Tóm tắt. Chủ nghĩa thực dụng là một trường phái triết học điển hình nhất ở Mĩ, được xem
là nét đặc trưng của văn hóa Mĩ, gắn liền với sự phát triển của một siêu cường Mĩ. Vấn đề
chân lí là một nội dung cốt lõi của triết học thực dụng. Trong các nhà triết học thực dụng
Mĩ, William James là người đã phát triển lí thuyết chân lí thành một hệ thống lí luận nền
tảng của chủ nghĩa thực dụng. Trong bài viết này, tác giả đề cập đến quan niệm và những
đóng góp hết sức độc đáo của W.James về chân lí.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 48 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan niệm của William James về chân lí, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
2014, Vol. 59, No. 6BC, pp. 72-78
This paper is available online at
QUAN NIỆM CỦAWILLIAM JAMES VỀ CHÂN LÍ
Nguyễn Văn Thỏa
Khoa Triết học, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội
Tóm tắt. Chủ nghĩa thực dụng là một trường phái triết học điển hình nhất ở Mĩ, được xem
là nét đặc trưng của văn hóa Mĩ, gắn liền với sự phát triển của một siêu cường Mĩ. Vấn đề
chân lí là một nội dung cốt lõi của triết học thực dụng. Trong các nhà triết học thực dụng
Mĩ, William James là người đã phát triển lí thuyết chân lí thành một hệ thống lí luận nền
tảng của chủ nghĩa thực dụng. Trong bài viết này, tác giả đề cập đến quan niệm và những
đóng góp hết sức độc đáo của W.James về chân lí.
Từ khóa: Chủ nghĩa thực dụng, William James, chân lí.
1. Mở đầu
Chân lí là một trong những vấn đề trung tâm, xuyên suốt toàn bộ lịch sử triết học từ thời cổ
đại đến nay. Triết học có mục đích tối hậu là đạt đến chân lí, các trường phái triết học, các nhà triết
học cuối cùng đều hướng mục đích của mình vào việc lí giải chân lí. Chủ nghĩa thực dụng là một
trào lưu triết học ra đời ở Mĩ vào những năm 70 của thế kỉ XIX, là đóng góp độc đáo nhất của tư
tưởng Mĩ cho kho tàng triết học của nhân loại. Chủ nghĩa thực dụng được hình thành với lí thuyết
nguyên thủy của C.S.Peirce, được truyền bá rộng rãi bởi W.James, và được đưa vào đời sống hàng
ngày một cách có phương pháp nhờ J.Dewey. Khởi nguồn từ “nguyên lí nền tảng” của C.Peirce,
W.James đã phát triển lí thuyết chân lí thành một hệ thống lí luận nền tảng của chủ nghĩa thực
dụng. Vì vậy, nói không quá khi khẳng định chủ nghĩa thực dụng được xét như là một lí thuyết về
chân lí. James đã định nghĩa chân lí bằng hiệu quả, được thể hiện rõ trong mệnh đề: “Cái gì hữu
dụng, cái đó là chân lí; cái gì là chân lí, cái đó tất phải hữu dụng” [4;37]. Từ khái niệm chân lí của
ông, tác giả lần lượt làm rõ bản chất của chân lí, tiêu chuẩn và con đường nhận thức chân lí. Việc
nghiên cứu quan niệm của W.James về chân lí không chỉ giúp chúng ta khẳng định được những
đóng góp to lớn của ông về học thuyết chân lí của chủ nghĩa thực dụng, mà còn là cơ sở để lí giải
ảnh hưởng sâu rộng của trường phái triết học thực dụng cả về lí luận và thực tiễn đối với nước Mĩ
nói riêng và ảnh hưởng của nó đối với các nước trên thế giới nói chung.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái niệm chân lí
Trong lịch sử triết học có rất nhiều những quan điểm khác nhau về chân lí, W.James đã
đưa ra khái niệm hết sức độc đáo về chân lí, tạo nên nét đặc trưng của triết học thực dụng. Ông
Tác giả liên lạc: Nguyễn Văn Thỏa, địa chỉ e-mail: vanthoatht07@gmail.com
72
Quan niệm của William James về Chân lí
không định nghĩa chân lí sau đó mới đi tìm tiêu chuẩn của nó, bởi theo ông chân lí không phải là
cái có trước, mà được rút ra từ kinh nghiệm và hoạt động thực tiễn. Xuất phát từ phạm trù kinh
nghiệm, kinh nghiệm chính là căn cứ của chân lí, hiệu quả thực tiễn được khẳng định thông qua
kinh nghiệm, ông đi đến định nghĩa chân lí bởi hiệu quả: “Cái gì hữu dụng, cái đó là chân lí; cái gì
là chân lí, cái đó tất phải hữu dụng - cả hai ý này đồng nghĩa với nhau” [4;37]. Chân lí chính là cái
đem lại hiệu quả, lợi ích và sự thành công trong hành động: “Bất kì quan niệm nào, hễ nó đem lại
lợi ích và hiệu quả cho con người, tức là có thể làm cho con người đạt được thành công, mới có thể
xem là chân lí” [1;105]. Dưới con mắt của nhà triết học thực dụng W. James, quan niệm không nói
lên điều gì ngoài ý nghĩa thực tế mà nó đem lại, đó là giá trị, cái có tác dụng, có hiệu quả và mang
lại thành công theo một cách thức nào đó đối với con người. Như vậy, James đã định nghĩa chân lí
bởi hiệu quả, bởi sự thành công trong hành động, việc đồng nhất chân lí với hiệu quả đã trở thành
đặc trưng của triết học thực dụng nói chung và lí luận nhận thức của triết học thực dụng nói riêng.
