Quan niệm về nhạc của Khổng giáo và những biểu hiện trong nhã nhạc Huế

Tóm tắt Khổng học - một triết thuyết nổi tiếng của Trung Quốc do Khổng Tử lập ra từ thời cổ đại - là một học thuyết chính trị, đạo đức, luân lý có sức ảnh hưởng lớn ở nhiều nước châu Á trong suốt thời kỳ phong kiến lâu dài hàng ngàn năm và còn ảnh hưởng đến tận ngày nay. Bài viết này chú trọng tìm hiểu quan niệm của Khổng học về âm nhạc, trong đó vai trò của âm nhạc được đánh giá rất cao. Việc đề cao tính giáo dục, tính chính trị, tính triết lý cũng như mối quan hệ giữa âm nhạc và hiện thực xã hội đã thể hiện những quan điểm tiến bộ của học thuyết này cho dù nó đã ra đời cách đây 2.500 năm. Áp dụng tư tưởng Khổng học trong đường hướng trị nước, triều đình nhà Nguyễn cũng đã ứng dụng những quan điểm đó trong Nhã nhạc của triều đại mình. Những chủ trương của vua và triều đình nhà Nguyễn, những biểu hiện của tư tưởng Khổng học trong Nhã nhạc Huế sẽ được phân tích trong bài viết này.

pdf5 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 258 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan niệm về nhạc của Khổng giáo và những biểu hiện trong nhã nhạc Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 24 - Tháng 6 - 201842 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA QUAN NIỆM VỀ NHẠC CỦA KHỔNG GIÁO VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN TRONG NHÃ NHẠC HUẾ PHAN THUẬN THẢO Tóm tắt Khổng học - một triết thuyết nổi tiếng của Trung Quốc do Khổng Tử lập ra từ thời cổ đại - là một học thuyết chính trị, đạo đức, luân lý có sức ảnh hưởng lớn ở nhiều nước châu Á trong suốt thời kỳ phong kiến lâu dài hàng ngàn năm và còn ảnh hưởng đến tận ngày nay. Bài viết này chú trọng tìm hiểu quan niệm của Khổng học về âm nhạc, trong đó vai trò của âm nhạc được đánh giá rất cao. Việc đề cao tính giáo dục, tính chính trị, tính triết lý cũng như mối quan hệ giữa âm nhạc và hiện thực xã hội đã thể hiện những quan điểm tiến bộ của học thuyết này cho dù nó đã ra đời cách đây 2.500 năm. Áp dụng tư tưởng Khổng học trong đường hướng trị nước, triều đình nhà Nguyễn cũng đã ứng dụng những quan điểm đó trong Nhã nhạc của triều đại mình. Những chủ trương của vua và triều đình nhà Nguyễn, những biểu hiện của tư tưởng Khổng học trong Nhã nhạc Huế sẽ được phân tích trong bài viết này. Từ khóa: Khổng giáo, quan niệm về nhạc, Nhã nhạc Huế Abstract Confucianism - a well - known Chinese philosophy founded by Confucius in ancient time. Confucianism is a political, ethical, and moral doctrine that has greatly influenced many Asian countries during the thousands of years’ length of feudal period and remaining affects nowadays. This article focuses on the Confucian conception of music in which the role of music is highly valued. The emphasis on education, politics, philosophy, as well as the relationship between music and social reality, has shown the progressive views of this doctrine even though it was born 2,500 years ago. Applying Confucian thought in the direction of governing the country, the Nguyen also applied these views in the court music of their dynasty. The guidelines of the kings