TÓM TẮT
Chính quyền Campuchia Dân chủ được thành lập và tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn (1975-
1979). Tuy nhiên, chính quyền này đã thi hành những chính sách đối nội, đối ngoại theo hướng diệt
chủng. Trong đó, quan hệ ngoại giao của chính quyền Campuchia Dân chủ đối với một số quốc gia
trong khu vực như Việt Nam, Thái Lan, Lào cũng theo hướng chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Tập đoàn
Khmer Đỏ đã có những hành động kỳ thị, khiêu khích, xâm lược biên giới. Từ đó, gây ra những hệ lụy
đau thương cho người dân vô tội ở biên giới các quốc gia này. Đồng thời, chính sách đối ngoại thù địch
với các nước láng giềng càng đẩy Campuchia dân chủ vào thế cô lập, dẫn đến phong trào đấu tranh tất
yếu nổ ra, nhằm lật đổ nhà nước phản động này.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 456 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan hệ ngoại giao của chính quyền Campuchia dân chủ (1975-1979) với một số quốc gia trong khu vực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 70 (04/2020) No. 70 (04/2020)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website:
59
QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA CHÍNH QUYỀN CAMPUCHIA DÂN CHỦ
(1975-1979) VỚI MỘT SỐ QUỐC GIA TRONG KHU VỰC
Diplomatic relations of democratic Kampuchea (1975-1979) with regional
neighbors
ThS.NCS. Phạm Thị Huệ(1), ThS.NCS. Trần Hùng Minh Phương(2)
(1),(2) Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM
TÓM TẮT
Chính quyền Campuchia Dân chủ được thành lập và tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn (1975-
1979). Tuy nhiên, chính quyền này đã thi hành những chính sách đối nội, đối ngoại theo hướng diệt
chủng. Trong đó, quan hệ ngoại giao của chính quyền Campuchia Dân chủ đối với một số quốc gia
trong khu vực như Việt Nam, Thái Lan, Lào cũng theo hướng chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Tập đoàn
Khmer Đỏ đã có những hành động kỳ thị, khiêu khích, xâm lược biên giới. Từ đó, gây ra những hệ lụy
đau thương cho người dân vô tội ở biên giới các quốc gia này. Đồng thời, chính sách đối ngoại thù địch
với các nước láng giềng càng đẩy Campuchia dân chủ vào thế cô lập, dẫn đến phong trào đấu tranh tất
yếu nổ ra, nhằm lật đổ nhà nước phản động này.
Từ khóa: Campuchia Dân chủ, Khmer Đỏ, quan hệ ngoại giao
ABSTRACT
Democratic Kampuchea was established and existed for a short time (1975-1979). However, this
government implemented domestic and foreign policies towards genocide. In particular, the diplomatic
relations of Democratic Kampuchea with its regional neighbors such as Vietnam, Thailand and Laos
followed ultranationalism. Khmer Rouge Group committed acts of discrimination, provocation and
border aggression, thereby causing painful consequences for innocent people on the borders of these
countries. Simultaneously, the hostile foreign policy towards its neighbors pushed Democratic
Kampuchea in isolation, leading to the inevitable movement to overthrow this reactionary state.
Keywords: Democratic Kampuchea, Khmer Rouge, diplomatic relations
1. Đặt vấn đề
Ngày 17/4/1975, Khmer Đỏ giành
được chính quyền, xây dựng quốc gia
Campuchia Dân chủ (CPCDC). Tập đoàn
Pol Pot – Ieng Sary đã thể hiện tư tưởng
chủ nghĩa dân tộc cực đoan qua việc nhấn
mạnh đến sự vượt trội của người Khmer so
với các tộc người khác. Từ rất sớm,
CPCDC đã nuôi tham vọng khôi phục lại
đế chế Khmer khi xưa. Vì thế, chính quyền
CPCDC đã thực hiện chính sách đối ngoại
đi ngược lại với nguyện vọng của nhân dân
xứ Chùa Tháp. Đặc biệt, với sự ủng hộ của
Trung Quốc, đường lối và các hoạt động
đối ngoại của Khmer Đỏ hết sức phản
động, làm tổn hại đến mối quan hệ giao
hảo giữa CPC và các nước láng giềng như
Việt Nam, Thái Lan, Lào.
