Giai đoạn 2000-2008 ,hoạt động của Tổ công tác quốc gia (NWG), nay là Việnquản lý
rừng bền vững và chứng chỉ rừng (SFMI) nhằm thúc đẩy tiến trình QLRBV ở Việt nam đã thu
được một số kết quả đáng kể, đó là đã dự thảo bộ tiêu chuẩn QLRBV quốc gia, khảo sát áp
dụng thử, đánh giá mức độ mạnh yếu của công tác quản lý rừng đối với các chủ rừng nhà
nước, tư nhân nhằm lập kế hoạch xây dựng mạng lưới các khu rừng quản lý tốt.
SFMI cũng đã tổ chức nhiều hội thảo, diễn đàn truyền thông để giúp lãnh đạo các
tỉnh, các lâm trường và các ngành khác am hiểu về phong trào QLRBV và CCR trên thế giới
và tại Việt nam. Bản thân SFMI cũng tự củng cố mở rộng, gia nhập FSC quốc tế và xây dựng
năng lực để tiếp tục các hoạt động tốt hơn, nhanh hơn, đặc biệt từ 2006 khi 1 doanh nghiẹp
trồng rừng đầu tiên ở Quy Nhơn Việt Nam được nhận chứng chỉ.
Báo cáo này cũng đánh giá những thuận lợi, triển vọng của tiến trình QLRBV và cũng
nêu ra các khó khăn thử thách đã và đang vấp phải. Từ đó đề ra nhiệm vụ hoạt động của
SFMI trong hoàn cảnh và đặc điểm của Việt nam từ khi Thủ tướng chính phủ phê duyệt
“Chiến lược lâm nghiệp quốc gia 2006–2020” trong đó có 3 Chương trình phát triển trọng
điểm, mà chương trính thứ nhất là Quản lý rừng bền vững.
58 trang |
Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 576 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng ở Việt nam, cơ hội và thách thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
15.10.2008
1
TẬP HUẤN TCTY GIAY VỀ QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG VÀ CHỨNG CHỈ RỪNG
PHU THO , 27 / 11 / 2008
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Quản lý rừng bền vững
và chứng chỉ rừng ở Việt nam,
Cơ hội và thách thức
***
15.10.2008
2
Quản lý rừng bền vững (QLRBV)
TÓM TẮT
Giai đoạn 2000-2008 ,hoạt động của Tổ công tác quốc gia (NWG), nay là Việnquản lý
rừng bền vững và chứng chỉ rừng (SFMI) nhằm thúc đẩy tiến trình QLRBV ở Việt nam đã thu
được một số kết quả đáng kể, đó là đã dự thảo bộ tiêu chuẩn QLRBV quốc gia, khảo sát áp
dụng thử, đánh giá mức độ mạnh yếu của công tác quản lý rừng đối với các chủ rừng nhà
nước, tư nhân nhằm lập kế hoạch xây dựng mạng lưới các khu rừng quản lý tốt.
SFMI cũng đã tổ chức nhiều hội thảo, diễn đàn truyền thông để giúp lãnh đạo các
tỉnh, các lâm trường và các ngành khác am hiểu về phong trào QLRBV và CCR trên thế giới
và tại Việt nam. Bản thân SFMI cũng tự củng cố mở rộng, gia nhập FSC quốc tế và xây dựng
năng lực để tiếp tục các hoạt động tốt hơn, nhanh hơn, đặc biệt từ 2006 khi 1 doanh nghiẹp
trồng rừng đầu tiên ở Quy Nhơn Việt Nam được nhận chứng chỉ.
Báo cáo này cũng đánh giá những thuận lợi, triển vọng của tiến trình QLRBV và cũng
nêu ra các khó khăn thử thách đã và đang vấp phải. Từ đó đề ra nhiệm vụ hoạt động của
SFMI trong hoàn cảnh và đặc điểm của Việt nam từ khi Thủ tướng chính phủ phê duyệt
“Chiến lược lâm nghiệp quốc gia 2006–2020” trong đó có 3 Chương trình phát triển trọng
điểm, mà chương trính thứ nhất là Quản lý rừng bền vững.
1- KHUNG CẢNH
Trong thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, nhân loại đứng trước thảm hoạ suy thoái
môi trường trên toàn cầu nên đã đề ra nhiều giải pháp bảo vệ và phục hồi môi trường, trong
đó có phong trào quản lý rừng bền vững. QLRBV là sáng kiến của cộng đồng quốc tế do
những người chế biến, tiêu thụ gỗ cam kết chỉ sử dụng và lưu thông trên mọi thị trường thế
giới những sản phẩm gỗ nào được khai thác hợp pháp từ các khu rừng đã được quản lý bền
vững. Muốn vậy, chứng chỉ rừng và chứng chỉ gỗ được áp dụng như là một công cụ hữu hiệu
để buộc mọi chủ rừng đảm bảo quản lý rừng bền vững về cả 3 phạm trù: kinh tế, môi trường,
xã hội.
Hợp tác về lâm nghiệp trong khối ASEAN những năm vừa qua tập trung chủ yếu vào
quá trình QLRBV, từ đó một diện tích tuy còn hạn chế nhưng đã được cấp chứng chỉ đầu tiên
tại Malaysia, Indonesia, Philippines, Thái lan, trong 3 năm vừa qua. Động lực kích thích các
chủ rừng phấn đấu để đạt được chứng chỉ rừng là không những được quyền xuất khẩu vào
mọi thị trường quốc tế, mà còn được hưởng giá cao so với gỗ nội địa. Có thể coi chứng chỉ
rừng chính là chứng chỉ ISO-9000, ISO-1400 nhưng đặc thù cho các doanh nghiệp quản lý
kinh doanh rừng, sản xuất gỗ và lâm sản. Chính vì vậy tổ chức cấp chứng chỉ rừng phải là các
tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận quốc tế mới đảm bảo tính khách quan, công bằng và các
tổ chức cấp chứng chỉ phải dựa trên bộ tiêu chuẩn có đủ các tiêu chí quản lý rừng bền vững
tương đương nhau ở mọi vùng cả về kinh tế, môi trường và xã hội.
15.10.2008
3
Việt nam tham gia quá trình này từ năm 1998 tới nay, tuy chưa cấp chứng chỉ được
khu rừng nào, nhưng được sự hưởng ứng của các cấp quản lý chính quyền, sự hăng hái tự
nguyện của mọi chủ rừng, tiến trình QLRBV đã đạt được một số tiến bộ đáng kể, đặc biệt là
tại các vùng khai thác gỗ, chế biến gỗ xuất khẩu. Ngày nay, biến đổi khí hậu đang đe doạ sự
tồn vong của loài người thì QLRBV là biện pháp chủ động củ con người để ngăn chặn giảm
thiểu nguyên nhân thay đổ lkí hậu
Song, nhiều trở ngại đặc thù của Việt nam cũng xuất hiện, đó là quá trình chuyển đổi
các chủ rừng quản lý theo cơ chế bao cấp nhà nước như một đơn vị sự nghiệp công ích lâm
nghiệp sang hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo pháp luật. Trước đây, đơn vị quản
lý rừng đều thuộc Nhà nước, gọi là lâm trường quốc doanh (LTQD) và được thành lập theo
kết cấu tổ chức hành chính với đa chức năng tại các vùng miền núi, dân tộc ít người, dân trí
thấp, hạ tầng chưa mở mang. Ngoài việc quản lý rừng, khai thác gỗ còn được cấp kinh phí để
giữ gìn an ninh, vận động nhân dân thực hiện mọi chính sách xã hội, văn hoá, y tế, giáo dục,
khuyến nông, khuyến lâm, xây dựng làng bản và cơ sở hạ tầng. Các chính sách tổ chức kinh
doanh quản lý đều do Nhà nước chỉ đạo, cho phép, mà chính sách lại thay đổi quá nhiều, quá
nhanh, từ một doanh nghiệp lâm nghiệp được kinh doanh toàn diện, lợi dụng tổng hợp trước
1980 chuyển sang chỉ được trồng rừng, bảo vệ rừng, bán cây đứng cho các doanh nghiệp khai
thác vận chuyển và tách hoạt động chế biến xuất khẩu riêng ra thành công ty riêng .... ở các
tỉnh miền Nam Việt nam, các kế hoạch trồng rừng, khai thác gỗ đều do Nhà nước cấp chỉ tiêu,
rất nhiều khi lâm trường không được tự làm mà bắt buộc phải thuê khoán cho dân hoặc các
doanh nghiệp khác tới làm. Từ đó lợi ích và động lực để chủ rừng quản lý rừng bền vững
nhằm xin cấp chứng chỉ bị loại trừ.