and Nguyen dynasty expressed Confucian thought in Hue music will be analyzed in this article. Keywords: Confucianism, conception of music, Hue court music 1. Quan niệm về nhạc của Khổng giáo Theo truyền thuyết của người Trung Quốc, Nhã nhạc do Chu Công1 lập ra, tức là nó đã có trước khi Khổng Tử (551 - 479 TCN) được sinh ra và truyền bá tư tưởng Khổng học. Tuy vậy, chính Khổng Tử là người đã cổ xúy và nâng Nhã nhạc2 lên tầm lý luận trong triết thuyết của mình. Để làm được điều đó, bản thân Khổng Tử phải là một người am hiểu sâu sắc về âm nhạc. Đương thời, ông là một người biết ca hát, biết đàn cổ cầm3, đàn sắt4, đánh biên khánh5, thổi sanh6, là nhạc sĩ sáng tác, đồng thời là nhà lý luận âm nhạc và giáo dục âm nhạc (1, tr.281-297). Ông là người Trung Quốc đầu tiên đưa vấn đề lý luận âm nhạc vào trong triết thuyết của mình. Và khi các triều đại phong kiến ở các nước Đông Á dùng Khổng học làm đường hướng trị nước, họ cũng áp dụng tư tưởng của Khổng học trong việc xây dựng chế độ lễ, nhạc của triều đại mình. Qua các kinh sách của Khổng Tử còn để lại đến ngày nay, chúng ta có thể biết đến quan niệm của ông về âm nhạc, từ đó thấy được chúng được áp dụng như thế nào trong thực tế. Khi biên soạn kinh sách, Khổng Tử đã dành cả một quyển sách riêng bàn về âm nhạc. Đó là quyển Kinh Nhạc, một trong Lục kinh gồm Thi, 43Số 24 - Tháng 6 - 2018 NGHỆ THUẬT NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu. Điều đó cho thấy vị trí quan trọng của âm nhạc trong tư tưởng của Khổng Tử. Sau nạn “đốt sách, chôn Nho” của Tần Thủy Hoàng (259 - 210 TCN), cuốn Kinh Nhạc bị mất, người đời sau góp nhặt lại chỉ còn được một ít nên ghép chung vào cuốn Kinh Lễ. Ngày nay, khi tìm hiểu về quan niệm của Khổng giáo đối với âm nhạc, ta không thể không xem xét chương “Nhạc ký” nằm trong Kinh Lễ vốn là những gì còn lại của Kinh Nhạc. Bên cạnh đó, rải rác trong Tứ thư, nhất là quyển Luận ngữ, có những đoạn nói đến lễ và nhạc cũng rất đáng quan tâm. Những tài liệu này cho thấy tư tưởng căn bản của Khổng học đối với âm nhạc. Mối liên hệ hai chiều giữa âm nhạc và hiện thực xã hội: Âm nhạc có mối liên hệ, tác động qua lại đối với hiện thực xã hội và nền chính trị của một nước. Khổng học cho rằng âm nhạc từ tâm người mà sinh ra, mà những tâm tư tình cảm của con người thì xuất phát từ sự cảm thụ các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh. Chính vì thế, thời bình thì tâm người vui vẻ, nhạc ôn hòa; thời loạn lạc thì tâm người bất ổn, sinh ra thứ nhạc bi ai, oán giận. Từ đó, Khổng học đi đến kết luận: âm nhạc có liên quan đến chính trị (thanh âm chi đạo, dữ chính thông hĩ) (2, tr.166). Vì âm nhạc phản ánh tình hình chính trị xã hội nên Khổng Tử cho rằng nếu xét kỹ âm nhạc của một nước thì có thể biết được nền chính trị của nước đó thịnh suy như thế nào (thẩm nhạc dĩ tri chính) (4, tr.194). Mặt khác, Khổng học nhấn mạnh đến sự tác động ngược lại của âm nhạc đối với tình cảm con người: âm nhạc có khả năng tác động sâu sắc vào lòng người, làm biến đổi tâm tính con người, thay đổi cả phong tục: “nhạc là điều vui thích của thánh nhân, có thể khiến cho lòng dân trở nên tốt lành, có thể