Email: phamhahue@gmail.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020)
60
2. Sự ra đời của chính quyền Campuchia
Dân chủ
Theo ông Sihanouk, chế độ
Campuchia Dân chủ được hình thành như
sau: “Sơn Ngọc Thành đang có ảnh hưởng
đặc biệt đến các tầng lớp giáo viên, học
sinh Campuchia. Thời kỳ đó, Pol Pot, Ieng
Sary, Son Sen, Khieu Samphan, Hou
Youn, Hu Nim, Koy Thuon, Nuon Chea...
và các “tiểu thư học trò” Khieu Ponnary
(sau này là vợ Pol Pot), Khieu Thirith (sau
này là vợ Ieng Sary) đều là những học sinh
non trẻ đã nhanh chóng trở thành những
phần tử theo Sơn Ngọc Thành một cách
cuồng nhiệt và là những kẻ chống đến cùng
chế độ quân chủ. Chủ nghĩa Sơn Ngọc
Thành khuynh hữu của những lãnh tụ
Khmer Đỏ sau này dần chuyển thành hồng
rồi thành đỏ khi tiếp xúc với cảnh tả”.
(Sihanouk, 1988, tr.77-78). Hầu hết những
người lãnh đạo sau này của CPCDC đều
từng là sinh viên học ở Paris.
Nhóm sinh viên Paris đó gồm có: Pol
Pot, Ieng Sary, Khieu Samphan, Hou
Yuon, Son Sen, Hu Nim.v.v. Họ là những
người được chính quyền thực dân Pháp lựa
chọn và đưa sang Pháp đào tạo, lứa đầu
tiên sang Pháp vào năm 1947 (Phạm Việt
Trung và nhóm tác giả, 1982, tr.312). Đây
chính là lực lượng lãnh đạo chính quyền
CPCDC sau năm 1975. Những nhân vật
này từng sinh hoạt ở Hiệp hội Sinh viên
Khmer (KSA) vào thập niên 50 của thế kỉ
XX. Đây là một tổ chức gồm khoảng 200
sinh viên Khmer ở Paris chịu ảnh hưởng
của chủ nghĩa quốc gia và những ý tưởng
cánh tả, bên trong nó là một tổ chức mật
được gọi là Cercle Marxiste. Nhóm sinh
viên Paris này ít nhiều có liên hệ với phong
trào cách mạng ở quê nhà đang bị đàn áp
nặng nề. Đến những thập niên 60 của thế kỉ
XX, một số người trong số họ đã quay trở
về Campuchia và nắm quyền lãnh đạo
Đảng Cộng sản Campuchia (hay Đảng
Cộng sản Khmer). Sau đó, họ đã tổ chức
nổi dậy chống Lon Nol và lập ra chế độ
Campuchia Dân chủ vào năm 1975.
Trong giai đoạn cầm quyền (1975 -
1979), Ban thường vụ Ủy ban Trung ương
Đảng Campuchia Dân chủ gồm các thành
viên:
Pol Pot (Saloth Sar) là “Anh cả”, Tổng
Bí thư .
Nuon Chea (Long Bunruot) là “Anh
hai”, Thủ tướng, cánh tay phải của Pol Pot.
Ieng Sary (anh em đồng hao của Pol
Pot) là “Anh ba”, Phó thủ tướng.
Khieu Samphan là “Anh tư”, Chủ tịch
Campuchia Dân chủ.
Ta Mok (Chhit Chhoeun) là “Anh
năm”, Thư ký vùng Tây Nam .
Son Sen (học về giáo dục và văn học)
là Bộ trưởng Quốc phòng. Son Sen cũng là
lãnh đạo của Kaing Guek Eay (hay Hang
Pin, còn gọi là “đồng chí Duch”)
- cựu Giám đốc nhà tù Tuol Sleng (nhà tù
S-21), một trong các nhân vật chủ chốt
của Khmer Đỏ. Ngoài ra, còn một số
nhân vật khác như Yun Yat, Ke Pauk
(“Anh mười ba”, cựu Bí thư vùng phía
Bắc), Ieng Thinith (em vợ Pol Pot),...
