Quan hệ ngoại giao của chính quyền Campuchia dân chủ (1975-1979) với một số quốc gia trong khu vực

TÓM TẮT Chính quyền Campuchia Dân chủ được thành lập và tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn (1975- 1979). Tuy nhiên, chính quyền này đã thi hành những chính sách đối nội, đối ngoại theo hướng diệt chủng. Trong đó, quan hệ ngoại giao của chính quyền Campuchia Dân chủ đối với một số quốc gia trong khu vực như Việt Nam, Thái Lan, Lào cũng theo hướng chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Tập đoàn Khmer Đỏ đã có những hành động kỳ thị, khiêu khích, xâm lược biên giới. Từ đó, gây ra những hệ lụy đau thương cho người dân vô tội ở biên giới các quốc gia này. Đồng thời, chính sách đối ngoại thù địch với các nước láng giềng càng đẩy Campuchia dân chủ vào thế cô lập, dẫn đến phong trào đấu tranh tất yếu nổ ra, nhằm lật đổ nhà nước phản động này.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 456 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan hệ ngoại giao của chính quyền Campuchia dân chủ (1975-1979) với một số quốc gia trong khu vực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 70 (04/2020) No. 70 (04/2020) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: 59 QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA CHÍNH QUYỀN CAMPUCHIA DÂN CHỦ (1975-1979) VỚI MỘT SỐ QUỐC GIA TRONG KHU VỰC Diplomatic relations of democratic Kampuchea (1975-1979) with regional neighbors ThS.NCS. Phạm Thị Huệ(1), ThS.NCS. Trần Hùng Minh Phương(2) (1),(2) Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM TÓM TẮT Chính quyền Campuchia Dân chủ được thành lập và tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn (1975- 1979). Tuy nhiên, chính quyền này đã thi hành những chính sách đối nội, đối ngoại theo hướng diệt chủng. Trong đó, quan hệ ngoại giao của chính quyền Campuchia Dân chủ đối với một số quốc gia trong khu vực như Việt Nam, Thái Lan, Lào cũng theo hướng chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Tập đoàn Khmer Đỏ đã có những hành động kỳ thị, khiêu khích, xâm lược biên giới. Từ đó, gây ra những hệ lụy đau thương cho người dân vô tội ở biên giới các quốc gia này. Đồng thời, chính sách đối ngoại thù địch với các nước láng giềng càng đẩy Campuchia dân chủ vào thế cô lập, dẫn đến phong trào đấu tranh tất yếu nổ ra, nhằm lật đổ nhà nước phản động này. Từ khóa: Campuchia Dân chủ, Khmer Đỏ, quan hệ ngoại giao ABSTRACT Democratic Kampuchea was established and existed for a short time (1975-1979). However, this government implemented domestic and foreign policies towards genocide. In particular, the diplomatic relations of Democratic Kampuchea with its regional neighbors such as Vietnam, Thailand and Laos followed ultranationalism. Khmer Rouge Group committed acts of discrimination, provocation and border aggression, thereby causing painful consequences for innocent people on the borders of these countries. Simultaneously, the