Quản lý trong thời đại bão táp

Các nhà quản lý đang đối mặt với thời đại bão táp. Vấn đề đầu tiên được đặt ra đối với họ là phải đảm bảo khả năng tồn tại của tổ chức mình, bằng cách tạo ra một cơ cấu lành mạnh, lâu dài, đứng vững trước những giông tố nhất thời, vượt qua được những biến động đột ngột, và có thể khẳng định mình trong những hoàn cảnh khắc nghiệt.

doc169 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1994 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý trong thời đại bão táp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Các nhà quản lý đang đối mặt với thời đại bão táp. Vấn đề đầu tiên được đặt ra đối với họ là phải đảm bảo khả năng tồn tại của tổ chức mình, bằng cách tạo ra một cơ cấu lành mạnh, lâu dài, đứng vững trước những giông tố nhất thời, vượt qua được những biến động đột ngột, và có thể khẳng định mình trong những hoàn cảnh khắc nghiệt. Những vấn đề cơ bản của quản lý mà chúng ta phải đương đầu, đó trước tiên là vấn đề lạm phát, khả năng thanh toán, nâng cao hiệu quả, cũng như “chi phí duy trì hoạt động” được gọi một cách sai lệch là “lợi nhuận”. Bởi vì chúng ta phải quản lý ngay cả chính tương lai của mình. Vì vậy, việc giải quyết những vấn đề cơ bản phải bắt đầu từ việc bứt ra khỏi quá khứ, vạch ra một chính sách một chiến lược tăng trưởng có mục tiêu. Ở đây chúng ta cần phải học tập cách nhìn nhận một sự tăng trưởng lành mạnh và hiện thực; phải lựa chọn được những chiến lược đúng đắn nhất từ những chiến lược hiện có. Điều này đòi hỏi những người quản lý phải có khả năng ngay từ hôm nay, đánh giá được những kết quả quản lý trong nhiều lĩnh vực khác nhau, có tính quyết định cho những kết quả ngày mai cuả kinh doanh. “Những cơn bão táp” mặc dù được định nghĩa một cách đơn giản là những biến động bất thường, không tuyến tính và không dự đoán trước được, nhưng ít nhất chúng ta cũng có một khả năng phân tích những nguyên nhân của nó để đề phòng và có thể chế ngự nó. Điều đó có nghĩa là, quản lý phải ở trong một trạng thái có khả năng luôn luôn chịu đựng được sự chi phối của những rối loạn hiện thời, chẳng hạn như sự biến đổi hết sức to lớn của cơ cấu dân số và phát triển dân số là nét đặc trưng nhất của các nước công nghiệp phương Tây và Nhật Bản. Sự biến đổi này đã gây ra những thay đổi trong các nguyên tắc của liên kết kinh tế trên toàn thế giới, và sớm muộn cũng sẽ dẫn tới việc ra đời một “hiệp hội xuyên quốc gia mới”. Hiệp hội này dựa trên nguyên tắc phân công lao động và kiểm soát thị trường; trong nhiều lĩnh vực, nó sẽ thay thế vị trí của các tập đoàn đa quốc gia hiện hay (dựa trên cơ sở kiểm soát tài chính). Sự thay đổi cơ cấu dân cư và tính năng động của nó sẽ tạo nên những thị trường tiêu thụ mới và phân chia mới những thị trường cũ. Chúng sẽ làm thay đổi nhanh chóng toàn bộ cung về lao động buộc chúng ta phải xem xét lại quan điểm lứa tuổi nghỉ hưu bắt buộc. Một vấn đề nữa đặt ra cho công tác quản lý là phải giải quyết vấn đề dư thừa cũng như nạn thất nghiệp có tính chất cơ cấu. Ngoài ra còn xuất hiện một loạt những sự phát triển mới có tính chất ngoại biên, những cơ hội mới và những nguy cơ mới buộc những người có trách nhiệm trong kinh tế và hành chính phải hành động một cách có kế hoạch và theo một chính sách có mục tiêu. Ví dụ đó có thể là sự liên kết lâu dài trong nền kinh tế thế giới, sự phân tán ngày càng tăng về mặt chính trị của trật tự thế giới, hoặc là sự xuất hiện một xã hội những “người cộng tác” trong tất cả các nước công nghiệp phát triển và tiếp theo là thực trạng và sự phát triển chính trị đã thay đổi một cách cơ bản. Trong lĩnh vực công nghệ, chúng ta đang ở vào thời kỳ của giai đoạn bão táp, với những đổi mới kế tiếp nhau một cách nhanh chóng và với những thay đổi cơ cấu đến tận gốc. