1. Đặt vấn đề
Yếu tố cốt lõi của các sự
kiện từ vựng chính là nghĩa -
nghĩa trong hệ thống và nghĩa
trong hành chức. Chính vì
vậy, trong nghiên cứu, giảng
dạy và học tập từ vựng nói
riêng, Ngữ văn nói chung, bao
giờ người ta cũng quan tâm
đến nghĩa của từ trong hành
chức, đó chính là quan điểm
hệ thống động. Có thể tóm
tắt như sau về quan điểm hệ
thống động:
Đơn vị từ vựng có nghĩa
trong hệ thống hoạt động
theo những qui tắc nhất định.
Cũng theo những qui tắc nhất
định, cái nghĩa trong hệ thống
đó sẽ chuyển hóa thành nghĩa
trong hành chức. Nhưng, khi
hành chức kết thúc thì nghĩa
Quan điểm hệ thống động trong dạy học
trong hành chức sẽ trở về với
nghĩa trong hệ thống. Tuy
vậy, những biến đổi của nghĩa
trong hành chức có thể tích lũy
lại dần dần, cố định hóa tạo
thành những nghĩa mới cho
đơn vị từ vựng.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 331 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan điểm hệ thống động trong dạy học Ngữ văn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN6
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G
1. Đặt vấn đề
Yếu tố cốt lõi của các sự
kiện từ vựng chính là nghĩa -
nghĩa trong hệ thống và nghĩa
trong hành chức. Chính vì
vậy, trong nghiên cứu, giảng
dạy và học tập từ vựng nói
riêng, Ngữ văn nói chung, bao
giờ người ta cũng quan tâm
đến nghĩa của từ trong hành
chức, đó chính là quan điểm
hệ thống động. Có thể tóm
tắt như sau về quan điểm hệ
thống động:
Đơn vị từ vựng có nghĩa
trong hệ thống hoạt động
theo những qui tắc nhất định.
Cũng theo những qui tắc nhất
định, cái nghĩa trong hệ thống
đó sẽ chuyển hóa thành nghĩa
trong hành chức. Nhưng, khi
hành chức kết thúc thì nghĩa
Quan điểm hệ thống động trong dạy học
trong hành chức sẽ trở về với
nghĩa trong hệ thống. Tuy
vậy, những biến đổi của nghĩa
trong hành chức có thể tích lũy
lại dần dần, cố định hóa tạo
thành những nghĩa mới cho
đơn vị từ vựng.
2. Nội dung
Một điều đã được thừa
nhận trong nghiên cứu ngôn
ngữ học hiện đại là, mọi ngôn
ngữ đều tồn tại ở hai trạng
thái: trạng thái tĩnh và trạng
thái động. Ở trạng thái tĩnh, tất
cả các đơn vị ngôn ngữ xác lập
hệ thống ngôn ngữ với nhiều
cấp độ lớn nhỏ khác nhau
và luôn nằm trong các mối
quan hệ tương tác, qui định
lẫn nhau. Ở trạng thái động,
ngôn ngữ được sử dụng vào
các hoạt động nhận thức, tư
duy, giao tiếp của con người.
Khi phân tích nghĩa của
từ trong hành chức, chúng ta
cần thiết phải “tạm thời cô lập
hóa hai bình diện ngôn ngữ và
lời nói để xem xét nghĩa của từ
trong ngôn ngữ như một hệ
thống tĩnh” [3, 182], còn khi đi
vào ngôn bản, từ sẽ có những
biến đổi về nghĩa mà phải đặt
nó trong ngữ cảnh mới hiểu
đúng nghĩa và chức năng của
nó. Nghĩa là, việc nhận diện,
xác định nghĩa không bắt đầu
từ trạng thái tĩnh mà phải xem
xét trong quá trình, trong sự
xuất hiện, vận dụng, biến đổi
và phát triển trong hệ thống
động, trong hành chức của nó.