hostile foreign policy towards its neighbors pushed Democratic Kampuchea in isolation, leading to the inevitable movement to overthrow this reactionary state. Keywords: Democratic Kampuchea, Khmer Rouge, diplomatic relations 1. Đặt vấn đề Ngày 17/4/1975, Khmer Đỏ giành được chính quyền, xây dựng quốc gia Campuchia Dân chủ (CPCDC). Tập đoàn Pol Pot – Ieng Sary đã thể hiện tư tưởng chủ nghĩa dân tộc cực đoan qua việc nhấn mạnh đến sự vượt trội của người Khmer so với các tộc người khác. Từ rất sớm, CPCDC đã nuôi tham vọng khôi phục lại đế chế Khmer khi xưa. Vì thế, chính quyền CPCDC đã thực hiện chính sách đối ngoại đi ngược lại với nguyện vọng của nhân dân xứ Chùa Tháp. Đặc biệt, với sự ủng hộ của Trung Quốc, đường lối và các hoạt động đối ngoại của Khmer Đỏ hết sức phản động, làm tổn hại đến mối quan hệ giao hảo giữa CPC và các nước láng giềng như Việt Nam, Thái Lan, Lào. Email: phamhahue@gmail.com SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) 60 2. Sự ra đời của chính quyền Campuchia Dân chủ Theo ông Sihanouk, chế độ Campuchia Dân chủ được hình thành như sau: “Sơn Ngọc Thành đang có ảnh hưởng đặc biệt đến các tầng lớp giáo viên, học sinh Campuchia. Thời kỳ đó, Pol Pot, Ieng Sary, Son Sen, Khieu Samphan, Hou Youn, Hu Nim, Koy Thuon, Nuon Chea... và các “tiểu thư học trò” Khieu Ponnary (sau này là vợ Pol Pot), Khieu Thirith (sau này là vợ Ieng Sary) đều là những học sinh non trẻ đã nhanh chóng trở thành những phần tử theo Sơn Ngọc Thành một cách cuồng nhiệt và là những kẻ chống đến cùng chế độ quân chủ. Chủ nghĩa Sơn Ngọc Thành khuynh hữu của những lãnh tụ Khmer Đỏ sau này dần chuyển thành hồng rồi thành đỏ khi tiếp xúc với cảnh tả”. (Sihanouk, 1988, tr.77-78). Hầu hết những người lãnh đạo sau này của CPCDC đều từng là sinh viên học ở Paris. Nhóm sinh viên Paris đó gồm có: Pol Pot, Ieng Sary, Khieu Samphan, Hou Yuon, Son Sen, Hu Nim.v.v. Họ là những người được chính quyền thực dân Pháp lựa chọn và đưa sang Pháp đào tạo, lứa đầu tiên sang Pháp vào năm 1947 (Phạm Việt Trung và nhóm tác giả, 1982, tr.312). Đây chính là lực lượng lãnh đạo chính quyền CPCDC sau năm 1975. Những nhân vật này từng sinh hoạt ở Hiệp hội Sinh viên Khmer (KSA) vào thập niên 50 của thế kỉ XX. Đây là một tổ chức gồm khoảng 200 sinh viên Khmer ở Paris chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc gia và những ý tưởng cánh tả, bên trong nó là một tổ chức mật được gọi là Cercle Marxiste. Nhóm sinh viên Paris này ít nhiều có liên hệ với phong trào cách mạng ở quê nhà đang bị đàn áp nặng nề. Đến những thập niên 60 của thế kỉ XX, một số người trong số họ đã quay trở về Campuchia và nắm quyền lãnh đạo Đảng Cộng sản Campuchia (hay Đảng Cộng sản Khmer). Sau đó, họ đã tổ chức nổi dậy chống Lon Nol và lập ra chế độ Campuchia Dân chủ vào năm 1975. Trong giai đoạn cầm quyền (1975 - 1979), Ban thường vụ Ủy ban Trung ương Đảng Campuchia Dân chủ gồm các thành viên: Pol Pot (Saloth Sar) là “Anh cả”, Tổng Bí thư . Nuon Chea (Long Bunruot) là “Anh hai”, Thủ tướng, cánh tay phải của Pol Pot. Ieng Sary (anh em đồng hao của Pol Pot) là “Anh ba”, Phó thủ tướng. Khieu Samphan là “Anh tư”, Chủ tịch Campuchia Dân chủ. Ta Mok (Chhit Chhoeun) là “Anh năm”, Thư ký vùng Tây Nam . Son Sen (học về giáo dục và văn học) là Bộ trưởng Quốc phòng. Son Sen cũng là lãnh đạo của Kaing Guek Eay (hay Hang Pin, còn gọi là “đồng chí Duch”) - cựu Giám đốc nhà tù Tuol Sleng (nhà tù S-21), một trong các nhân vật chủ chốt của Khmer Đỏ. Ngoài ra, còn một số nhân vật khác như Yun Yat, Ke Pauk (“Anh mười ba”, cựu Bí thư vùng phía Bắc), Ieng Thinith (em vợ Pol Pot),... (HKHLSTP.HCM, 2018, tr.73-74) Như vậy, nhóm sinh viên Paris đứng đầu là Pol Pot, ban đầu là những thanh niên yêu nước, muốn giải phóng đồng bào. Trong thời gian ở Pháp, họ tiếp thu tư tưởng cách mạng “tả khuynh”, xây dựng nên lý thuyết cho con đường giải phóng Campuchia bằng thủ đoạn bạo lực, phá hoại tất cả những gì bị coi là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản, của chế độ phong kiến, đế quốc. Đồng thời, cuộc cách mạng văn hóa của Trung Quốc đã tác động mạnh mẽ đối với nhóm Paris. “Thấy được sự tương đồng trong quan điểm chính trị với Chủ nghĩa Mao và những chính sách trong Cách PHẠM THỊ HUỆ - TRẦN HÙNG MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 61 mạng văn hóa, khiến nhóm này muốn vận dụng vào thực tế Campuchia ở một mức độ triệt để và vượt xa Trung Quốc, chính là nguyên nhân chính đưa đến sự ra đời chế độ mới ở Campuchia” (Phan Thị Mỹ Nhân, 2012, tr.32). Chính ảnh hưởng của tư tưởng Mao trong “cách mạng văn hóa Trung Hoa” đã làm cơ sở cho hành động của tập đoàn Pol Pot - Ieng Sary (Phạm Việt Trung và nhóm tác giả, 1982, tr.313). Sau những cuộc thanh trừng và khi nắm quyền, các nhân vật chủ chốt của nhóm “sinh viên Paris” cũng chính là các nhà lãnh đạo thực sự của Campuchia. Trong hàng ngũ lãnh đạo này hoàn toàn vắng bóng những người cộng sản từng có mối quan hệ mật thiết với Đảng Cộng sản Việt Nam (Phan Thị Mỹ Nhân, 2012, tr.54). Tất cả thành viên nằm trong Ban Thường vụ Trung ương đều là những cộng sự trung thành với cá nhân Pol Pot. Tất cả những ai không tán thành Pol Pot, không những bị khai trừ khỏi Đảng mà còn bị giết hại. Với sự tác động của các thế lực phản động, với tư tưởng dân tộc vị kỷ, những nhà lãnh đạo CPCDC đã có những chính sách đối nội, đối ngoại cực đoan với các nước trong khu vực, gây chia rẽ tình đoàn kết giữa các quốc gia và dân tộc với nhau. 3. Quan hệ đối ngoại của chính quyền Campuchia Dân chủ (1975-1979) Đối với chính quyền CPCDC thì đối tượng kẻ thù số một chính là Mỹ, số hai là bọn tàn quân của chế độ Lon Nol, đối tượng thứ ba là những người chịu ảnh hưởng từ Hoàng thân Sihanouk. Ngày 05/ 01/1976, Hiến pháp CPCDC được ban hành, gồm 16 chương và 21 điều đã xác định đặc tính của nhà nước, mục tiêu của chính sách kinh tế, xã hội và văn hóa, nguyên lý cơ bản của chính sách đối ngoại. Tuy nhiên, tại