(HKHLSTP.HCM, 2018, tr.73-74)
Như vậy, nhóm sinh viên Paris đứng
đầu là Pol Pot, ban đầu là những thanh niên
yêu nước, muốn giải phóng đồng bào.
Trong thời gian ở Pháp, họ tiếp thu tư
tưởng cách mạng “tả khuynh”, xây dựng
nên lý thuyết cho con đường giải phóng
Campuchia bằng thủ đoạn bạo lực, phá
hoại tất cả những gì bị coi là sản phẩm của
chủ nghĩa tư bản, của chế độ phong kiến,
đế quốc. Đồng thời, cuộc cách mạng văn
hóa của Trung Quốc đã tác động mạnh mẽ
đối với nhóm Paris. “Thấy được sự tương
đồng trong quan điểm chính trị với Chủ
nghĩa Mao và những chính sách trong Cách
PHẠM THỊ HUỆ - TRẦN HÙNG MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
61
mạng văn hóa, khiến nhóm này muốn vận
dụng vào thực tế Campuchia ở một mức độ
triệt để và vượt xa Trung Quốc, chính là
nguyên nhân chính đưa đến sự ra đời chế
độ mới ở Campuchia” (Phan Thị Mỹ Nhân,
2012, tr.32). Chính ảnh hưởng của tư tưởng
Mao trong “cách mạng văn hóa Trung
Hoa” đã làm cơ sở cho hành động của tập
đoàn Pol Pot - Ieng Sary (Phạm Việt Trung
và nhóm tác giả, 1982, tr.313). Sau những
cuộc thanh trừng và khi nắm quyền, các
nhân vật chủ chốt của nhóm “sinh viên
Paris” cũng chính là các nhà lãnh đạo thực
sự của Campuchia. Trong hàng ngũ lãnh
đạo này hoàn toàn vắng bóng những người
cộng sản từng có mối quan hệ mật thiết với
Đảng Cộng sản Việt Nam (Phan Thị Mỹ
Nhân, 2012, tr.54). Tất cả thành viên nằm
trong Ban Thường vụ Trung ương đều là
những cộng sự trung thành với cá nhân Pol
Pot. Tất cả những ai không tán thành Pol
Pot, không những bị khai trừ khỏi Đảng mà
còn bị giết hại. Với sự tác động của các thế
lực phản động, với tư tưởng dân tộc vị kỷ,
những nhà lãnh đạo CPCDC đã có những
chính sách đối nội, đối ngoại cực đoan
với các nước trong khu vực, gây chia rẽ
tình đoàn kết giữa các quốc gia và dân tộc
với nhau.
3. Quan hệ đối ngoại của chính
quyền Campuchia Dân chủ (1975-1979)
Đối với chính quyền CPCDC thì đối
tượng kẻ thù số một chính là Mỹ, số hai là
bọn tàn quân của chế độ Lon Nol, đối
tượng thứ ba là những người chịu ảnh
hưởng từ Hoàng thân Sihanouk. Ngày 05/
01/1976, Hiến pháp CPCDC được ban
hành, gồm 16 chương và 21 điều đã xác
định đặc tính của nhà nước, mục tiêu của
chính sách kinh tế, xã hội và văn hóa,
nguyên lý cơ bản của chính sách đối ngoại.
Tuy nhiên, tại Điều 21 của Hiến pháp
CPCDC quy định: “Campuchia Dân chủ
nhiệt thành và tha thiết mong muốn duy trì
mối quan hệ gần gũi và thân thiện với tất
cả các nước có chung đường biên giới và
với tất cả các nước gần xa trên khắp thế
giới phù hợp với các nguyên tắc tôn trọng
tuyệt đối về chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh
thổ của nhau” (Raoul M. Jennar, 1995).