Nói cụ thể hơn, “Khi từ đi vào
hoạt động ngôn ngữ, nghĩa
của nó được hiện thực hoá,
ThS. NGUYỄN THỊ MỸ VÂN
Trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai
Bài viết phân tích cơ sở và vai trò của việc vận dụng quan điểm hệ thống
động - một quan điểm dạy học tích cực, gắn với giao tiếp - trong dạy học Ngữ
văn. Từ đó, góp thêm một vài kinh nghiệm nhỏ trong việc lĩnh hội, phân tích
và đánh giá từ ngữ trong hoạt động giao tiếp nói riêng và trong dạy học Ngữ
văn nói chung.
Từ khóa: hệ thống động, dạy học, Ngữ văn
Ngữ văn
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 7
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
18
cụ thể hoá và được xác định.
Lúc đó, các thành phần nghĩa
trong cơ cấu nghĩa của từ sẽ
giảm dần tính trừu tượng và
khái quát đến mức tổi thiểu
để đạt tới tính xác định, tính
cụ thể ở mức tối đa” [3, 182].
Ví dụ, từ “đi” trong tiếng Việt,
với tư cách là đơn vị của ngôn
ngữ, và với tư cách là động
từ, thì “ đi” có 18 nghĩa khác
nhau (theo Từ điển tiếng Việt.
H. 1997, Hoàng Phê chủ biên).
Các nghĩa của từ “đi” đó được
xây dựng một cách khái quát,
và khi tìm hiểu nghĩa của từ
“đi” với tư cách là từ từ điển,
người ta cũng hiểu một cách
khái quát như trong từ điển
đã giải thích. Chỉ khi nào đi
vào từng phát ngôn cụ thể
như: “Ngày mai tôi đi Hà Nội”
(tự di chuyển đến nơi khác,
không kể bằng cách gì), “Hôm
nay tôi đi trực” (di chuyển đến
chỗ khác, nơi khác để làm một
công việc, một nhiệm vụ nào
đó), “Độ này chị ấy gầy rộc đi”
(biểu thị kết quả của một quá
trình giảm sút, suy giảm), “Cơn
đau có dịu đi dần dần” (bay,
phai, biến mất một cách dần
dần),... thì một trong 18 nghĩa
của từ “đi” mới được hiểu theo
hướng cụ thể hoá và xác định.
Chính vì không bị ràng buộc
vào một hoặc một phạm vi
sự vật nào đó nên các đơn vị
từ ngữ mới có khả năng hoạt
động rộng rãi và có tính khái
quát cao, và nhờ đó, khi hành
chức - tức khi đi vào hoạt động
trong văn bản, từ mới trở nên
cụ thể và xác định.
Xét ở khía cạnh khác,
“cũng trong hoạt động ngôn
ngữ, cùng với sự giảm đi đến
mức thấp nhất tính khái quát
thì từ lại có thể được gia tăng
những sắc thái mới, nội dung
mới do chính sự vật mà nó biểu
thị đem lại” [3, 183]. Chẳng
hạn, có thể xét các từ sấm,
hàng cây, đứng tuổi trong hai
câu thơ: “Sấm cũng bớt bất
ngờ/Trên hàng cây đứng tuổi”
(Hữu Thỉnh). Ở đây, các từ sấm,
hàng cây, đứng tuổi không chỉ
đơn thuần mang các nội dung
ngữ nghĩa vốn có của chúng,
mà chúng có những sắc thái
bổ sung, khiến cho những từ
này mang những sắc thái mới
- chỉ trong những bối cảnh sử
dụng cụ thể như thế này mới
có được. Lúc này, các biểu vật
“sấm”, “hàng cây”, “đứng tuổi”
không phải chỉ đơn giản là
sấm, là hàng cây... như được
giải thích trong từ điển. Hoặc
các từ “sóng”, “đè” trong khổ
thơ sau cũng không chỉ đơn
thuần mang nội dung ngữ
nghĩa vốn có của chúng:
Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn
từ biển
Mẹ Âu Cơ hẳn không thể
yên lòng
Sóng lớp lớp đè lên thềm
lục địa
Trong hồn người có ngọn
sóng nào không?