Tuy nhiên nhiều lâm trường và cơ quan quản lý cấp tỉnh đang tự xây dựng lại cơ chế
chính sách, giao quyền tự chủ kế hoạch, tự chủ tài chính cho lâm trường và quyết tâm đổi mới
lâm trường thành doanh nghiệp lâm nghiệp sản xuất lâm sản theo Quyết định 187/TTg (1999)
của Thủ Tướng Chính phủ và theo Nghị định số 200/ CP (2004) của Chính phủ về đổi mới tổ
chức và quản lý LTQD, và nghị quyết số 28 / NQTƯ của Bộ chính trị Trung ương Đảng về
tiếp tục sắp xếp đổi mới và phát triển nông lâm trường quốc doanh.
2. SỰ THAY ĐỔI CỦA RỪNG VÀ CHỦ RỪNG Ở VIỆT NAM
Việt nam có diện tích 33,123 triệu ha, trảI dài từ 6 đến 23 độ vĩ bắc với 80 triệu dân.
Hai vùng khí hậu có ảnh hưởng chính tới sự hình thành và phát triển thảm thực vật rừng; từ vĩ
tuyến 16 trở ra bắc có mùa nóng từ tháng 5 tới tháng 10 và tháng còn lại của năm là mùa lạnh;
từ vĩ tuyến 16 trở vào phía nam có mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4, các tháng còn lại
là mùa mưa. Điều này có ảnh hưởng quan trọng tới sự hình thành các kiểu rừng và sự đa dạng
sinh học cao của đất nước.
Trước kia Việt nam có nhiều khu rừng phong phú về chủng loại, bao phủ hầu hết toàn
đất nước. Theo nguồn điều tra rừng thì năm 1943 Việt nam có 14,3 triệu ha rừng hoặc chiếm
43% của toàn lãnh thổ. Hiện nay toàn bộ diện tích được phân loại là đất cho lâm nghiệp còn
17,08 triệu ha, chỉ có 9,44 ha là rừng tự nhiên, 1,47 triệu ha là rừng trồng. Đất trống thoái hoá
đã lên tới hơn 7 triệu ha (bảng 1)
Bảng 1: Thay đổi diện tích rừng ở Việt nam từ giai đoạn 1943-2005
Diện tích rừng 1000 ha Rừng Thay ®æi
15.10.2008
4
Năm
Tự nhiên
Trồng
Tổng
bao
phñ%
Ha/
ngê
i
(1990-2005)
(1000ha
(%)
1943 14,300 0 14,300 43,0 0,70
1976 11,077 92 11,169 33,8 0,22
1980 10,186 422 10,608 32,1 0,19
1985 9,038 584 9,892 30,0 0,16
1990 8,430 745 9,175 27,8 0,14
1995 8,252 1,050 9,302 28,2 0,12
2000 9,444 1,471 10,915 33,2 0,14
2005 10,283 2,334 12,617 36,4 0,16 +2,432 + 2,1
2005 ĐNA* 183,914 19,973 203,887 46,8 0,40 - 2,324 - 1,1
2005 TG * 3,765,292 186,733 3,952,025 30,3 0,60 - 7,317 - 0,2
+ ĐNA: Đông nam á
+ TG: Thế giới
(Theo: .State of the World’s Forests. FAO., Rome, Italy. 2007)
Trước khi rà soát và điều chỉnh diện tích 3 loại rừng thì trong 10,915 triệu ha rừng tự nhiên thì
có 4,040 triệu ha rừng sản xuất, 5,350 triệu ha rừng phòng hộ và 1,525 triệu ha rừng đặc dụng.
Trong rừng sản xuất chỉ có 9% rừng giàu (với trữ lượng từ 150m3/ha) và 33% rừng trung bình
(80-150m3/ha), 58% rừng nghèo và rừng non mới phục hồi chưa thể tổ chức khai thác lợi
dụng ngay .
Trong điều kiện phong phú của khí hậu , đất đai, địa lý, rừng Việt nam được phân loại
thành các kiểu chính ghi trong bảng 2. Đây là những giá trị đặc biệt quý của các hệ sinh tháI
rừng nhiệt đới, cũng là đối tượng để quản lý bền vững.