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, kế hoạch hóa có một giá trị cực kỳ to lớn. Về nguyên tắc, nó vạch ra những xu hướng của quá khứ và phản chiếu chúng vào tương lai; ở đây có thể xảy ra một sự pha trộn của từng nhân tố riêng lẻ, nhưng “hình thái”, cơ cấu cơ bản vẫn giữ nguyên. Điều này cũng sẽ đi vào quá khứ, bởi vì thời đại sắp tới là thời đại đầy biến động và bão táp. Nó không cho phép “kế hoạch hóa” mà nhiều nhất chỉ là dự báo. Nó còn đòi hỏi những chiến lược định hướng vào tương lai một cách xác định; trong đó có thể vạch rõ hình thái cũng như địa điểm của những thay đổi lớn nhất tạo điều kiện có một đơn vị kinh doanh tận dụng một cách có lợi nhất những tình hình mới. Tất nhiên một thời đại đầy biến động sẽ ẩn chứa trong nó những mối nguy cơ, trong đó mối nguy cơ lớn nhất là sự phủ nhận hay xuyên tạc sự thật. Những thực tế mới sẽ diễn ra hoàn toàn khác hẳn với những tưởng tượng của các nhà cánh tả và cánh hữu, và với những điều mà “mỗi người đều biết”. Nó cũng không đúng với quan niệm của những người cố níu lấy thực tế mà không phụ thuộc vào quan điểm chính trị của họ. Mặt khác, thời kỳ bão táp cũng tạo ra những khả năng bất ngờ để có thể hiểu biết, chấp nhận và tận dụng những thực tế mới. Đồng thời cũng là một cơ hội lớn để có thể chứng tỏ chất lượng lãnh đạo. Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ ►I - THÍCH ỨNG VỚI LẠM PHÁT Trong thời đại bão táp, điều quan trọng trước hết đối với các cơ sở kinh doanh là, một mặt phải có khả năng chống đỡ những “giông tố” có thể xảy ra, và mặt khác phải luôn ở trong trạng thái có thể tận dụng được những cơ hội bất ngờ xuất hiện. Muốn vậy, phải nhận thức được một cách đúng đắn những vấn đề cơ bản của quản lý để giải quyết một cách toàn diện. Ngược lại dòng thời gian 55 năm về trước, kể từ kế hoạch Marshall đến Tổ chức OPEC, tất cả đều bị trói buộc, dù ít hay nhiều, vào “một sợi xiềng nhỏ”: người ta có thiên hướng duy trì một cách “chắc chắn” các đơn vị cơ sở. Nhưng nếu người ta không quan tâm một cách liên tục và có lương tri tới các vấn đề cơ bản, thì chắc chắn sẽ phải gánh chịu một sự tồi tệ. Mối nguy cơ lớn nhất ngày nay đang đe dọa các cơ sở kinh doanh và các cơ quan công cộng không gì khác hơn là thái độ thù địch của công chúng đối với nền kinh tế, sự hủy hoại môi trường, những sự căng thẳng quá mức trong lĩnh vực năng lượng, lạm phát thế giới, và nói chung là sự tồi tệ của tình hình cơ bản của thế giới. Nguyên do là, sau một thời gian dài của sự yên tĩnh tương đối, bao giờ cũng nảy sinh mối nguy cơ, xuất hiện những điểm yếu tiềm ẩn ngoài sự mong đợi. Những vấn đề cơ bản của quản lý không thay đổi. Nhưng những điều kiện bên trong và bên ngoài thì thay đổi. Do vậy, những khả năng giải quyết phải được thay đổi. Để có thể bảo đảm được sự tồn tại và thành công của cơ sở mình, một nhà quản lý trong thời đại bão táp buộc phải đối đầu với những đòi hỏi mới mẻ và rất khác nhau, chẳng hạn đối với khả năng thanh toán, hiệu quả và chi phí trong tương lai. Lãnh dạo một cơ sở, do vậy là nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà quản lý. Nói chung, để có thể quản lý được, trước hết phải nắm được những sự kiện quan trọng. Nhưng điều này không phải bao