( Tổ quốc nhìn từ biển -
Nguyễn Việt Chiến)
C h í n h t r o n g n h ữ n g
trường hợp như thế, người
ta cần thiết hướng đến cái
gọi là nghĩa ngữ cảnh. Và các
phép ẩn dụ, hoán dụ tu từ học
cũng được hình thành trên cơ
sở đó. Ví dụ: trong câu ca dao:
“Cầu này cầu ái cầu ân/Một
trăm cô gái rửa chân cầu này”
thì số từ “một trăm” đã không
còn mang nghĩa là một con
số cụ thể, xác định, mà chỉ
được hiểu là “nhiều” và chỉ
được nhận thức với ý nghĩa
đó mà thôi. Tương tự như vậy,
từ “thập” (với nghĩa là “mười”)
trong cụm từ “lẩu thập cẩm”
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN8
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G cũng không còn mang nghĩa
là “mười” mà đã chuyển nghĩa
thành “nhiều”.
Nghĩa là, khi xét nghĩa
của từ trong hành chức, và
tiếp nhận nghĩa của từ trong
văn bản, nhất là văn bản nghệ
thuật, nhiều khi chúng ta phải
chú ý đến nghĩa ngữ cảnh,
nghĩa lâm thời nhiều hơn là
nghĩa từ điển của chúng.
Bên cạnh đó, trong ngôn
ngữ văn chương, rất nhiều khi
tác giả sử dụng các ẩn dụ ý
niệm. Để xác định nghĩa phái
sinh, nghĩa chuyển, nghĩa lâm
thời của từ trong tác phẩm,
cần dựa vào mối quan hệ với
nghĩa gốc, để phát hiện ra nét
nghĩa cốt lõi mà từ đã duy trì
khi đã phát triển nghĩa. Ví dụ,
từ “nắng” nhiều khi được nhà
thơ ý niệm hóa như những
vật thể, có hình hài như lúm
đồng tiền, sợi chỉ thêu, tấm
thảm, giọt mật vàng, hay được
hình dung như hạt (nắng),
sóng (nắng), thậm chí như
dòng nước lũ (“Nắng dâng
làm lụt cả trưa hè” - Nguyễn
Bính), như thiếu nữ đương
xuân... cho nên có thể khiêng
(nắng), gom (nắng), rải (nắng),
rây rắc (nắng) và nắng cũng
có thể trở mình, nhảy nhót,
ngân vang, rung, chuốt nhọn
mũi gai hoặc có thể lảo đảo và
cựa mình...Chẳng hạn, nhà thơ
nữ Phan Huyền Thư đã viết:
“Nắng lảo đảo/mái hiên say
nghiêng ngả”, còn Lê Đạt thì:
“Hè thon cong thân nắng
cựa mình”. Nghĩa là, nắng
đã được ý niệm hóa thành
người: Nắng cũng say, cũng
uể oải, cũng có khi rạo rực mê
say,... Nắng cũng làm duyên và
gợi cảm trong dáng vẻ “cong
thân”, “cựa mình” yểu điệu và
mời gọi. Độc đáo và bất ngờ
hơn, nhà thơ Vi Thùy Linh còn
kết hợp bầy với nắng: “Nhảy
lò cò bầy nắng/Căng dây mưa
lảnh lót”. Nhà thơ đã quan sát
bằng cả tâm hồn - nhìn sâu
trong thảm nắng vàng - để
mà lọc lấy và thấy từng phần
tử nắng như bầy trẻ hiếu động,
hồn nhiên, ùa nhau xuống mặt
đất, đầy sức sống, niềm vui.