Nếu như ở C. Peirce - người sáng lập triết học thực dụng, chân lí thể hiện tính hữu dụng
tương lai của chúng đối với những mục tiêu của con người thì đến James, khái niệm chân lí đã
được cụ thể khi ông xem chân lí là cái đem lại lợi ích, hiệu quả và sự thành công cho con người.
Để làm rõ khái niệm chân lí của W. James, chúng ta sẽ tìm hiểu bản chất của chân lí theo quan
niệm của ông.
2.2. Bản chất của chân lí
2.2.1. Chân lí là thuộc tính của quan niệm, chân lí lấy kinh nghiệm làm căn cứ
Theo W.James, chân lí là thuộc tính của quan niệm, của tư tưởng, chân lí lấy kinh nghiệm
làm căn cứ: “Chân lí xảy ra cho một ý niệm. Nó trở thành đúng, được làm thành đúng bởi các sự
kiện” [5;483]. Khi khẳng định chân lí xảy ra cho một ý niệm, là một phần của kinh nghiệm, James
xuất phát từ quan điểm cho rằng chân lí là một thuộc tính của ý niệm chứ không phải của sự vật.
Ông nói: “Những người theo chủ nghĩa thực dụng và những người không theo chủ nghĩa thực dụng
tranh cãi với nhau chủ yếu về cách giải thích chân lí. . . Những người theo chủ nghĩa thực dụng nói
chân lí chỉ giới hạn trong quan niệm. . . còn những người không theo chủ nghĩa thực dụng nói chân
lí là chỉ khách thể” [3;340]. Với quan điểm này, ông muốn khẳng định quan niệm của chủ nghĩa
thực dụng về chân lí, mọi quan niệm là chân lí chỉ lấy bản thân quan niệm làm căn cứ, chứ không
dựa vào thực tại khách quan. Do vậy, chân lí là một thuộc tính của ý niệm.
Khi cho rằng chân lí xảy ra cho một ý niệm, James đã chống lại quan điểm cho rằng chân lí
là sự sao chép lại thế giới khách quan. Theo quan điểm phổ biến cho rằng một quan niệm đúng là
sự sao chép lại thực tại của nó . Ông phản đối quan niệm này và cho rằng, với quan niệm này, khi
chúng ta có được một quan niệm đúng về sự vật, tức là chúng ta đã chiếm hữu nó. Khi đó chúng
ta đã hoàn thành sứ mạng tư duy: “Ý nghĩa chủ yếu của “chân lí” là quan hệ bị động, tĩnh tại. Khi
anh nhận được quan niệm thật của bất kì sự vật gì, sự việc xem như chấm dứt” [2;148]. Còn theo
quan điểm của chủ nghĩa thực dụng, câu hỏi đặt ra là: “Cứ cho rằng một ý niệm hay một sự tin
tưởng là đúng đi nữa, việc nó đúng có tạo ra sự khác biệt cụ thể gì trong đời sống thực tế của một
người hay không? Chân lí sẽ được thể hiện thế nào? Các kinh nghiệm nào sẽ khác các kinh nghiệm
mà người ta có thể có nếu sự tin tưởng đó là sai? Tóm lại, đâu là giá trị thực của chân lí về phương
diện kinh nghiệm?” [5;483]. Triết học thực dụng trả lời câu hỏi này như sau: “Các ý niệm đúng là
các ý niệm mà chúng ta có thể lĩnh hội, đánh giá, củng cố và kiểm chứng. Các ý niệm sai là các ý
niệm chúng ta không thể làm như thế” [5;483]. Sự khác biệt thực tiễn mà việc có các ý niệm đúng
tạo ra cho chúng ta là những ý niệm giúp con người hành động có hiệu quả đã được kiểm chứng
73
Nguyễn Văn Thỏa
thông qua kinh nghiệm, vì thế đó là ý nghĩa của chân lí. Chân lí không phải là một thuộc tính bất
biến nội tại trong bản thân nó, mà chân lí xảy đến cho một ý niệm. Nó trở thành đúng, được làm
thành đúng bởi các sự kiện. Tính xác thực của nó là một sự kiện, một tiến trình, đó là tiến trình
chứng thực chính nó, kiểm chứng nó. Giá trị của nó hay tính chân lí của một quan niệm chính là
tiến trình làm cho nó có giá trị trong hoạt động thực tiễn. Như vậy, theo quan niệm của James,
chân lí không phải là một ý niệm tiền định, cũng không phải bất biến mà là một thuộc tính của ý
niệm, được kiểm chứng thông qua các sự kiện, chân lí lấy kinh nghiệm làm căn cứ.