Bảng 2: Các kiểu rừng Chủ yếu (2000)
Loại rừng Diện tích(1000ha)(%)
Rừng kín nhiệt đới lá rộng thường xanh và nửa rụng lá 5.649 51,7
Rừng kín rụng lá thấp và á nhiệt đới 935 8,6
Rừng kín nhiệt đới lá kim và hỗn loại lá kim lá rộng 77 0,7
Rừng kín nhiệt đới tre nứa và tre nứa hỗn loại 1.416 13,0
Rừng ngập mặn 60 0,5
Rừng tràm 11 0,1
Rừng non táI sinh tự nhiên 1.296 11,9
Tổng cộng rừng tự nhiên 9.444 8,7
Rừng trồng 1.471 13,5
Tổng cộng rừng bao phủ 10.915 100,0
Với điều kiện khí hậu và địa lý của đất nước như vậy đã tạo nên hệ động thực vật
phong phú ước khoảng 12.000 loài cây trong đó có 7.000 loài thực vật cao cấp, 620 loài nấm
và 820 loài tảo. Có 1.186 loài đặc hữu của Việt nam và hơn 823 loài đặc hữu của Đông
Dương. Hệ động vật ở Việt nam cũng là một hệ phong phú của thế giới với 273 loài có vú,
826 loài chim, 180 loài bò sát 80 loài lưỡng cư, khoảng 2.600 loài cá, và hàng ngàn loài giáp
xác và không xương sống. Đặc biệt trong giai đoạn 1992-1997 4 loài mới được phát hiện thì
có 2 loài có vú là mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis) và sao la (Pscudoryx
nghetinhhensis).
15.10.2008
5
Để động viên người dân tham gia bảo vệ rừng và tái tạo rừng chính phủ Việt nam đã
đưa ra một loạt chính sách khuyến khích lâm nghiệp cộng đồng như chính sách giao đất rừng
với quyền sử dụng đất 50 năm, giảm và miễn thuế sử dụng đất, tỷ giá vay tín dụng thấp cho
đầu tư trồng rừng, hỗ trợ kỹ thuật v.v.đã ký hợp đồng với dân về quản lý và bảo vệ rừng.
Thực hiện các chính sách thành công hàng trăm ngàn hộ gia đình đã được giao đất lâm nghiệp
để trồng rừng và cây nông nghiệp, phần lớn diện tích đất trống đồi núi trọc đã xanh lại, cuộc
sống và môi trường của người miền núi đã được cải thiện đáng kể.
Từ năm 1985 thực hiện xã hội hoá ngành lâm nghiệp, các khu rừng không chỉ thuộc sự
quản lý của chính phủ mà thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau,, sự thay đổi về chủ rừng
đã được chỉ rõ trong bảng 3 tại năm 2005.
Bảng 3: Sự phân bố diện tích rừng theo loại chủ rừng năm 2005
STT
Chủ rừng
Diện tích rừng
(1000 ha)
(%)
1
2
3
4
5
6
7
Lâm trường quốc doanh
Ban quản lý rừng phòng hộ
Ban quản lý rừng đặc dụng
Liên doanh
Các tổ chức (Hội cựu chiến binh, hội phụ nữ)
Cộng đồng, HTX
Quân đội, công an, cá nhân, hộ gia đình
------------------------------------------------------
Cộng
3,030
1.406
1.657
54
285
297
2.871
-------------------
9,600
24.6
11.4
13.5
0.4
2,3
2,4
23,3
--------
78,0
8
-------
Rừng chưa giao
------------------------------------------------------------
Tổng cộng
2,707
----------------------
12,307
22,0
---------
100,0
Nguồn :FIPI- 2006
3- HOẠT ĐỘNG CỦA NWG, SFMI VÀ HIỆN TRẠNG QLRBV
Song song với việc tổ chức triển khai các chương trình trồng 5 triệu ha rừng, chương
trình xã hội hoá ngành lâm nghiệp, Việt nam đã khởi động tiến trình QLRBV bằng Hội thảo
quốc gia 2/1998 tại TP Hồ chí Minh do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, WWF Đông
Dương, Đại sứ quán Hà lan và FSC đồng tổ chức. Hội thảo đã đề ra chương trình QLRBV và
thành lập Tổ công tác quốc gia về QLRBV và CCR viết tắt là NWG và ngay từ đầu đã thu hút
nhiều tổ chức Chính phủ (Cục Lâm nghiệp, Cục Kiểm lâm, Cục Môi trường, Cục Định canh
định cư, Vụ chính sách, Tổng cục Đo lường và chất lượng sản phẩm, Viện Điều tra quy hoạch
rừng, Viện Khoa học Lâm nghiệp, nhiều lâm trường quốc doanh) nhiều tổ chức phi chính phủ
(Hội Khoa học kỹ thuật Lâm nghiệp, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Công ty tư vấn pháp luật) và
nhiều nhà khoa học, nhà xã hội học, nhà môi trường, nhà hoạt động dân tộc và giới.....tham
gia. Các tổ chức quốc tế đang hoạt động tại Việt nam tỏ ra rất nhạy bén trước tiến trình
QLRBV nên đã hợp tác chặt chẽ và hỗ trợ kinh phí, chuyên gia, phương pháp cho NWG hoạt
động, trong đó có WWF, IUCN, FAO, dự án GTZ, quỹ FORD..