CPCDC xa lánh phương Tây, chỉ giữ
quan hệ ngoại giao với tổ chức Liên Hợp
Quốc và Phong trào không liên kết. Chính
quyền CPCDC xóa bỏ hầu hết mối quan hệ
với các tổ chức quốc tế khác. Những nhà
lãnh đạo Khmer Đỏ không tham dự bất cứ
phiên họp nào của Ủy ban sông Mê Kong.
Họ khước từ việc thành lập quỹ ủng hộ
Việt Nam, Lào và Campuchia của các nước
không liên kết. Ngoài ra, lãnh đạo Khmer
Đỏ còn cắt quan hệ với tổ chức nhân đạo
như Hội Chữ thập Đỏ quốc tế, đại diện của
tổ chức này đều bị trục xuất ra khỏi
Campuchia. Chính phủ Pol Pot đã đóng
cửa các sứ quán nước ngoài tại thủ đô
Phnom Penh. Khmer Đỏ cũng trục xuất đại
sứ Liên Xô về nước, vì Liên Xô trước đó
đã không hỗ trợ nhiều cho họ.
Đối với Trung Quốc, CPCDC có
những chính sách ngoại giao rất thân thiết
do Trung Quốc đã hỗ trợ đắc lực về nhiều
mặt cho Khmer Đỏ. Cuối năm 1965, Pol
Pot đến thăm Trung Quốc và được Mao
Trạch Đông tiếp đón nồng hậu. Mao Trạch
Đông đã nói với Pol Pot “Các đồng chí có
tinh thần dân tộc nồng nhiệt Cách mạng
Campuchia là trung tâm của cách mạng
Đông Nam Á” (Bộ Ngoại giao Cộng hòa
Nhân dân Campuchia, 1984, tr.25). Bên
cạnh đó, lợi dụng việc nắm chức vụ cao
nhất trong Đảng, tập đoàn Pol Pot - Iêng
Sary đã tự soạn thảo 14 “văn kiện” trình
bày tại hội nghị Trung ương do Khmer Đỏ
tổ chức vào tháng 10 năm 1966 và tháng 3
năm 1967. Những văn kiện này đánh dấu
việc Khmer Đỏ thực hiện nguyên mẫu
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020)
62
đường lối phản động của Bắc Kinh, họ đề
cao tư tưởng Mao Trạch Đông, đánh giá
cao cuộc “cách mạng văn hóa” của Trung
Quốc, chọn lựa tư tưởng độc lập, tự chủ và
thực chất là họ đã chống lại thiện chí và
những ý kiến đóng góp đúng đắn từ phía
cách mạng Việt Nam đối với đường lối đấu
tranh giải phóng dân tộc của Khmer Đỏ
(UBKHXHVN, 1983, tr.122).
Quan hệ giữa CPCDC và Trung Quốc
ngày càng được củng cố. Những chuyến
viếng thăm của các nhà lãnh đạo hai nước
liên tục được tiến hành, song hành là các
hiệp ước được ký kết nhằm viện trợ quân
sự và kinh tế cho Khmer Đỏ. Ngày
26/5/1975, Pol Pot đã đến Bắc Kinh nhằm
tăng cường mối quan hệ chính trị giữa
CPCDC và Trung Quốc. Trong năm 1976,
quan hệ giữa hai nước được đẩy mạnh hơn
với nhiều chuyến thăm cấp cao, đặc biệt là
chuyến thăm CPCDC của Tổng bí thư
Đảng cộng sản Trung Quốc Hoa Quốc
Phong. Cũng trong năm 1976, Vương
Thịnh Vinh (Phó Tổng tham mưu trưởng
Quân giải phóng Trung Quốc) đến thăm
Campuchia, hai bên đã ký hiệp định hợp
tác, trong đó có việc Trung Quốc tăng
cường viện trợ quân sự cho Khmer Đỏ.
Theo tác giả Vũ Văn Toàn,“Ngày
13/9/1975, Trung Quốc đã dành cho
Campuchia 1 tỷ USD viện trợ kinh tế và
quân sự không lấy lãi, kể cả một số khoản
tặng ngay lập tức 20 triệu USD. Tháng
3 năm 1976, Trung Quốc ký Hiệp định
viện trợ không hoàn lại cho Campuchia
trị giá 140 triệu nhân dân tệ và 20 triệu
USD. Toàn bộ khoản này được tuyên bố
công khai là viện trợ lớn nhất chưa từng có
của Trung Quốc cho bất kỳ một nước nào.