Căn cứ để xác định quan niệm là chân lí chính là kinh nghiệm, chân lí là một phần của kinh
nghiệm: “Các chân lí trở thành đúng khi chúng ta tạo ra được các sự nối kết thành công giữa các
thành phần khác nhau trong kinh nghiệm của chúng ta” [5;311]. Vì thế chân lí là một phần trong
tiến trình của kinh nghiệm, của đời sống, mọi quan niệm là chân lí chỉ lấy bản thân quan niệm làm
căn cứ. Ông nói: “Mọi chân lí đều lấy kinh nghiệm hữu hạn làm căn cứ, mà bản thân kinh nghiệm
hữu hạn là không có chỗ dựa. Trừ bản thân dòng kinh nghiệm ra, hoàn toàn không có cái gì bên
cạnh đảm bảo sinh ra chân lí” [3;344].
Như vậy quan niệm về chân lí của James dựa trên nền tảng là phương pháp luận nhằm đạt
được hiệu quả thực tiễn. Truy tìm bản chất của chân lí, ông đã đưa ra quan điểm khá mới lạ khi
khẳng định chân lí là thuộc tính của quan niệm, tư tưởng, được hình thành trong tiến trình làm cho
ý niệm trở thành kinh nghiệm, lấy kinh nghiệm làm căn cứ. Từ đó ông phê phán quan niệm cho
rằng chân lí là sự sao chép hiện thực.
2.2.2. Bản chất của chân lí được thể hiện ở mệnh đề: “Cái gì hữu dụng, cái đó là chân lí;
cái gì là chân lí, cái đó tất phải hữu dụng”
Khái niệm chân lí của W.James được thể hiện ở mệnh đề: Cái gì hữu dụng, cái đó là chân
lí; cái gì là chân lí, cái đó tất phải hữu dụng. Chân lí là quan niệm về hiệu quả thực tế để xác định
niềm tin của con người, quan niệm hữu dụng trong việc thỏa mãn nhu cầu, nguyện vọng của con
người, giúp con người đạt được thành công: “Là hữu dụng, bởi vì nó đúng, hoặc nó đúng, bởi vì
nó hữu dụng” [3;345]. Tuy nhiên, ông không đơn giản đồng nhất chân lí với tính hữu dụng. Khi
nói chân lí là hữu dụng, thì tính hữu dụng được hiểu là do đối tượng của tư tưởng, quan niệm được
dùng làm chân lí có tác dụng đối với con người: “Giá trị cơ bản của quan niệm đúng là do đối
tượng của quan niệm có tầm quan trọng với thực tế của chúng ta đẻ ra” [3;345]. James nhấn mạnh,
không phải quan niệm phù hợp với đối tượng là chân lí, chỉ khi đối tượng hữu dụng với con người,
thì quan niệm đó mới là chân lí. Vì vậy tính hữu dụng đối với con người trở thành tiêu chuẩn của
chân lí.
Theo James, sở dĩ con người theo đuổi chân lí vì “bổn phận tìm chân lí là một phần của
bổn phận làm điều có ích, giống như chúng ta phải tìm sức khỏe vì sức khỏe là có ích” [5;311]. Vì
thế, ông cho rằng một quan niệm chỉ cần đem lại lợi ích, thành công cho con người thì bất kể nó
phản ánh thực tế khách quan như thế nào, ngay cả là tín ngưỡng tôn giáo, đều được coi là chân lí.