giời cũng được những người lãnh đạo quan tâm. Hơn nữa, các sự kiện này thường bị phản ánh một cách lệch lạc do lạm phát làm biến dạng. Những sự kiện này thường được biểu thị bằng thước đo giá trị của đồng tiền và được dùng làm cơ sở chủ yếu và cụ thể cho nhà quản lý khi ra quyết định. Vì vậy, những số liệu quan trọng nhất của một cơ sở, như doanh số, tình trạng tài chính, nợ và có, cũng như thu nhập…, trước hết phải được “giải lạm phát”. Trong 10 năm, từ năm 1970 đến 1980 ở các nước công nghiệp phương Tây và Nhật Bản đã có rất nhiều hãng buôn tuyên bố đạt được những “lợi nhuận kỷ lục”, mặc dù trong số đó chỉ có một số rất ít (nếu không muốn nói là không) đạt được lợi nhuận thực sự. Bởi lẽ, lạm phát có thể được định nghĩa là một sự phá hoại một cách có hệ thống khả năng (nguyên liệu, tài sản) thông qua nhà nước. Do vậy mà trong những thời kỳ giá cả tăng liên tục thì thực tế không có lợi nhuận. Nhiều người đã cảm nhận được điều này bằng cách thức riêng của mình mà không cần hiểu một cách có lý trí. Bởi lẽ, sự công bố những “lợi nhuận kỷ lục” đã đụng chạm đến thị trường chứng khoán và gây ra một sự hoài nghi lớn, một sự phủ nhận mạnh mẽ trong đông đảo công chúng. Điều quyết định đối với chúng ta là ảo tưởng này-việc đạt được những lợi nhuận khổng lồ-đã dẫn đến những biện pháp sai, những quyết định không đúng, những phân tích kinh doanh méo mó, từ đó dẫn đến cách quản lý sai lầm. Mặc dù vấn đề trên hoàn toàn không xa lạ đối với phần lớn những người lãnh đạo, nhưng cho đến nay cũng chỉ mới có một số ít người tìm tòi, thử nghiệm để có thể sửa chữa được những thông tin không đúng do lạm phát gay ra. Ở đây có một cách sửa chữa đơn giản và quen thuộc: những số liệu về doanh số, giá tồn kho, các khoản nợ nần, tư bản hiện có và khấu hao của nó, cũng như thu nhập, bắt buộc phải thích ứng với tỷ lệ lạm phát. Với cách làm này, vấn đề đặt ra không phải là đưa ra những giá trị chính xác mà là những giá trị với xác suất tương đối cao có thể chấp nhận được . Nếu không có một sự sửa chữa như vậy, thì ngay những người lãnh đạo có khả năng nhất cũng bị gục ngã trước những ảo tưởng do lạm phát gây ra. Một điều rất tệ hại là sự tự lừa dối khi người ta coi “thu nhập” như là “lợi nhuận” đích thực. Thực ra thu nhập này chỉ đơn giản được ta ra trong quá trình hoạt động của cty, và sau một thời gian vốn hoạt động của nó thấp hơn so với ban đầu. Dù sớm hay muộn, nhưng thường là sớm, vốn phải được bồi hoàn, và sau đó thu nhập thu được bắt buộc phải đủ để có thể bù đắp được chi phí tư bản (chi phí vốn) vào thời điểm tái đầu tư. Sự thích ứng với lạm phát bắt buộc phải dựa trên góc độ vốn. Và do vậy, một nguyên tắc ngự trị ở đây là lãi suất hoặc lợi nhuận cho vốn có tính chất dài hạn bắt buộc tối thiểu phải bằng tỉ lệ lạm phát. Lợi nhuận ghi nhận đối với số lưu kho không bao giờ là lợi nhuận đích thực. Hoặc là lạm phát chững lại, và số lượng lưu kho bắt buộc phải được bù đắp trở lại với giá cả trong tương lai cao hơn, hoặc là khi lạm phát chấm dứt, lợi nhuận ghi nhận lập tức chuyển thành thiệt hại. Trong hai trường hợp này, thực chất của vấn đề là dự trữ an toàn trong trường hợp lợi nhuận ảo. Lý do khiến cho các nhà lãnh đạo ở phần lớn các nước và trong số lớn các cơ sở kinh doanh không tiến hành sửa sai do lạm phát gây ra là cho rằng, sự tăng giá chỉ là một hiện tượng có tính nhất thời. Dĩ nhiên, người ta không thể coi cách nhìn nhận như vậy là đúng đắn sau 15 năm lạm phát liên tục. Một lý do khác là, phần lớn các chính