Phải thật sự yêu thiên nhiên,
yêu lắm cuộc đời này và phải
có được những rung cảm rất
tinh tế cùng với khả năng ý
niệm hóa cực kì phong phú,
nhà thơ mới có thể có một kết
hợp đẹp và lạ như vậy về nắng.
Từ những phân tích trên
đây, có thể thêm một lần
khẳng định rằng, chỉ xem xét
nghĩa của từ theo quan điểm
hệ thống động mới thấy được
những tầng nghĩa mới, bao
gồm cả sắc thái mới của nó
trong ngôn bản. Từ đó, người
học sẽ bị thuyết phục bởi sự
giàu đẹp của tiếng Việt, để yêu
hơn tiếng mẹ đẻ, đồng thời
khơi gợi ở người học ý thức
và thói quen rèn giũa năng lực
dùng từ trong giao tiếp cũng
như trong tạo lập văn bản.
3. Kết luận
Khi dạy và học Ngữ văn,
phải dựa vào nghĩa trong hệ
thống mà lí giải nghĩa trong
hành chức, tức nghĩa trong
văn bản, trong lời nói của các
đơn vị từ vựng. Đồng thời với
đó là việc cần thiết phải đặt
từ trong hoạt động ngôn ngữ
của chúng, tức trong hệ thống
động, mới nhìn thấy hết sự
phong phú, đa dạng và sự tinh
tế của ngôn ngữ dân tộc. Đây
cũng chính là con đường lí giải
cái hay, cái đẹp của từ trong
lời nói, trong văn bản văn học.
Vận dụng quan điểm hệ
thống động trong dạy học
Ngữ văn ở các cấp học sẽ giúp
người dạy và học phát hiện ra
nhiều điều mới mẻ cũng như
hiểu và cảm giá trị, ý nghĩa
của từ trong hành chức một
cách thuyết phục. Không chỉ
vậy, trong dạy học tiếng Việt
nói riêng, việc vận dụng quan
điểm hệ thống động chính là
hướng đến việc dạy học tiếng
Việt theo quan điểm giao
tiếp./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Phan Cảnh (2006),
Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn học.
2. Đỗ Hữu Châu (2003), Cơ sở
ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp.
3. Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức
Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, Cơ sở
ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo
dục, H., 1997, trang 182-187.
4. Nguyễn Đức Dân (1996),
Logic và tiếng Việt, Nxb Giáo Dục.
5. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng
Việt - Văn Việt - Người Việt, Nxb Trẻ
thành phố Hồ Chí Minh.
6. Chu Văn Sơn (2007), Thơ,
điệu hồn và cấu trúc, Nxb Giáo dục.
7. Bùi Minh Toán (1999), Từ
trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt,
Nxb giáo dục.
8. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc
trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ
và tư duy, Nxb Từ điển bách khoa.
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 9
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
18
Kiểm tra đánh giá quá trình theo hướng
1. Đặt vấn đề
Kiểm tra đánh giá là hai
công việc được tiến hành
theo trình tự nhất định hoặc
đan xen lẫn nhau nhằm khảo
sát, xem xét về cả định lượng
và định tính kết quả học tập,
đánh giá mức độ chiếm lĩnh
nội dung học vấn của học sinh.
Kiểm tra đánh giá có ý nghĩa
to lớn đối với học sinh, giáo
viên và các nhà quản lí giáo
dục. Vì vậy, kiểm tra đánh giá
kiến thức, kỹ năng vận dụng là
một khâu quan trọng không
thể tách rời trong hoạt động
dạy học ở nhà trường, là một
bộ phận hợp thành không thể
thiếu trong quá trình giáo dục.
Đổi mới phương pháp dạy
học và đổi mới kiểm tra đánh
giá là hai mặt thống nhất hữu
cơ của quá trình dạy học, trong
đó đổi mới kiểm tra đánh giá
chính là động lực để thúc đẩy
đổi mới phương pháp dạy học.