Đồng thời, Trung Quốc cũng giảm một
cách đột ngột viện trợ cho Việt Nam, cùng
với đó, gây ra 814 vụ vi phạm ở 102 điểm
trên biên giới giữa hai nước” (Vũ Văn
Toàn, 2016, tr.22).
Theo Ben Kiernan, vào năm 1976,
Trung Quốc đã cung cấp “vũ khí và thiết bị
cần thiết cho việc huấn luyện tại chỗ cho
các sĩ quan nòng cốt” tại một sân bay quân
sự mới và các bộ phận của máy bay phản
lực và radar, cùng với bốn tàu hộ tống của
hải quân và bốn tàu ngư lôi, các bộ phận
của xe tăng quân đội và các trung đoàn tín
hiệu và của ba trung đoàn pháo binh, và
một trung đoàn pháo được trang bị đầy đủ.
500 nhân viên quân sự Trung Quốc sẽ đến
Campuchia vào năm 1976 để thực hiện
khóa huấn luyện này” (Ben Kiernan, 2008,
tr.133). Trung Quốc mạnh tay viện trợ cho
Khmer Đỏ, vì giới cầm quyền Bắc Kinh
tìm thấy được ở Khmer Đỏ những nét
tương đồng với mình như thủ đoạn giả hiệu
cách mạng để chống cách mạng, tính cực
đoan, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, mang đậm
màu sắc diệt chủng. Cho nên, Trung Quốc
ra sức ủng hộ tập đoàn Pol Pot về nhiều
mặt để biến họ thành “tên lính tiên phong”
cho chính sách bành trướng xuống Đông
Nam Á. Còn phía Pol Pot coi đây là sự
“giúp đỡ” to lớn của Trung Quốc đối với
Campuchia. Với sự hậu thuẫn đó, cùng tinh
thần dân tộc vị kỉ, Khmer Đỏ thẳng tay
thực hiện chính sách ngoại giao thù địch
với các nước láng giềng như Việt Nam,
Thái Lan, Lào (Phạm Việt Trung và nhóm
tác giả, 1982, tr.341-343; Phạm Đức
Thành, 1995, tr.338).
Đối với Việt Nam, từ năm 1973, sự
nghiệp cách mạng của ba nước Đông
Dương đã có những bước ngoặt mới: Ngày
27/1/1973, Hiệp định Paris được ký kết
đánh dấu một thắng lợi to lớn của cách
mạng Việt Nam; Ngày 21/2/1973, Hiệp
định về lập lại hòa bình và thực hiện hòa
hợp dân tộc được ký tại Viêng Chăn, lập
lại hòa bình ở Lào; Cuối năm 1973, nhân
dân Campuchia bước vào giai đoạn cuối
PHẠM THỊ HUỆ - TRẦN HÙNG MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
63
của cuộc kháng chiến chống Mỹ - bao vây,
tấn công vào Phmom Penh. Chính lúc này
Khmer Đỏ đã dần lộ nguyên hình là kẻ
chống Việt Nam (Phạm Việt Trung và
nhóm tác giả, 1982, tr.349; Nguyễn Anh
Thái, 1998, tr.92-94).