phủ-trừ một số ngoại lệ như Braxin- đã nhắm mắt trước những kết quả đầy tính chân lý của lạm phát. Đặc biệt trong thế kỷ XX, với hệ thông thuế thu nhập lũy tiến thì họ là những người chủ yếu-tận hưởng sự tăng giá, và do vậy, họ không hứng thú gì khi vạch trần những hậu quả thực tế. Ở những nước như vậy, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, hệ thông thuế đã góp phần lớn vào sự tự lừa dối mình của các nhà quản lý. Bởi vì hệ thông thuế của Hoa Kỳ ủng hộ các quyền về cổ phần và tiền thưởng lợi nhuận được tính theo lợn nhuận hợp pháp, do đó quyến rũ các nhà quản lý tuyên bố số thu nhập đã được lạm phát hóa (càng cao bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu). Tuy nhiên, ở những nước không có một “sự hấp dẫn” như trên-ví dụ như ở Nhật Bản-thì các nhà lãnh đạo, cho đến nay vẫn chống lại một cách kiên quyết tất cả mọi cố gắng nhằm làm giảm số lợi nhuận hợp pháp của họ. Lý do chủ yếu ở đây là sự kiêu ngạo: đơn giản là họ muốn khoe khoang lợi nhuận kỷ lục, ngay cả khi họ biết rằng những con số cũng có thể là giả dối và về cơ bản không còn trung thực nữa. Một lập luận ngược lại, thường do các nhà kế toán nêu ra là các con số không cần phải sửa chữa lại bởi vì cho đến nay vẫn chưa có một phương pháp tốt hơn để giải quyết. Chúng ta cũng cần chú ý rằng, phần lớn những con số do các nhà kế toán tính toán tới từng xu cũng chỉ là những ước đoán “có thể nhất”-có thể có một tỷ lệ sai lệch khoảng 20%. Từ những điều nói trên, có thể rút ra kết luận: sự không thích ứng của những số liệu ở doanh nghiệp đối với lạm phát chỉ vì sự tiện lợi là một sự vô trách nhiệm. Do vậy, trên phương diện này, nếu quản lý muốn giải quyết được các vấn đề của thời đại ngày nay thì phải bắt dầu một cách chính xác, nếu không, không những sẽ làm thất vọng những người khác, mà cuối cùng tự mình đánh mất niềm tin ở chính mình. ►II - DUY TRÌ KHẢ NĂNG THANH TOÁN VÀ SỨC MẠNH TÀI CHÍNH Trong những năm qua, người ta thường nói giá trị cổ phiếu quá thấp, và nhiều cty đã bị bán theo một tỷ lệ giá cả, lợi nhuận thấp một cách nực cười, thậm chí có khi dưới giá trị kế toán, hay còn gọi là gá trị thanh toán. Những lời than phiền trên đây phần lớn hoặc hoàn toàn không được giải thích. Thông thường, ngay cả đối với trường hợp ngược lại, tủy theo sự không an toàn trong hiện tại và tương lai mà giá trị cổ phiếu thậm chí có thể được đánh giá quá cao, nguyên do là người ta đã sửa tất cả các tài khoản của doanh nghiệp cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát, do vậy mà lợi nhuận có thể trở thành thua lỗ. Ngày nay, để mô tả tỷ lệ giá cả, lợi nhuận thấp, người ta có thể sử dụng tỷ lệ tương đối cao giữa năng suất và các đơn vị tiền tệ ổn định và giá trị cổ phiếu. Trong trường hợp sửa chữa các số liệu cân đối xoay quanh tỷ lệ lạm phát, các giá trị kế toán của cty, đặc biệt là của xí nghiệp sản xuất, có thể bị hạ thập một cách rõ rệt, và tổng “có” thậm chí rất có thể thấp hơn giá trị của tổng “nợ”. Nhưng điều đảng quan tâm là, thì trường chứng khoán ngày càng đánh giá các cty theo khả năng thanh toán mà không theo lợi nhuận. Để phù hợp với điều đó, các số liệu sổ sách, khi so sánh với các thị trường lớn, tốt hơn là theo phương pháp Cash Flow (dòng tiền mặt), và khả năng thanh toán được xem là những số liệu về lợi nhuận đã được chỉnh lý theo lạm phát. Và thị trường đã có lý, bởi vì, trong những thời kỳ đầy biến động, khả năng thanh toán quan trọng hơn là thu nhập. Do vậy một tổ chức của tư nhân hay nhà nước có thể