Ngược lại, khi ông bàn về những quan niệm không đem lại tác dụng cho con người, dù là những
quan điểm đúng, thì trách nhiệm của chúng ta là né tránh chân lí. Quan niệm của James khi đồng
nhất chân lí với tính hữu dụng đã thể hiện phần nào tâm lí vụ lợi, chạy theo lợi ích cá nhân trong
xã hội tư sản.
Có thể nói, theo quan điểm của James, chân lí gắn với việc xác định niềm tin của con người,
chú ý hiệu quả thực tế, thỏa mãn nhu cầu, lợi ích, sự thành công của cá nhân. Chân lí tồn tại tương
đối với con người, với kinh nghiệm luôn biến đổi của con người, chân lí là do con người tạo ra theo
74
Quan niệm của William James về Chân lí
nhu cầu của mình, dùng làm thước đo mức độ thỏa mãn nhu cầu của mình. Việc nhấn mạnh vai
trò sáng tạo ra chân lí của con người, hay vấn đề chân lí gắn với con người là không sai. Tuy nhiên
cái sai trong quan niệm này là tuyệt đối hóa vai trò sáng tạo ra chân lí của con người, đến mức cho
rằng chân lí đều là sản phẩm sáng tạo chủ quan của con người mà không coi trọng thực tiễn khách
quan.
2.3. Tiêu chuẩn của chân lí
Trong khi khẳng định tính hiệu quả làm tiêu chuẩn của chân lí, ông đưa ra phạm trù “thực
tại”, coi chân lí là sự phù hợp với thực tại. Quan điểm này rất gần với quan điểm của chủ nghĩa duy
vật biện chứng về phạm trù thực tiễn và vai trò của thực tiễn với tư cách là tiêu chuẩn để kiểm tra
chân lí. Thực chất phạm trù “thực tại” và “phù hợp với thực tại” có ý nghĩa đặc biệt trong lí thuyết
chân lí của James, nó được xem là tiêu chuẩn để phân biệt chân lí và sai lầm: “Chân lí là một tính
chất của một số ý tưởng của chúng ta. Nó có nghĩa là “sự phù hợp với thực tại”, cũng như sai lạc là
sự không phù hợp với thực tại”. Các nhà thực dụng lẫn các nhà duy trí đều chấp nhận định nghĩa
này như là chuyện đương nhiên. Họ chỉ bất đồng với nhau về cách hiểu chính xác thuật ngữ “phù
hợp” và “thực tại” nghĩa là gì, khi thực tại được coi là cái mà các ý niệm của chúng ta phải phù hợp
với” [5;482]. Theo cách hiểu của James, phạm trù “thực tại” không phải là hiện thực khách quan
với sự sống động của sự vật mà mang ý nghĩa chủ quan: “Thực tại chỉ là quan hệ tương đối với
đời sống tình cảm và đời sống năng động của chúng ta, đó là ý nghĩa duy nhất của danh từ người
ta đã nói trong thực tiễn. Nền tảng và khởi nguồn của mọi thực tại, bất kì được xem xét theo quan
điểm tuyệt đối hoặc quan điểm thực tiễn, đều là chủ quan, cũng tức là bản thân chúng ta” [1;98].
Qua cách giải thích về “thực tại”, James cố gắng hòa lẫn giữa yếu tố chủ quan và khách quan, giữa
kinh nghiệm chủ thể và thực tại khách quan. Xuất phát từ chủ nghĩa kinh nghiệm, James lí giải
một cách chủ quan về phạm trù “thực tại”, thực tại có nghĩa là các sự kiện cụ thể, hay các loại sự
vật trừu tượng và các mối quan hệ được nhận ra giữa chúng với nhau bằng trực giác. Và nghĩa thứ
ba là các sự vật mà các ý niệm mới của chúng ta phải quan tâm, đó là toàn bộ các chân lí khác mà
chúng ta đã có. Nhưng thế nào là sự “phù hợp” với ba loại thực tại theo nghĩa này?