Trong nhưng năm qua, việc đầu tiên là NWG đã tham gia cùng các nước ASEAN dự
thảo bộ tiêu chuẩn QLRBV theo 7 tiêu chí của Tổ chức Gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO) đồng
15.10.2008
6
thờì dự thào bộ tiêu chuẩn QLRBV cho Việt nam theo 10 nguyên tắc của FSC qua 9 lần hội
thảo quốc gia và các tỉnh. Đến tháng 2/2007 đã nhận được sự đánh giá chính thức và bình
luận từ các tổ chức khác nhau. Đó là các cơ quan nhà nước: Tổng cục đo lường và chất lượng
sản phẩm, Vụ chính sách, Cục kiểm lâm, Viện điều tra quy hoạch rừng, Đại học lâm nghiệp,
Viện khoa học Lâm nghiệp, các Hội nông dân, phụ nữ , hội KHKTLN, Công ty luật, Tổng
công ty lâm nghiệp và nhiều nhà khoa học khác. Một loạt các cuộc hội thảo và truyền thông
được tổ chức tại các vùng mà lâm trường hàng năm còn đang khai thác gỗ trong rừng tự nhiên
như Huế 1999, Vinh 2000, Quy Nhơn 2001, Buôn Ma Thuột 2001, Gia Lai 2002, Hà Nội
2004, từ 2006 SFMI tiep tục tổ các hội thảo và khảo sát tại Trường Sơn, Quảng Bình, Hà Nội
(Đại lải) 2007 nhằm tuyên truyền tiến trình QLRBV và CCR không chỉ đối với các lâm
trường, các công ty, xí nghiệp lâm nghiệp chế biến xuất khẩu gỗ, mà còn thuyết minh, truyền
thông tới các cấp chính quyền, lãnh đạo tỉnh có rừng, các cơ quan quản lý lâm nghiệp để ủng
hộ và tham gia tiến trình này. NWG cũng đã đưa nội dung QLRBV vào bài giảng tham khảo
tại các lớp cao học của Đại học Lâm nghiệp và một số dự án quốc tế hỗ trợ kỹ thuật và phát
triển lâm nghiệp tại Việt nam như EU Nghệ An, EU Bắc cạn, Cao Bằng, KfW1, KfW3, WB3
...
Đã tiến hành các cuộc khảo sát nhằm xem xét tính khả thi của bộ tiêu chuẩn quốc gia
đang dự thảo đồng thời đánh giá trình độ quản lý của các đơn vị quản lý rừng (lâm trường,
công ty, tư nhân), so với các tiêu chí QLRBV để lập kế hoạch bổ sung, nâng cấp. Đó là các
lâm trường Dak N’tao (Đaklak); Hà Nừng, Trạm Lập, Dakrong, Sơpai (Gia lai); Mang Cành,
Kon Plong (Kontum); Bảo Lâm, Đạ Tẻ (Lâm Đồng); Hương Thuỷ (Thừa Thiên Huế); Ba
Rền, Long Đại (Quảng Bình); Hương Sơn (Hà Tĩnh); Con Cuông (Nghệ An), Cẩm Phả
(Quảng Ninh), Doanh nghiệp trồng rừng 327 tư nhân Đỗ Thập (Yên Bái), Công ty Lâm
nghiệp Hoà Bình, Ma D’rắc Đắc Lắc.