đứng vững mà không cần phải trải qua những thời kỳ tương đối dài của lợi nhuận thấp hoặc năng suất thấp, khi lượng tiền mặt và sức mạnh tài chính của họ không có vấn đề gì nghiêm trọng. Khả năng tài chính trong thời kỳ lạm phát là một số đo tin cậy hơn là lợi nhuận. Trong thời kỳ bão táp, cân đối trở nên quan trọng hơn là hạch toán lỗ lãi. Điều này có nghĩa là, công tác quản lý phải cố gắng đạt được một sức mạnh tài chính hơn là lợi nhuận cao, và trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải biết được chỉ số tối thiểu về khả năng thanh toán mà cty cần có để duy trì sự tồn tại của mình. Vấn đề có tính quyết định đặt ra là: cần phải có bao nhiêu tư bản lao động để cty có thể vượt qua được khủng hoảng kéo dài 90 hay 120 ngày? Sau thời điểm này là “tình trạng bình thường” mới được thay thế. Dĩ nhiên, trong khủng hoảng, một cty hoặc bắt buộc phải có khả năng tự nổi lên mặt nước mà không cần có sự giúp đỡ từ bên ngoài, hoặc là nó sẽ dẫn đến sụp đổ. Trong thời kỳ biến động, một cty không thể tiếp tục tiến lên, nếu suy nghĩ rằng trong trường hợp khủng hoảng, có thể chờ đợi tình trạng thắt chặt tín dụng hoặc một sự giảm phát đột ngột. Vì vậy, người lãnh đạo của một cty cần phải chăm lo tới sức mạnh tài chính, khả năng thanh toán, doanh số và vị trí thị trường, cũng như sự đổi mới và lợi nhuận. Thực ra, khả năng thanh toán không phải là mục đích tự thân, song trong những thời kỳ không an toàn thì nó trở thành một giới hạn quyết định cho sự tồn tại của doanh nghiệp. ►III - NÂNG CAO HIỆU QUẢ LÀ NHIỆM VỤ CÓ TÍNH CHỈ ĐẠO. Việc sử dụng có hiệu quả các nguồn-cũng như tư duy, hoạt động kinh doanh, và quản trị-là một trong những nhiệm vụ đặc trưng của quản lý. Lịch sử của quản lý, với chức năng xã hội đặc trưng của nó, được bắt đầu cách đây 100 năm với việc phát hiện ra hiệu quả của các nguồn lực được nâng cao nhờ quản lý một cách thích hợp. Nhiệm vụ này chỉ có thể giải quyết nhờ vào nhà quản lý. Không phải tự nhiên, cũng không phải các quy luật kinh tế, và cũng không phải sự ban hành pháp luật nhà nước có thể giải quyết được vấn đề đó. Ở đây, việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, bất kỳ là trong một doanh nghiệp, một cty, một bệnh viện, một bến cảng hay một phòng thí nghiệm nghiên cứu, luôn luôn là trách nhiệm của nhà quản lý. Vào năm 1875, nhận thức của Taylor về lao động đã tạo nên một bước ngoặt. Theo ông, lao động có thể được phân công một cách hợp lý, và do vậy mà trở nên có hiệu quả hơn. Nhưng điều này chỉ có thể thực hiện được nếu lao động ngày càng trở nên nặng nhọc hơn và kéo dài hơn. Taylor đã nhìn nhận ra rằng nhờ lao động một cách “thông minh hơn” mà sản lượng đạt được sẽ cao hơn, và không phải chỉ do người công nhân có trách nhiệm về hiệu quả lao động của mình mà còn do nhà quản lý. Taylor tuy không để lại cho chúng ta lý thuyết sản xuất, nhưng ông là người đầu tiên đã nhận thức được hiệu quả đạt được nhờ vận dụng tri thức con người-nhân tố đặc trưng của tư bản nhân lực-dựa trên lao động của con người. Ngày nay người ta ngày càng nhận thức được một cách rõ ràng hơn về quan hệ giữa tri thức và lao động do Taylor phát hiện. Chúng ta đều biết, một học thuyết kinh tế có giá trị bắt buộc phải dựa trên hiệu quả với tư cách là nguồn gốc của các giá trị kinh tế. Học thuyết về giá trị lao động của thế kỷ XIX đã trở nên sai lầm. Những cuộc thử nghiệm mang tính quả cảm cho đến nay đã chứng tỏ không thể thoát khỏi học thuyết giá trị. Một học thuyết kinh tế sẽ không tồn tại