Điều 21 của Hiến pháp CPCDC quy định: “Campuchia Dân chủ nhiệt thành và tha thiết mong muốn duy trì mối quan hệ gần gũi và thân thiện với tất cả các nước có chung đường biên giới và với tất cả các nước gần xa trên khắp thế giới phù hợp với các nguyên tắc tôn trọng tuyệt đối về chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của nhau” (Raoul M. Jennar, 1995). CPCDC xa lánh phương Tây, chỉ giữ quan hệ ngoại giao với tổ chức Liên Hợp Quốc và Phong trào không liên kết. Chính quyền CPCDC xóa bỏ hầu hết mối quan hệ với các tổ chức quốc tế khác. Những nhà lãnh đạo Khmer Đỏ không tham dự bất cứ phiên họp nào của Ủy ban sông Mê Kong. Họ khước từ việc thành lập quỹ ủng hộ Việt Nam, Lào và Campuchia của các nước không liên kết. Ngoài ra, lãnh đạo Khmer Đỏ còn cắt quan hệ với tổ chức nhân đạo như Hội Chữ thập Đỏ quốc tế, đại diện của tổ chức này đều bị trục xuất ra khỏi Campuchia. Chính phủ Pol Pot đã đóng cửa các sứ quán nước ngoài tại thủ đô Phnom Penh. Khmer Đỏ cũng trục xuất đại sứ Liên Xô về nước, vì Liên Xô trước đó đã không hỗ trợ nhiều cho họ. Đối với Trung Quốc, CPCDC có những chính sách ngoại giao rất thân thiết do Trung Quốc đã hỗ trợ đắc lực về nhiều mặt cho Khmer Đỏ. Cuối năm 1965, Pol Pot đến thăm Trung Quốc và được Mao Trạch Đông tiếp đón nồng hậu. Mao Trạch Đông đã nói với Pol Pot “Các đồng chí có tinh thần dân tộc nồng nhiệt Cách mạng Campuchia là trung tâm của cách mạng Đông Nam Á” (Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Campuchia, 1984, tr.25). Bên cạnh đó, lợi dụng việc nắm chức vụ cao nhất trong Đảng, tập đoàn Pol Pot - Iêng Sary đã tự soạn thảo 14 “văn kiện” trình bày tại hội nghị Trung ương do Khmer Đỏ tổ chức vào tháng 10 năm 1966 và tháng 3 năm 1967. Những văn kiện này đánh dấu việc Khmer Đỏ thực hiện nguyên mẫu SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) 62 đường lối phản động của Bắc Kinh, họ đề cao tư tưởng Mao Trạch Đông, đánh giá cao cuộc “cách mạng văn hóa” của Trung Quốc, chọn lựa tư tưởng độc lập, tự chủ và thực chất là họ đã chống lại thiện chí và những ý kiến đóng góp đúng đắn từ phía cách mạng Việt Nam đối với đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc của Khmer Đỏ (UBKHXHVN, 1983, tr.122). Quan hệ giữa CPCDC và Trung Quốc ngày càng được củng cố. Những chuyến viếng thăm của các nhà lãnh đạo hai nước liên tục được tiến hành, song hành là các hiệp ước được ký kết nhằm viện trợ quân sự và kinh tế cho Khmer Đỏ. Ngày 26/5/1975, Pol Pot đã đến Bắc Kinh nhằm tăng cường mối quan hệ chính trị giữa CPCDC và Trung Quốc. Trong năm 1976, quan hệ giữa hai nước được đẩy mạnh hơn với nhiều chuyến thăm cấp cao, đặc biệt là chuyến thăm CPCDC của Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc Hoa Quốc Phong. Cũng trong năm 1976, Vương Thịnh Vinh (Phó Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng Trung Quốc) đến thăm Campuchia, hai bên đã ký hiệp định hợp tác, trong đó có việc Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho Khmer Đỏ. Theo tác giả Vũ Văn Toàn,“Ngày 13/9/1975, Trung Quốc đã dành cho Campuchia 1 tỷ USD viện trợ kinh tế và quân sự không lấy lãi, kể cả một số khoản tặng ngay lập tức 20 triệu USD. Tháng 3 năm 1976, Trung Quốc ký Hiệp định viện trợ không hoàn lại cho Campuchia trị giá 140 triệu nhân dân tệ và 20 triệu USD. Toàn bộ khoản này được tuyên bố công khai là viện trợ lớn nhất chưa từng có của Trung Quốc cho bất kỳ một nước nào. Đồng thời, Trung Quốc cũng giảm một cách đột ngột viện trợ cho Việt Nam, cùng với đó, gây ra 814 vụ vi phạm ở 102 điểm trên biên giới giữa hai nước” (Vũ Văn Toàn, 2016, tr.22). Theo Ben Kiernan, vào năm 1976, Trung Quốc đã cung cấp “vũ khí và thiết bị cần thiết cho việc huấn luyện tại chỗ cho các sĩ quan nòng cốt” tại một sân bay quân sự mới và các bộ phận của máy bay phản lực và radar, cùng với bốn tàu hộ tống của hải quân và bốn tàu ngư lôi, các bộ phận của xe tăng quân đội và các trung đoàn tín hiệu và của ba trung đoàn pháo binh, và một trung đoàn pháo được trang bị đầy đủ. 500 nhân viên quân sự Trung Quốc sẽ đến Campuchia vào năm 1976 để thực hiện khóa huấn luyện này” (Ben Kiernan, 2008, tr.133). Trung Quốc mạnh tay viện trợ cho Khmer Đỏ, vì giới cầm quyền Bắc Kinh tìm thấy được ở Khmer Đỏ những nét tương đồng với mình như thủ đoạn giả hiệu cách mạng để chống cách mạng, tính cực đoan, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, mang đậm màu sắc diệt chủng. Cho nên, Trung Quốc ra sức ủng hộ tập đoàn Pol Pot về nhiều mặt để biến họ thành “tên lính tiên phong” cho chính sách bành trướng xuống Đông Nam Á. Còn phía Pol Pot coi đây là sự “giúp đỡ” to lớn của Trung Quốc đối với Campuchia. Với sự hậu thuẫn đó, cùng tinh thần dân tộc vị kỉ, Khmer Đỏ thẳng tay thực hiện chính sách ngoại giao thù địch với các nước láng giềng như Việt Nam, Thái Lan, Lào (Phạm Việt Trung và nhóm tác giả, 1982, tr.341-343; Phạm Đức Thành, 1995, tr.338). Đối với Việt Nam, từ năm 1973, sự nghiệp cách mạng của ba nước Đông Dương đã có những bước ngoặt mới: Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris được ký kết đánh dấu một thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam; Ngày 21/2/1973, Hiệp định về lập lại hòa bình và thực hiện hòa hợp dân tộc được ký tại Viêng Chăn, lập lại hòa bình ở Lào; Cuối năm 1973, nhân dân Campuchia bước vào giai đoạn cuối PHẠM THỊ HUỆ - TRẦN HÙNG MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 63 của cuộc kháng chiến chống Mỹ - bao vây, tấn công vào Phmom Penh. Chính lúc này Khmer Đỏ đã dần lộ nguyên hình là kẻ chống Việt Nam (Phạm Việt Trung và nhóm tác giả, 1982, tr.349; Nguyễn Anh Thái, 1998, tr.92-94). Tháng 4 năm 1975, ngay sau khi nắm quyền lãnh đạo, chính quyền CPCDC đã chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau chiến thắng ngày 17/4/1975, trên lĩnh vực ngoại giao, Trung Quốc được đưa lên vị trí số một trong mối quan hệ hữu nghị với CPCDC, còn Việt Nam tụt xuống vị trí thứ bảy, kẻ thù số một của Khmer Đỏ vẫn là Mỹ - CIA (Wilfred Burchett, 1986, tr.180). Việc phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam được Khmer Đỏ thực hiện từng bước. Từ năm 1975 lực lượng Pol Pot thực hiện nhiều đợt tấn công xâm lược ở tuyến biên giới Tây Nam (Việt Nam) như Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Tây Ninh, khu vực Tây Nguyên và gây ra nhiều vụ thảm sát đối với nhiều dân thường Việt Nam. Ngày 03/5/1975, Khmer Đỏ đã cho quân đánh chiếm đảo Phú Quốc của Việt Nam; ngày 10/5/1975 quân Pol Pot đánh chiếm đảo Thổ Chu, bắt và giết hơn 500 người dân Việt Nam. Đến năm 1977, Khmer Đỏ đã tăng cường các cuộc tiến công vào biên giới Tây Nam. Việt Nam từng là người bạn số một trước đây, nay trở thành “kẻ thù số một”, “kẻ thù truyền kiếp” của chính quyền CPCDC (VLSQSVN, 2019, tr.103). Chính CPCDC đã có những chỉ đạo và hành động khích động tạo sự thù hằn cho hai dân tộc Việt Nam và Campuchia. Lãnh đạo Khmer Đỏ, Khiêu Xamphon đã từng tuyên bố: “Muốn cắt cái ung nhọt Việt Nam phải tiến hành một lúc ba cuộc mổ xẻ: một là, cấm người Việt Nam sinh sống trên đất Campuchia (Xuất phát từ chính sách này người ta đã thủ tiêu một số lớn người Việt và trục xuất nhiều người khác về nước); hai là, buộc dân Khmer phải “lao động nghĩa vụ hết mức” để biến Campuchia thành một “pháo đài bất khả xâm phạm”; ba là, loại trừ nguy cơ của “chủ nghĩa bành trướng Xô – Việt” (Sihanouk, 1988, tr.137). Tháng 3 năm 1976, Nuôn Chia, Phó Bí thư Đảng Cộng sản Campuchia, gửi thư cho Phó thủ tướng nước Việt Nam Phạm Hùng đề nghị có cuộc gặp cấp cao hai đảng về vấn đề biên giới. Ngày 06/4/1976, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi điện cho Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia tán thành đề nghị đó và thoả thuận cuộc gặp sẽ tiến hành vào tháng 6 năm 1976. Từ ngày 4 đến 18/5/1976, Thứ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam dẫn đầu đoàn sang Campuchia họp trù bị cho hội nghị cấp cao. Tại cuộc họp trù bị này, “phía Pol Pot đã đồng ý lấy đường biên giới trên đất liền theo bản đồ Pháp tỷ lệ 1/100.000 thông dụng trước năm 1954 nhưng lại đòi Việt Nam phải chấp nhận bộ bản đồ do Campuchia đưa ra có chín chỗ bị cạo sửa và đòi lấy đường Brévíe làm đường biên giới trên biển” (Nguyễn Đình Bin, 2006, tr.302). Chính vì vậy, cuộc đàm phán giữa hai bên thất bại và không tiến hành được cuộc gặp cấp cao hai đảng. Hai bên chỉ thỏa thuận được ba biện pháp tạm thời do đoàn Việt Nam đề nghị: “Hai bên giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nước mình ở biên giới tăng cường đoàn kết, hữu nghị và tránh va chạm. Mọi va chạm phải được giải quyết trên tinh thần đoàn kết, hữu nghị, tôn trọng lẫn nhau. Ban liên lạc hai bên tiến hành điều tra các vụ va chạm và gặp nhau để giải quyết” (Nguyễn Quang Thuần, 2007, tr.16). Việt Nam đã luôn bình tĩnh giải quyết các tranh chấp bằng chính sách ngoại giao SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) 64 hòa