Đối với vùng trọng điểm 4 tỉnh Tây Nguyên, nơi còn khai thác nhiều gỗ nhất từ rừng
tự nhiên, cũng là nơi diện tích và chất lượng rừng bị suy giảm nhiều nhất ở Việt nam, NWG,
Cục Lâm nghiệp cùng WWF và Vụ chính sách đã có các hội thảo để từng tỉnh tự đánh giá
hiện trạng quản lý rừng của các lâm trường theo các tiêu chí của bộ tiêu chuẩn QLRBV (Buôn
Ma Thuột 2001), và hội thảo xây dựng chương trình cải cách tổ chức quản lý lâm trường theo
Quyết định 187/TTg của Thủ Tướng Chính phủ (Pleiku 2002) và chọn ra 4 lâm trường quản
lý tốt từ mỗi tỉnh đưa vào mạng lưới mô hình QLRBV là Công ty LN Kong Plong, Lâm
trường Hà Nừng, Lâm trường Dak N’tao, Lâm trường Bảo Lâm. Các công ty, xí nghiệp chế
biến xuất khẩu lâm sản được khuyến khích nâng cao quy trình giám sát chuỗi hành trình sản
phẩm, nhưng tới cuỗi năm 2003 cũng mới chỉ có 13 đơn vị được cấp chứng chỉ giám sát chuỗi
hành trình sản phẩm (CoC).
NWG trong quá trình hoạt động cũng tự củng cố, phát triển thêm các thành viên nữ,
dân tộc tại địa phương thay cho các thành viên ít có điều kiện tham gia. 10 thành viên NWG
đã tham gia nhập tổ chức FSC quốc tế và từ 2002 tổ chức FSC đã trợ giúp kỹ thuật trong tiến
trình QLRBV của NWG.
Đầu năm 2004, Lâm trường Trường Sơn (Công ty lâm công nghiệp Long Đại, Quảng
Bình), Công ty Lâm nghiệp dịch vụ Hương Sơn- Hà Tĩnh, Doanh nghiệp trồng rừng tư nhân
Đỗ Thập- Yên Bái đã nộp đơn xin cấp chứng chỉ FSC, NWG đã giới thiệu với WOODMARK
thuộc Hội Thổ nhưỡng Anh hướng dẫn bản khai để ký hợp đồng thẩm định, trong khi đó
WWF Đông dương đang giúp đỡ các lâm trường Hà Nừng và Sơ pai tăng cường công tác
quản lý rừng bền vững..
Gần đây, hàng loat lâm trường quản lý rừng tự nhiên và trồng rừng sản xuất, rất nhiều
công ty, xý nghiệp chế biến xuất khẩu lâm sản đang có nhu cầu tự thân tham gia quá trình
QLRBV và yêu cầu SFMI hướng dẫn, hỗ trợ, tư vấn để tự đánh giá năng lực quản lý rừng,
15.10.2008
7
năng lực giám sát chuỗi hành trình, song mới chỉ nhận được 1 chúng chỉ FSC về QLR va 150
chứng chỉ CoC.
Các mô hình thử nghiệm dù là QLR tự nhiên hay rừng trồng do chủ rừng tự làm, do
FAO, GTZ, WWF hỗ tợ được trình bày trong phần 3 là phần CCR.
4- CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
Mặc dù xu hướng chung về môi trường toàn cầu là sử dụng và đánh giá cao vai trò,
chức năng của rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên nhiệt đới trong việc khôi phục môi trường sinh
thái, giảm nhẹ thiên tai về thay đổi khí hậu, sa mạc hoá, tăng nồng độ CO2 trong không khí,
bảo vệ nguồn nước và cải tạo đất..... nhưng kinh nghiệm quản lý rừng ở Việt nam cho thấy
nếu khu rừng không gắn được với lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội cho dân sở tại hay cho chính
ông chủ rừng thì sẽ làm giảm động cơ tham gia của cộng đồng địa phương để bảo vệ và phát
triển rừng đồng thời là gánh nặng ngân sách của nhà nước.