Đổi mới phương pháp dạy học
phải dựa trên kết quả đổi mới
kiểm tra đánh giá và ngược lại
ThS. NGUYỄN THỊ ÁNH NGỌC
Trường CĐSP Gia Lai
đổi mới kiểm tra đánh giá chỉ
phát huy hiệu quả cuối cùng
khi thông qua đổi mới phương
pháp dạy học. Vì vậy, nghiên
cứu về thực trạng và đề xuất
những giải pháp trong kiểm
tra đánh giá học sinh hiện nay
ở trường phổ thông là một
trong những biện pháp góp
phần vào việc đổi mới phương
pháp dạy học, từ đó góp phần
nâng cao hiệu quả dạy học ở
trường phổ thông hiện nay.
Một trong những hướng
đổi mới kiểm tra đánh giá kết
quả học tập của học sinh theo
hướng phát triển năng lực đó
là chuyển từ chủ yếu đánh
giá kết quả học tập cuối môn
học, khóa học (đánh giá tổng
kết) nhằm mục đích xếp hạng,
phân loại sang sử dụng các
loại hình thức đánh giá thường
xuyên, đánh giá định kì theo
từng chủ đề, từng chương
nhằm mục đích phản hồi, điều
chỉnh quá trình dạy học (đánh
giá quá trình). Trong kiểm tra
đánh giá học sinh phải chú ý
đến cả quá trình học tập. Đánh
giá theo hướng phát triển
năng lực không chỉ giới hạn
vào khả năng tái hiện tri thức
mà chú trọng cả khả năng vận
phát triển năng lực học sinh
trong dạy học Lịch sử ở trường Trung học phổ thông
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN10
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G dụng tri thức trong việc giải
quyết các nhiệm vụ phức hợp.
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Mối quan hệ giữa
kiểm tra, đánh giá với phát
triển năng lực học sinh trong
dạy học Lịch sử ở trường THPT
Năng lực và kiến thức, kĩ
năng, thái độ có mối quan hệ
với nhau. Một năng lực là tổ
hợp đo lường được các kiến
thức, kĩ năng và thái độ mà
một người cần vận dụng để
thực hiện một nhiệm vụ trong
một bối cảnh thực và có nhiều
biến động. Để thực hiện một
nhiệm vụ, một công việc có
thể đòi hỏi nhiều năng lực
khác nhau. Vì năng lực được
thể hiện thông qua việc thực
hiện nhiệm vụ nên người học
cần chuyển hóa những kiến
thức, kĩ năng, thái độ có được
vào giải quyết những tình
huống mới và xảy ra trong môi
trường mới.
Trong quá trình dạy học,
để nắm được những thông tin
về kiến thức, kĩ năng và thái độ
của người học đạt được sau
một quá trình học tập, giáo
viên phải tiến hành kiểm tra,
đánh giá để thu thập được
thông tin về kết quả học tập
của học sinh. Vì vậy, kiểm tra
đánh giá và việc phát triển
năng lực học sinh có mối quan
hệ mật thiết, tác động qua lại
lẫn nhau. Kiểm tra đánh giá
“có tác dụng lớn trong việc phát
triển toàn diện học sinh như: các
năng lực nhận thức (nhớ, hình
dung, tưởng tượng và tư duy),
trong đó đặc biệt là các thao
trình đó sẽ nhắm đến mục
tiêu xa hơn, đó là nuôi dưỡng
hứng thú học đường, tạo sự
tự giác trong học tập và quan
trọng hơn là gieo vào lòng học
sinh sự tự tin, niềm tin người
khác làm được mình cũng làm
được. Điều này vô cùng quan
trọng để tạo ra mã số thành
công của mỗi học sinh trong
tương lai.