Trước hết, phù hợp là sự mô tả theo, ví dụ về từ “đồng hồ” có thể thay thế cho hình ảnh của
ý thức về hoạt động của nó, và trong rất nhiều thực tại khác, các ý niệm của chúng ta chỉ có thể là
những biểu tượng chứ không phải là những bản sao chép. Sự phù hợp sẽ chỉ có nghĩa, đó là một
sự kiện không có gì mâu thuẫn từ phía trước cản đường khiến tư tưởng của chúng ta không dẫn dắt
đến một nơi khác. Vì vậy điều cốt yếu là tiến trình được dẫn dắt, bất cứ ý niệm nào giúp chúng ta
xử lí về thực tại, làm cho đời sống chúng ta phù hợp và thích nghi với môi trường, đều sẽ được coi
là phù hợp để khẳng định thực tại đó là đúng. Vì vậy, theo quan điểm của James, cái gọi là phù
hợp với thực tại là sự phù hợp năng động của chủ thể đối với khách thể. Qua đây, ông cũng bác bỏ
thuyết phản ánh luận, cho rằng một quan niệm là chân lí cần phải mô tả thực tại.
Các ý niệm sẽ phải phù hợp với loại thực tại nào thì được coi là các ý niệm đúng trong sự
kiểm chứng cơ bản của nó, việc theo đuổi các ý niệm đúng là bổn phận hàng đầu của con người.
Sở hữu chân lí không phải là một cái đích tự tại, mà chỉ là một phương tiện mở đầu để hướng tới
các sự thỏa mãn khác của đời sống, sự thỏa mãn đó mà đích đến là hiệu quả và sự thành công
trong hoạt động của con người. Giá trị thực tiễn của các ý niệm đúng vì thế chủ yếu xuất phát từ
tầm quan trọng thực tiễn của các đối tượng của chúng đối với con người. Rõ ràng, quan niệm của
James về tiêu chuẩn của chân lí chẳng những đã phủ định tính khách quan, mà còn làm cho việc
tìm ra tiêu chuẩn chung nhất về chân lí giữa mọi người là điều không thể. Quan niệm này là cơ sở
75
Nguyễn Văn Thỏa
cho việc con người theo đuổi hiệu quả, lợi ích, sự thành công của cá nhân, bởi mỗi người đều xem
đó là tiêu chuẩn chân lí của mình.
Từ cách lí giải chân lí là sự phù hợp với thực tại, ông đi đến khẳng định tiêu chuẩn để kiểm
tra sự phù hợp đó chính là tính hiệu quả. Ông đồng nhất chân lí với tính hữu dụng: “Cái gì hữu
dụng, cái đó là chân lí; cái gì là chân lí, cái đó tất phải hữu dụng - cả hai ý này đồng nghĩa với
nhau” [4;37]. Chân lí là hữu dụng, hữu dụng là chân lí, đó là quan điểm cơ bản trong thuyết chân
lí của James. Ông cho rằng không phải cứ quan niệm phù hợp với đối tượng là chân lí, mà chỉ khi
nào đối tượng hữu dụng với con người, thì quan niệm đó mới là chân lí. Do vậy, suy cho cùng quan
niệm của ông không phải lấy phù hợp với đối tượng là chân lí, mà lấy tính hữu dụng của quan niệm
đối với con người làm tiêu chuẩn của chân lí. Sai lầm của ông ở chỗ đã phủ nhận tiêu chuẩn khách
quan của chân lí, lấy hiệu quả, tính hữu dụng, sự thành công là tiêu chuẩn duy nhất của chân lí.
Như vậy, trong quan niệm của triết học thực dụng về tiêu chuẩn của chân lí, chúng ta thấy
có sự thống nhất với khái niệm chân lí. Việc đồng nhất chân lí với hiệu quả, tính có ích, sự thành
công đã quy định quan niệm về tiêu chuẩn của chân lí. Trong quan niệm về tiêu chuẩn của chân lí,
chúng ta thấy có một số khía cạnh tích cực. James đưa ra phạm trù “thực tại”, chân lí là sự phù hợp
với thực tại, rất gần với quan điểm thực tiễn, tiêu chuẩn thực tiễn để kiểm tra chân lí của chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Tuy nhiên, sai lầm của ông là đã phủ nhận tiêu chuẩn khách quan của chân lí.
Ngay cả phạm trù thực tại cũng không phải là khách quan mà mang tính chủ quan, chân lí là sự
thỏa mãn cá nhân, giúp con người đạt được thành công, vì vậy mỗi người dựa trên mục đích lợi ích
của mình đều có thể theo đuổi tiêu chuẩn chân lí khác nhau. Việc xác định tiêu chuẩn của chân lí
như vậy có phần chủ quan, tùy tiện và phần nào thể hiện quan điểm của giai cấp tư sản, nhằm bảo
vệ lợi ích của giai cấp mình.