Tháng 4 năm 1975, ngay sau khi nắm
quyền lãnh đạo, chính quyền CPCDC đã
chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược
Việt Nam. Sau chiến thắng ngày
17/4/1975, trên lĩnh vực ngoại giao, Trung
Quốc được đưa lên vị trí số một trong mối
quan hệ hữu nghị với CPCDC, còn Việt
Nam tụt xuống vị trí thứ bảy, kẻ thù số một
của Khmer Đỏ vẫn là Mỹ - CIA (Wilfred
Burchett, 1986, tr.180). Việc phát động
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam được
Khmer Đỏ thực hiện từng bước. Từ năm
1975 lực lượng Pol Pot thực hiện nhiều đợt
tấn công xâm lược ở tuyến biên giới Tây
Nam (Việt Nam) như Đồng Tháp, An
Giang, Kiên Giang, Tây Ninh, khu vực Tây
Nguyên và gây ra nhiều vụ thảm sát đối
với nhiều dân thường Việt Nam. Ngày
03/5/1975, Khmer Đỏ đã cho quân đánh
chiếm đảo Phú Quốc của Việt Nam; ngày
10/5/1975 quân Pol Pot đánh chiếm đảo
Thổ Chu, bắt và giết hơn 500 người dân
Việt Nam. Đến năm 1977, Khmer Đỏ đã
tăng cường các cuộc tiến công vào biên
giới Tây Nam. Việt Nam từng là người bạn
số một trước đây, nay trở thành “kẻ thù số
một”, “kẻ thù truyền kiếp” của chính quyền
CPCDC (VLSQSVN, 2019, tr.103). Chính
CPCDC đã có những chỉ đạo và hành động
khích động tạo sự thù hằn cho hai dân tộc
Việt Nam và Campuchia. Lãnh đạo Khmer
Đỏ, Khiêu Xamphon đã từng tuyên bố:
“Muốn cắt cái ung nhọt Việt Nam phải tiến
hành một lúc ba cuộc mổ xẻ: một là, cấm
người Việt Nam sinh sống trên đất
Campuchia (Xuất phát từ chính sách này
người ta đã thủ tiêu một số lớn người Việt
và trục xuất nhiều người khác về nước);
hai là, buộc dân Khmer phải “lao động
nghĩa vụ hết mức” để biến Campuchia
thành một “pháo đài bất khả xâm phạm”;
ba là, loại trừ nguy cơ của “chủ nghĩa bành
trướng Xô – Việt” (Sihanouk, 1988,
tr.137).
Tháng 3 năm 1976, Nuôn Chia, Phó Bí
thư Đảng Cộng sản Campuchia, gửi thư
cho Phó thủ tướng nước Việt Nam Phạm
Hùng đề nghị có cuộc gặp cấp cao hai đảng
về vấn đề biên giới. Ngày 06/4/1976,
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi
điện cho Trung ương Đảng Cộng sản
Campuchia tán thành đề nghị đó và thoả
thuận cuộc gặp sẽ tiến hành vào tháng 6
năm 1976. Từ ngày 4 đến 18/5/1976, Thứ
trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam dẫn đầu
đoàn sang Campuchia họp trù bị cho hội
nghị cấp cao.
Tại cuộc họp trù bị này, “phía Pol Pot
đã đồng ý lấy đường biên giới trên đất liền
theo bản đồ Pháp tỷ lệ 1/100.000 thông
dụng trước năm 1954 nhưng lại đòi Việt
Nam phải chấp nhận bộ bản đồ do
Campuchia đưa ra có chín chỗ bị cạo sửa
và đòi lấy đường Brévíe làm đường biên
giới trên biển” (Nguyễn Đình Bin, 2006,
tr.302). Chính vì vậy, cuộc đàm phán giữa
hai bên thất bại và không tiến hành được
cuộc gặp cấp cao hai đảng. Hai bên chỉ
thỏa thuận được ba biện pháp tạm thời do
đoàn Việt Nam đề nghị: “Hai bên giáo dục
cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nước mình ở
biên giới tăng cường đoàn kết, hữu nghị và
tránh va chạm. Mọi va chạm phải được giải
quyết trên tinh thần đoàn kết, hữu nghị, tôn
trọng lẫn nhau. Ban liên lạc hai bên tiến
hành điều tra các vụ va chạm và gặp nhau
để giải quyết” (Nguyễn Quang Thuần,
2007, tr.16).
Việt Nam đã luôn bình tĩnh giải quyết
các tranh chấp bằng chính sách ngoại giao
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020)
64
hòa bình, hữu nghị với chính quyền
CPCDC. Các phái đoàn đại biểu cấp cao
của hai nước đã tiến hành gặp nhau, bàn
bạc, thoả thuận các nguyên tắc giải quyết
xung đột. Ngược lại, CPCDC vẫn tăng
cường tiến hành các hành động tấn công,
xâm lấn lãnh thổ và giết hại dân thường
Việt Nam ở dọc biên giới hai bên (Trần
Hùng Minh Phương, 2019, tr.27-28).