2.2. Kiểm tra đánh giá
quá trình theo hướng phát
triển năng lực học sinh
Đánh giá quá trình “là loại
đánh giá được thực hiện thường
xuyên, liên tục trong suốt quá
trình dạy học, bao gồm kiểm tra
miệng, kiểm tra viết dưới 1 tiết,
kiểm tra thực hành dưới 1 tiết,
quan sát hoạt động học tập của
học sinh thông qua các bài học
kiến thức mới, bài thực hành,
bài ôn tập, sơ kết, tổng kết, qua
tự học ở nhà” [1; 69].
Mục đích chính của kiểm
tra đánh giá quá trình nhằm
sử dụng kiểm tra đánh giá
như là một phương pháp dạy
học tích cực, qua đó, giáo viên
biết rõ hơn về những gì học
sinh đang học và học như thế
nào. Đồng thời, là cơ sở để
giáo viên điều chỉnh việc dạy
học của mình. Đánh giá quá
trình cung cấp những thông
tin phản hồi về hoạt động học
tập của người học và không
nhất thiết được sử dụng cho
mục đích xếp hạng, phân loại.
“Mối quan tâm của đánh giá
quá trình là hiệu quả của hoạt
động giảng dạy trong việc phát
triển khả năng của người học,
chứ không phải là việc chứng
tác tư duy (phân tích, so sánh,
tổng hợp...) và chất lượng của tư
duy (nhanh, sâu, độc lập, sáng
tạo...)”. [3; 105].
Mỗi cá nhân để thành
công trong học tập, thành đạt
trong cuộc sống phải sở hữu
nhiều loại năng lực khác nhau.
Trong quá trình kiểm tra, đánh
giá kết quả học tập của học
sinh, giáo viên sử dụng nhiều
loại hình, công cụ khác nhau
để kiểm tra, đánh giá được
các loại năng lực khác nhau
của người học, qua đó có tác
dụng kịp thời phản hồi, điều
chỉnh hoạt động dạy học và
giáo dục.
Đào tạo theo hướng phát
triển năng lực người học đã
và đang trở thành một xu
thế tất yếu và phổ quát trong
nền giáo dục trên thế giới.
Xu hướng chung của chương
trình hiện đại là chuyển từ “tập
trung vào kiến thức” sang tập
trung vào năng lực. Chiến lược
đổi mới căn bản toàn diện hệ
thống giáo dục phổ thông
hiện nay của Bộ Giáo dục và
Đào tạo chọn đổi mới kiểm
tra đánh giá là khâu đột phá
nhằm thúc đẩy các quá trình
khác như đổi mới phương
pháp dạy học, đổi mới cách
thức tổ chức hoạt động dạy
học, đổi mới quản lí...Nếu thực
hiện được việc kiểm tra đánh
giá theo hướng vì sự tiến bộ
của người học, như là quá
trình thúc đẩy phát triển học
tập bền vững, giúp phát triển
năng lực người học thì lúc đó
quá trình dạy học sẽ trở nên
tích cực hơn rất nhiều. Quá
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 11
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
18minh học sinh đã đạt được mức
độ thành tích nào đó” [8; 28].
Trong đánh giá quá trình, việc
thu thập thông tin hoặc dữ
liệu về hoạt động học tập của
người học trong lớp được sử
dụng để cải thiện hoạt động
dạy và hoạt động học. Đánh
giá quá trình không nhằm
mục đích đưa ra kết luận về
kết quả giáo dục cuối cùng của
từng học sinh mà tập trung
vào việc tìm ra những nhân tố
tác động đến kết quả giáo dục
của học sinh để có những giải
pháp kịp thời, đúng lúc, giúp
cải thiện, nâng cao chất lượng
dạy học. Đánh giá quá trình
còn giúp chẩn đoán hoặc đo
kiến thức và kĩ năng hiện tại
của học sinh nhằm xác định
một chương trình học tương
lai cho phù hợp.