2.4. Con đường nhận thức chân lí
James đã phân tích con đường nhận thức chân lí như một quá trình biện chứng, được thực
tiễn kiểm nghiệm. Chân lí là một quá trình phát sinh, là một quá trình chứng thực và kiểm nghiệm
tính hiệu quả trong thực tiễn.
Nhận thức chân lí là một quá trình, không phải tĩnh tại, bất biến mà mang tính cụ thể, tương
đối, được sinh ra từ quan niệm thông qua quá trình kiểm chứng tính hiệu quả của nó: “Tính chân
thực của chân lí trên thực tế là một sự kiện hoặc quá trình, nó chứng thực quá trình bản thân nó,
là quá trình chứng thực của nó, tính hữu hiệu của nó là quá trình làm cho nó sinh ra hiệu quả”
[1;103]. Quá trình nhận thức chân lí được thực hiện thông qua sự kiểm chứng tính hiệu quả bằng
thực tiễn. Chân lí tồn tại và cần phải được kiểm nghiệm, chứng thực trong thực tiễn. Thực tiễn hay
“thực nghiệm” là tiêu chuẩn kiểm nghiệm của chân lí. Nhưng “thực tiễn” ở đây không phải là thực
tại khách quan, sự “thực nghiệm” không phải là quá trình thông qua thực tiễn khách quan để kiểm
nghiệm tính qui luật nội tại của sự vật khách quan, mà chỉ là kiểm nghiệm quan niệm có tạo ra
hiệu quả thực tế làm cho con người thỏa mãn hay không? Có làm cho con người được lợi ích và
thành công hay không?
W.James phân tích về sự chứng thực trực tiếp và gián tiếp của chân lí. Cơ sở của sự chứng
thực đó là niềm tin, chỉ cần niềm tin vào chân lí, vì niềm tin có tác dụng, mọi cái chúng ta biết là
phù hợp với niềm tin. Nhấn mạnh vai trò của niềm tin, ông cho rằng chân lí tồn tại phần lớn dựa
trên hệ thống tin tưởng. Các tư tưởng và niềm tin của chúng ta được “thông qua”, miễn là không có
gì chống lại chúng, giống như tấm ngân phiếu được thông qua nếu không ai từ chối nó. James đưa
ra kết luận: “các tiến trình chứng thực một cách gián tiếp hay mặc nhiên cũng đúng không kém
76
Quan niệm của William James về Chân lí
gì các tiến trình chứng thực hoàn toàn” [5;484]. Ông thừa nhận rằng tính chân lí của quan niệm
không cần mỗi người phải đi chứng minh, chỉ cần người khác chứng thực rồi, thì hoàn toàn có thể
trao đổi chân lí dựa trên nhu cầu của người sử dụng chúng, đó là cách chứng thực gián tiếp. Chân
lí là quá trình, chân lí do chân lí trước đây tạo nên, vì vậy “chúng ta chưa kiểm chứng xong một
chân lí thì đã có một triệu chân lí phát sinh trong cuộc đời chúng ta rồi” [5;311]. Do vậy, chân lí
tồn tại dựa vào sự tin tưởng, tính chân thực của chân lí được tạo ra từ tính hiệu quả, tính hiệu quả
tạo nên sự tồn tại của chân lí.
Từ quan niệm cho rằng chân lí là quá trình không ngừng được chứng thực, James đã khẳng
định chân lí mang tính tương đối và tính cụ thể, không có chân lí tuyệt đối, phổ biến. Ông nhấn
mạnh việc coi chân lí thực dụng cung cấp một công cụ, phương tiện để con người đạt được mục
đích.
Quan niệm của W.James đã khẳng định con đường nhận thức chân lí là một quá trình không
phải tĩnh tại, bất biến mà không ngừng được kiểm chứng thông qua thực tiễn. Trong quan niệm của
ông, chân lí không phải là mục đích cuối cùng của nhận thức mà diễn ra cùng với quá trình nhận
thức. Trong quá trình nhận thức, một quan niệm thể hiện tính hiệu quả thì đó là chân lí. Theo quan
điểm này, quá trình nhận thức chân lí không ngừng biến đổi và cần phải được kiểm chứng liên tục.
Đây là quan điểm khá mới về con đường nhận thức chân lí, đó cũng là đóng góp của ông cho lí
luận nhận thức của chủ nghĩa thực dụng. Mặc dù vậy, quan điểm của James cũng không tránh khỏi
hạn chế trong cách lí giải về sự “chứng thực” chân