Trong khi kim ngạch xuất khẩu hàng lâm sản của Việt nam mới ở mức 250-500 triệu
USD/năm 2004 tăng vọt lên gần 2 tỷ USD năm 2007 thì cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc
tế đã rất quyết liệt. Ngoài các nguyên nhân thông thường về giá thành, mẫu mã, chất lượng,
thương hiệu, vấn đề chứng chỉ QLRBV của gỗ đang nổi lên hàng đầu đối với ASEAN trong
đó có Việt Nam để được lưu thông trên mọi thị trường quốc tế. Đây cũng là động lực để các
doanh nghiệp, chủ rừng sản xuất gỗ và chế biến xuất khẩu gỗ vươn lên, vừa đảm bảo môi
trường và phúc lợi từ rừng bền vững, vừa ổn định lãi suất kinh tế cao khi nhận được chứng chỉ
rừng. Kết quả khảo sát nhiều lâm trường, xí nghiệp trong 4 năm qua của các tổ chức
SmartWood (được FSC uỷ quyền cấp chứng chỉ) Scancom, WWF và nhiều nhất là NWG đã
cho thấy mọi cấp chính quyền và hầu hết chủ rừng nhà nước cũng như tư nhân đều hăng hái
nhiệt tình tham gia quá trình QLRBV để được cấp chứng chỉ rừng. Động lực này các quốc
gia, các tổ chức đẫ vận dụng có hiệu quả và kinh nghiệm khác nhau .
Kết quả kiểm kê rừng tự nhiên công bố năm 2001 cho thấy, tổng trữ lượng gỗ toàn
quốc là 721 triệu m3 cây đứng. Nếu tổ chức quản lý kinh doanh hợp lý hàng năm có thể khai
thác tối thiểu 1%, tương đương 7 triệu m3, như vậy sau chương trình hạn chế khai thác rừng
tự nhiên nghèo kiệt (1997-2010), thường gọi là đóng cửa rừng tự nhiên trong 15 năm, sẽ
không chỉ có 105 lâm trường khai thác gỗ hiện nay mà sẽ lại tăng lên gấp 2 hoặc 3 lần với
tổng trữ lượng cây đứng 7 triệu m3/năm còn nằm dưới lượng tăng trưởng hàng năm của rừng.
Đã đến lúc cần phảI kiểm kê rừng tự nhiên sau 14 năn đóng cửa nuôi dưỡng để có quyết sách
cho phép khai thác những nơI nào đã phục hồi đầy đủ lên tong giàu và rừng trung bình về trữ
lượng gỗ .
Về thể chế. chính sách để đảm bảo đẩy mạnh quá trình QLRBV cho tới nay đã khá
đầy đủ và luôn được bổ sung kịp thời, mặc dù chưa đạt tới mức hoàn hảo, đó là Luật Đất đai
(1993), Luật Bảo vệ Phát triển rừng (1991), Luật Môi trường (1993), các luật sửa đổi, bổ sung
một số điều trong Luật Đất đai (1998-2000) cùng một loạt văn bản pháp quy dưới luật như
các nghị định, quyết định, thông tư, chỉ thị từ cấp Chính phủ, Thủ tướng, liên bộ, bộ,
tỉnh....trong đó có cả các luật và văn bản về tài chính, đầu tư, kiểm toán... đặc biệt là Quyết
định 187/1999/QĐ-TTg ngày 16-9-1999 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới tổ chức và cơ
chế quản lý LTQD để cởi trói, tránh sự lẫn lộn giữa đơn vị vừa kinh tế, vừa sự nghiệp và
nhiều nơi còn cả chức năng quản lý nhà nước sang hoạt động doanh nghiệp. Hệ quy trình quy
phạm về kiểm kê rừng, điều chế rừng, gây trồng rừng, làm giàu rừng, khai thác, chế biến lâm
sản đã là cơ sở khoa học công nghệ cho tiến trình QLRBV.
15.10.2008
8
Như vậy giai đoạn 5 năm đầu tiên có thể đánh giá là tốc độ còn chậm, trong khi một số
nước đang phát triển ở châu á, Phi đã đạt được một vài diện tích chứng chỉ như Trung Quốc,
Phillipin, Srilanka. Chúng ta có đủ điều kiện và khả năng đẩy mạnh hơn nữa quá trình này
trong những năm tới, một số chủ rừng và một số khu rừng đang quản lý