Đánh giá quá trình cung
cấp thông tin phản hồi cho
người học về mức độ nắm
vững thông tin của họ, đồng
thời giúp giáo viên thiết kế
phương pháp giảng dạy phù
hợp hơn. Việc đánh giá trở
nên ý nghĩa hơn khi người học
cùng tham gia đánh giá chính
bản thân mình. “Khi người học
đảm nhận vai trò tích cực trong
việc xây dựng tiêu chí chấm
điểm, tự đánh giá, đề ra mục
tiêu, điều đó cũng có nghĩa là
người học sẵn sàng chấp nhận
cách thức đã được xây dựng để
đánh giá khả năng học tập của
họ” [8; 29].
Có nhiều hình thức kiểm
tra đánh giá quá trình. Giáo
viên có thể thực hiện qua hình
thức kiểm tra vấn đáp nhanh
trên lớp hoặc có thể vận dụng
các kĩ thuật kiểm tra đánh giá
khác như:
- Quan sát: Quan sát thái
độ, hành vi, mức độ hoàn
thành các công việc được giao.
- Kết hợp quan sát các
hoạt động học tập trong tiết
học: Trả lời câu hỏi, hoàn thành
bài tập, hoạt động nhóm, giải
quyết vấn đề...
- Các câu hỏi kiểm tra
nhanh vào đầu giờ, cuối giờ
và giữa giờ: Trả lời nhanh các
câu hỏi, phiếu trắc nghiệm
hoặc điền nhanh thông tin vào
phiếu thăm dò.
Khi đánh giá quá trình,
cần tuân theo một số yêu cầu:
+ Định hướng cho học
sinh về năng lực mà giáo viên
mong muốn học sinh sẽ hình
thành được.
+ Phương pháp đánh giá
và hình thức đánh giá phải
phù hợp với nội dung học
tập, mục tiêu của quá trình
dạy học, năng lực và mức độ
cần đạt được, phương pháp
dạy học.
+ Kết quả đánh giá được
thông báo kịp thời, chính xác,
đúng đối tượng.
Tác giả Nguyễn Công
Khanh đưa ra triết lí “kiểm
tra đánh giá vì sự tiến bộ của
người học”. Theo tác giả, kiểm
tra đánh giá vì sự tiến bộ của
người học nghĩa là cung cấp
những thông tin phản hồi
giúp học sinh biết mình tiến
bộ đến đâu, những mảng kiến
thức, kỹ năng nào có sự tiến
bộ, mảng kiến thức, kỹ năng
nào còn yếu để điều chỉnh quá
trình dạy và học. Và khi nói đến
đánh giá là vì sự tiến bộ của
học sinh thì đánh giá phải làm
sao để học sinh không sợ hãi,
không bị thương tổn để thúc
đẩy học sinh nỗ lực. Đánh giá
vì sự tiến bộ của học sinh còn
có nghĩa là sự đánh giá phải
diễn ra trong suốt quá trình
dạy - học, giúp học sinh so
sánh phát hiện mình thay đổi
thế nào trên con đường đạt
mục tiêu học tập của cá nhân
đã đặt ra. Thứ hai, cần nhận
thức rằng đánh giá là một quá
trình học tập, đánh giá diễn
ra trong suốt quá trình dạy và
học. Không chỉ giáo viên biết
cách thức, các kỹ thuật đánh
giá học sinh mà quan trọng
không kém là học sinh phải
học được cách đánh giá của
giáo viên, phải biết đánh giá
lẫn nhau và biết tự đánh giá
kết quả học tập rèn luyện của
chính mình. Có như vậy, học
sinh mới tự phản hồi với bản
thân xem kết quả học tập,
rèn luyện của mình đạt mức
nào/đến đâu so với yêu cầu,
tốt hay chưa tốt như thế nào.
Với cách hiểu đánh giá ấy mới
giúp hình thành năng lực của
học sinh, cái mà chúng ta đang
rất mong muốn. Thứ ba, đánh
giá phải lượng giá chính xác,
khách quan kết quả học tập,
chỉ ra được học