo gió đi mất. Mẹ tỉnh dậy, hoảng hốt kêu người đi tìm. Đến gà gáy, thì vớt được xác nó dạt vào ngay bên gốc nhãn, cuối làng Thanh Giang” [4;217]. Đêm cuối cùng trước khi trả phép, Việt mơ thấy Lụa về nhà, cô đã nói với anh: “Sinh ra làm con gái thời buổi can qua thì phải thế thôi. Em phải lìa bỏ mình vì mệnh em mỏng, mình à. Mình cũng đừng dằn vặt đau khổ lâu dài về cái chết của em. Mình càng thương em, thì em càng khó siêu thoát. Mình phải cứng rắn lên mới được. Sau này, nếu mình có thương ai thì đừng thương vào thời tao loạn. Thương nhau thời buổi như vậy, làm chồng cũng đau, làm vợ cũng buồn” [4;222]. Những tâm sự ngậm ngùi giống như lời trăng trối đã gieo vào lòng người cảm giác tái tê, “giá buốt”, bởi nó nói đúng cảnh ngộ bao lứa đôi trong thời tao loạn. Nhân vật hồn ma đi vào tiểu thuyết về chiến tranh như một thủ pháp nghệ thuật. Nó mở rộng biên độ sáng tạo khi dùng thế giới ảo để phản chiếu thế giới thật, khi công khai thừa nhận tiểu thuyết là thế giới của hư cấu, tưởng tượng. Hồn ma bao giờ cũng tự do hơn người sống, nên khi xây dựng kiểu nhân vật này, nhà văn đã bộc lộ nhu cầu gỡ bỏ những cấm kị để được thể hiện kinh nghiệm của riêng mình. 2.3.2. Dùng cái nghịch dị, cái phi lí theo lối cường điệu để diễn tả những điềm gở và những giấc mơ hãi hùng Cái nghịch dị, cái phi lí trong tiểu thuyết chiến tranh được sử dụng qua yếu tố mộng ảo hư huyền, qua thế giới dị thường, trái tự nhiên. Một số nhà văn đã dùng 66 Phương thức huyền thoại hóa trong tiểu thuyết Việt Nam... cái nghịch dị, cái phi lí để thể hiện những điềm gở và những giấc mơ hãi hùng một cách ấn tượng. Điềm gở vốn không xa lạ với quan niệm dân gian. Ở các bộ tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc (Tam Quốc diễn nghĩa, Đông Chu liệt quốc...), những trận gió bất ngờ làm gẫy cán cờ của một đạo quân nào đó hay ác mộng của vua chúa, tướng lĩnh thường báo hiệu điềm gở. Trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975, một số tác giả sử dụng chi tiết giấc mơ hoặc hình ảnh báo hiệu điềm gở như sự trở lại với tư duy dân gian, không chút mặc cảm về “khoa học biện chứng” hay “mê tín dị đoan” như thời trước. Bao trùm Mùa hè giá buốt là bầu không khí rờn rợn ma quái. Tác phẩm mở đầu bằng tiếng cú cười, thêm vào đó là màu sắc kì lạ của vầng trăng, màu đen và những tiếng kêu ghê rợn của hàng ngàn con quạ như điềm báo trước tai họa. Đây là hồi ức của nhân vật Việt về một lần hành quân của tiểu đoàn bộ binh 505: “Tiểu đoàn khởi hành vào đúng đêm trăng úa vàng như mạ úng. Chưa bao giờ Việt nhìn thấy vầng trăng héo hắt, ảm đạm và quái gở như đêm ấy. Ba hồi vàng, ba hồi đỏ. Xanh. Rồi lại trắng bợt, bủng như da người chết. Mới đi được chừng hai tiếng đồng hồ, không biết trời xui đất khiến thế nào, đơn vị lại chui vào đúng rừng quạ. Có tới hàng ngàn con quạ từ trong những đám lá tăm tối hoảng loạn bay túa lên bầu trời như những ánh chớp đen. Rừng đêm xao xác tiếng quạ” [4;30]. Vầng trăng được miêu tả qua linh cảm của nhân vật theo lối cường điệu hóa cái nghịch dị (trăng đỏ - xanh – trắng). Ánh trăng ma quái kết hợp với hình ảnh “rừng quạ” làm cho ấn tượng rùng rợn về điềm gở tăng lên bội phần. Và kết cục bi thảm của trận đánh như là sự linh ứng của những điềm báo ấy. Những giấc mơ của nhân vật nhiều khi cũng là điềm gở. Có thể thấy giấc mơ của Can (Nỗi buồn chiến tranh) như là điềm báo cho cái chết khổ sở của nhân vật: “Dạo này, đêm nào tôi cũng mộng thấy mình chết và tôi bơi ra khỏi xác biến thành con ma cà rồng đi hút máu người” [6;22]. Đôi khi giấc mơ còn thể hiện sự linh thiêng kì lạ của người lính đã hi sinh. Đó là câu chuyện về liệt sĩ Hinh (Những bức tường lửa – Khuất Quang Thụy). Hinh hi sinh, đầu anh bị giặc bắn nát. Không đành lòng chôn người đồng đội như vậy, anh nuôi Cung đã dùng một quả dưa hầu đặt vào chỗ chiếc đầu bị mất. Khi Cung được giải ngũ, vừa về hôm trước thì hôm sau Thơm, vợ Hinh, đến nhà anh và nói: “Lần nào em cũng mơ thấy nhà em mình đầy máu... Nhưng lạ nhất là chưa lần nào em nhìn thấy mặt... Sau đó thì lại thấy toàn là dưa hấu, cứ tròn long lóc, lăn ầm ầm khắp nơi... Lạ nhất là đêm hôm qua... Em lại thấy nhà em về, lần này cũng không thấy mặt, trên đầu trùm một cái áo bộ đội, hai tay ôm một quả dưa hấu, em chỉ nghe tiếng anh ấy cười rồi bảo “Bác Cung cho đấy!” [7;763]. Kỳ lạ nhất là hôm ấy con gái Cung đi thủy lợi trên huyện về lại mua được một quả dưa. Anh bảo con đem rửa rồi để nguyên cả quả cúng Hinh. Anh khấn rằng: “Hinh ơi, nếu mày có linh thiêng thì từ nay hãy quên chuyện quả dưa hấu đi, đừng để vợ con mày nó hành tao về chuyện ấy nữa” [7;763]. Lời khấn ấy đã linh ứng: “Từ sau ngày hôm đó, vợ Hinh còn nằm mơ thấy chồng nhiều lần, nhưng không còn thấy có những quả dưa nữa” [7;764]. Câu chuyện huyền thoại viết theo lối cường điệu hóa cái phi lí làm cho 67 Nguyễn Thị Thanh nỗi đau về sự hi sinh, mất mát càng thêm xót xa, ám ảnh. 3. Kết luận Tuy không xuất hiện nhiều như trong tiểu thuyết về các đề tài khác nhưng phương thức huyền thoại hóa là một cách tân đáng ghi nhận của tiểu thuyết chiến tranh sau 1975. Về việc sử dụng nhân vật kể chuyện kì lạ, với Bến đò xưa lặng lẽ, Xuân Đức là nhà văn khá táo bạo. Còn dùng nhân vật hồn ma để diễn tả sự khủng khiếp của chiến tranh, ít có nhà văn Việt Nam hiện đại nào vượt qua Bảo Ninh (Nỗi buồn chiến tranh). Cũng có thể khẳng định, không nhiều người viết được những cảnh rùng rợn, ma quái, dự báo điềm gở hay như Văn Lê (Mùa hè giá buốt). Từ hiện thực ấy, chúng ta càng biết ơn những người đã xả thân cuộc sống hòa bình hôm nay. Hiệu quả của phương thức huyền thoại hóa trong tiểu thuyết chiến tranh góp phần khẳng định quy luật: dám vượt ra khỏi những vùng hiện thực quen thuộc, nhà văn tài năng sẽ sáng tạo được những tác phẩm văn chương đích thực. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Xuân Đức, 2008. Bến đò xưa lặng lẽ. Nguồn: xuanduc.vn. [2] Đỗ Thu Hương, 2001. Phương thức huyền thoại hóa và sự biểu hiện đời sống tâm linh trong văn xuôi Việt Nam từ sau 1975. Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội. [3] Chu Lai, 2004. Ăn mày dĩ vãng, (tái bản). Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. [4] Văn Lê, 2008. Mùa hè giá buốt. Nxb Văn hóa Sài Gòn. [5] Nhiều tác giả, 1997. Từ điển Tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng. [6] Bảo Ninh, 2005. Thân phận của tình yêu, (tái bản). Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. [7] Khuất Quang Thụy, 2007. Những bức tường lửa. Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. [8] Phùng Văn Tửu,1976. Vấn đề huyền thoại trong văn học nghệ thuật. Tạp chí Văn học, số 12. ABSTRACT Mode of mythology in Vietnamese novels on war themes after 1975 In Vietnamese novels about the War after 1975, the mode of mythology War used through tellers ghost characters and through the surveys of newspapers or through dreams. The stage tellers help the writer express the many-sided opinions of life, human beings during and after the War. And the ghost characters, the surveys of newspapers dreams express the severity of the war and i