bình, hữu nghị với chính quyền CPCDC. Các phái đoàn đại biểu cấp cao của hai nước đã tiến hành gặp nhau, bàn bạc, thoả thuận các nguyên tắc giải quyết xung đột. Ngược lại, CPCDC vẫn tăng cường tiến hành các hành động tấn công, xâm lấn lãnh thổ và giết hại dân thường Việt Nam ở dọc biên giới hai bên (Trần Hùng Minh Phương, 2019, tr.27-28). Đến năm 1977, chính quyền CPCDC tuyên bố cắt đứt mọi quan hệ với Việt Nam, rút phái đoàn ngoại giao về nước đồng thời cũng yêu cầu các nhân viên ngoại giao Việt Nam phải rút khỏi Campuchia. Trong Chiến lược quốc phòng của chính quyền CPCDC ký ngày 10/5/1978 đã có đoạn khẳng định: “ Một người trong chúng ta phải giết 30 người Việt Nam. Nếu chúng ta có thể thực hiện khẩu hiệu này, chúng ta chắc chắn sẽ thắng. Chúng ta sẽ đánh bại Việt Nam, bất kể quy mô của nó. Bất kỳ quốc gia nào dám gây hấn với Campuchia sẽ bị đánh bại nếu chúng ta tuân thủ khẩu hiệu này” (Cambodia's Strategy of Defence against Vietnam, Với chiến lược này, các nước láng giềng của CPCDC như Thái Lan, Lào cũng cùng chung số phận như Việt Nam. Đối với Thái Lan, chính quyền CPCDC đã tổ chức các cuộc tấn công qua biên giới Thái Lan. Quân đội CPCDC đã tấn công ngôi làng ở khu vực biên giới của Thái Lan và gây ra các cuộc tàn sát đẫm máu. Ngày 28/01/1977, binh lính Khmer Đỏ va chạm với quân Thái Lan tại Ban Noi Parai, phía bắc đô thị biên giới Araniapratet. Trong cuộc đụng độ này, 30 người Thái và một số không rõ lính Khmer Đỏ bị chết (Vũ Văn Toàn, 2016, tr.43). Chính phủ Bangkok tìm cách tốt nhất để công bố sự kiện đó, tố cáo Campuchia đã xâm chiếm lãnh thổ Thái Lan. Một số nhà báo Thái Lan và quốc tế đã được chính quyền đưa đến để quan sát nhà cửa của người dân đã bị Khmer Đỏ đốt phá, bỏ trống và những xác chết bỏ lại nham nhở và họ đã chấp nhận lời tường thuật của chính phủ Thái Lan là chính xác, không thể chối cãi. Sau đó, Thái Lan cũng đã công bố một cuốn Sách trắng về những sự kiện này, đồng thời gửi công hàm phản đối chính thức tới chính phủ CPCDC về vụ tàn sát tại đất Thái. Trong tài liệu do phái đoàn Thường trực của Thái Lan tại Liên Hợp Quốc công bố ngày 03/02/1977 có đoạn viết: “Riêng trong năm 1977, Khmer Đỏ đã gây ra hơn 400 vụ xung đột trên biên giới Thái Lan và Campuchia, có nhiều vụ Khmer Đỏ huy động 600 đến 800 quân tham gia” (Vũ Văn Toàn, 2016, tr.43). Điển hình là vụ “28/01/1977, vào khoảng 2 giờ sáng, chừng 300 lính Campuchia có vũ trang đã thâm nhập lãnh thổ Thái Lan và tấn công các làng Ban Noon Đô, Ban Klôông Kô và Ban Noi-pa-rai nằm bên trong lãnh thổ Thái Lan. Khmer Đỏ sử dụng những loại vũ khí tàn sát, càn quét 3 làng này vào giữa đêm khuya. Tại Ban Noon Đô, 21 người Thái bị giết, trong đó có cả phụ nữ có thai và trẻ sơ sinh, tất cả nhà cửa đều bị đốt trụi. Tại Ban Klôông Kô, 9 người Thái bị giết, tất cả nhà cửa bị đốt trụi. Tại khu vực này, toàn bộ 200 dân làng bị buộc phải bỏ nhà và rất nhiều người bị thương. Trước khi bị đánh đuổi trở lại bên
Tài liệu liên quan