Đến năm 1977, chính quyền CPCDC
tuyên bố cắt đứt mọi quan hệ với Việt
Nam, rút phái đoàn ngoại giao về nước
đồng thời cũng yêu cầu các nhân viên
ngoại giao Việt Nam phải rút khỏi
Campuchia. Trong Chiến lược quốc phòng
của chính quyền CPCDC ký ngày
10/5/1978 đã có đoạn khẳng định: “ Một
người trong chúng ta phải giết 30 người
Việt Nam. Nếu chúng ta có thể thực hiện
khẩu hiệu này, chúng ta chắc chắn sẽ
thắng. Chúng ta sẽ đánh bại Việt Nam, bất
kể quy mô của nó. Bất kỳ quốc gia nào
dám gây hấn với Campuchia sẽ bị đánh bại
nếu chúng ta tuân thủ khẩu hiệu này”
(Cambodia's Strategy of Defence against
Vietnam, Với chiến
lược này, các nước láng giềng của CPCDC
như Thái Lan, Lào cũng cùng chung số
phận như Việt Nam.
Đối với Thái Lan, chính quyền
CPCDC đã tổ chức các cuộc tấn công qua
biên giới Thái Lan. Quân đội CPCDC đã
tấn công ngôi làng ở khu vực biên giới của
Thái Lan và gây ra các cuộc tàn sát đẫm
máu. Ngày 28/01/1977, binh lính Khmer
Đỏ va chạm với quân Thái Lan tại Ban Noi
Parai, phía bắc đô thị biên giới
Araniapratet. Trong cuộc đụng độ này, 30
người Thái và một số không rõ lính Khmer
Đỏ bị chết (Vũ Văn Toàn, 2016, tr.43).
Chính phủ Bangkok tìm cách tốt nhất để
công bố sự kiện đó, tố cáo Campuchia đã
xâm chiếm lãnh thổ Thái Lan. Một số nhà
báo Thái Lan và quốc tế đã được chính
quyền đưa đến để quan sát nhà cửa của
người dân đã bị Khmer Đỏ đốt phá, bỏ
trống và những xác chết bỏ lại nham nhở
và họ đã chấp nhận lời tường thuật của
chính phủ Thái Lan là chính xác, không thể
chối cãi.
Sau đó, Thái Lan cũng đã công bố một
cuốn Sách trắng về những sự kiện này,
đồng thời gửi công hàm phản đối chính
thức tới chính phủ CPCDC về vụ tàn sát tại
đất Thái. Trong tài liệu do phái đoàn
Thường trực của Thái Lan tại Liên Hợp
Quốc công bố ngày 03/02/1977 có đoạn
viết: “Riêng trong năm 1977, Khmer Đỏ đã
gây ra hơn 400 vụ xung đột trên biên giới
Thái Lan và Campuchia, có nhiều vụ
Khmer Đỏ huy động 600 đến 800 quân
tham gia” (Vũ Văn Toàn, 2016, tr.43). Điển
hình là vụ “28/01/1977, vào khoảng 2
giờ sáng, chừng 300 lính Campuchia có vũ
trang đã thâm nhập lãnh thổ Thái Lan và
tấn công các làng Ban Noon Đô, Ban
Klôông Kô và Ban Noi-pa-rai nằm bên
trong lãnh thổ Thái Lan. Khmer Đỏ sử
dụng những loại vũ khí tàn sát, càn quét 3
làng này vào giữa đêm khuya. Tại Ban
Noon Đô, 21 người Thái bị giết, trong đó
có cả phụ nữ có thai và trẻ sơ sinh, tất cả
nhà cửa đều bị đốt trụi. Tại Ban Klôông
Kô, 9 người Thái bị giết, tất cả nhà cửa bị
đốt trụi. Tại khu vực này, toàn bộ 200 dân
làng bị buộc phải bỏ nhà và rất nhiều người
bị thương. Trước khi bị đánh đuổi trở lại
bên