nếu không có nền tảng của học thuyết giá trị. Và một học thuyết như vậy bắt buộc phải được xây dựng dựa trên những hiệu quả là cội nguồn của tất cả các giá trị kinh tế. Từ đó đến nay chúng ta đã đạt được một sự hiểu biết khá đầy đủ về việc nâng cao hiệu quả. Chẳng hạn như hiệu quả dựa một phần vào việc đổi mới-tức là vào việc di chuyển nguồn lực từ các lĩnh vực lao động lạc hậu và hạn hẹp đến những ngành mới và có hiệu quả hơn, và một phần vào việc nâng cao liên tục hiệu suất của các nhân tố mới đang nảy sinh. Ngoài ra, còn phải chú ý một cách kỹ lưỡng tới hiệu quả của từng nhân tố riêng biệt. Và cuối cùng, phải tính đến tổng hiệu quả của tất cả các nguồn lực trong một cty hay trong một hoạt động kinh tế nhất định. Cần hiểu rằng, các hiệu quả trong “kinh tế vi mô” tức là trong một cty, một xí nghiệp, hoặc một văn phòng, có thể được tạo nên hay bị phá vỡ; có thể được cải thiện hay bị tồi đi; và chính nhà quản lý phải chịu trách nhiệm về điều đó. Trong một thế kỷ qua, quan sát ở tất cả các nước công nghiệp có nền kinh tế thị trương, người ta thấy có sự tăng trưởng hiệu quả một cách liên tục. Chúng được tạo nên nhờ việc vận dụng một cách có mục tiêu và có định hướng vào hiệu quả của các nguồn. Và điều này không chỉ đúng với lĩnh vực công nghiệp. Các nhà kinh tế học của thế kỷ XIX “nhận định” nông nghiệp không có khả năng tăng hiệu quả. Nhưng thực tế lại chỉ ra rằng nó có tỷ lệ tăng trưởng cao. Trong thực tế, nông nghiệp giữa thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX không có gì thay đổi mạnh mẽ. Song sau đó nó phát triển mạnh nhờ sự gia tăng hiệu quả có tính chất bùng nổ trong các trang trại nông dân của các nước công nghiệp hóa. Việc tăng hiệu quả một cách đặc sắc như vậy đã đồng thời làm thay đổi một cách quyết định quan niệm của chúng ta về nền kinh tế và về học thuyết kinh tế quốc dân. Tất cả các nhà kinh tế học của thế kỷ XIX xuất phát từ quy luật “hiệu quả ngày càng giảm” nên họ phải tập trung chú ý vào vấn đề tăng cung và kinh tế vi mô. Vào một phần tư cuối thế kỷ này, việc nâng cao hiệu quả đã gây ra một sự lo ngại, nó được coi như là một sự dư thừa hoặc ít nhất cũng đã vượt lên trước do vậy, sự quan tâm của các nền kinh tế được tập trung nhiều hơn vào nhu cầu, và do đó vào kinh tế vĩ mô. Keynes đã nhận thức một cách thực tế là quan điểm hiệu quả hoàn toàn vắng mặt trong lý thuyết của ông. Khi được hỏi về vấn đề này (thường vào lúc mở đầu các cuộc thuyết trình ở Cambridge), ông đã trả lời là những nhà kinh doanh sẽ quan tâm tới vấn đề hiệu quả khi người ta cung cấp cho họ một thuyết kinh tế vĩ mô đúng đắn, tức là một chính sách nhu cầu đúng đắn. Như vậy là, trong những năm 20, Keynes đã phát triển học thuyết của mình, và học tuyết này đã chiếm địa vị bền vững. Song ngày nay nó không còn thích hợp nữa. Nguyên do là sau một thế kỷ của những sự tăng trưởng hiệu quả liên tục, chúng ta đã chứng kiến kề từ 10 hay 15 năm trở lại đây một sự phát triển trì trệ, thậm chí thụt lùi. Sự đi xuống đó bắt đầu trong những năm 60, nghĩa là trước khi hình thành tổ chức OPEC, và thậm chí trước khi bắt đầu một cuộc lạm phát mạnh mẽ mà về căn bản là do những tiến bộ về hiệu quả để lại. Ngoài ra nó đã xuất hiện trước thời điểm, khi các quốc gia công nghiệp đã bắt đầu chinh phục được các khu vực sản xuất của nền kinh tế nhờ việc kiểm soát và ra các quyết định ngày càng mạnh mẽ. Không còn nghi ngờ gì nữa là các quy định về chính sách môi trường, an ninh và chính sách tạo việc làm đã tác động tiêu