cảm lòng người một cách sâu sắc và làm biến đổi phong tục, cho nên tiên vương mới đặt ra dạy nhạc” (Nhạc giã giả, thánh nhân chi sở lạc giã, nhi khả dĩ thiện dân tâm, kỳ cảm nhân thâm, kỳ di phong dịch tục, cố tiên vương trữ kỳ giáo yên) (4, tr.194). Luận về tác động của âm nhạc đối với lòng người, Khổng học nêu rõ: “Chí nhỏ bé thì âm thanh cục súc mới nổi lên làm dân lo lắng, nếu âm thanh giản dị đôn thuần thì dân an khang vui vẻ; nếu âm thanh thô bạo mạnh mẽ nổi lên thì dân cương nghị; nếu âm thanh liêm khiết chính trực nổi lên thì dân nghiêm trang kính cẩn, nếu âm thanh khoan hòa rộng rãi bình hòa thì dân từ bi yêu quý; nếu âm thanh nghiêng lệch tản mạn kích động thì dân dâm loạn” (2, tr.177). Bên cạnh đó, Khổng học còn cho rằng âm nhạc có mối tương thông với luân lý (Nhạc giả, thông luân lý giả dã) (2, tr.166-169). Nói cách khác, nhạc liên quan đến việc tu dưỡng đạo đức của con người, tương ứng với các quy ước, quy chuẩn đạo đức của xã hội. Từ đó, Khổng học khuyên rằng nên đề phòng với những loại nhạc quá vui đến nỗi kích thích lòng người dâm loạn, hoặc quá buồn đến nỗi làm mất cả nhuệ khí, quên cả nghĩa vụ thiêng liêng của con người đối với xã hội. Như vậy, âm nhạc có tác dụng rất lớn: trước hết nó có khả năng tác động đến tình cảm con người, rồi từ đó dần dần ảnh hưởng đến văn hóa, phong tục của cộng đồng xã hội. Chức năng giáo dục của âm nhạc: Âm nhạc là một phương thức để tự sửa mình, cảm hóa lòng người, giáo dục con người và để trị nước Nhận thức về công dụng to lớn của âm nhạc đối với con người và xã hội, Khổng Tử chủ trương dùng nhạc trước hết là để tự sửa mình: “Nghiên cứu nhạc để sửa trị tâm, làm cho tâm ý hiền từ hướng thiện sản sinh” (2, tr.182). Khi tâm người hướng thiện thì trở nên an lạc, tạo nên hạnh phúc cho mình và cho mọi người chung quanh. Dùng âm nhạc để tự sửa mình, nhưng cũng có thể cảm hóa được người khác. Vì Khổng giáo là đạo trị nước, nên mục đích mà Khổng Tử hướng đến là dùng nhạc như một trong những phương thức hữu hiệu để an dân bằng cách cảm hóa lòng dân một cách hòa bình. Ông chủ trương dùng nhạc để cảm hóa dân chúng, cho nên thứ nhạc ấy phải là thứ nhạc “hòa”. Hòa ở đây nghĩa là sự ôn hòa, sự thăng bằng trong tình cảm con người (lạc nhi bất dâm, ai nhi bất thương: vui mà không dâm, buồn mà không hại), nhờ sự thăng bằng này mà không gây nhiễu động cho xã hội. Hòa còn là sự hòa hợp nhân tâm, để con người trở nên thân ái với nhau (Nhạc giả vị đồng... Đồng tắc tương thân). Cao hơn nữa, hòa còn là sự điều hòa của trời đất, sự hòa hợp của tự nhiên (nhạc giả thiên địa chi hòa giã). Tính “hòa” rất được chú trọng trong quan niệm về âm nhạc Số 24 - Tháng 6 - 201844 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA của Khổng Tử cho nên đã không ít lần ông nhấn mạnh đến tính chất này trong kinh sách: “chuông trống múa hát lấy bình hòa an ổn làm vui” (2, tr.172), “nhạc phát ra ở bên trong nên tĩnh lặng” (2, tr.174). Với tính chất “hòa”, âm nhạc là một phương tiện để cảm hóa lòng người, hướng thiện cho dân chúng. Khổng học chống lại loại nhạc đem đến cảm xúc phóng túng cho con người, nhằm hạn chế những phong tục xấu: “Các bậc tiên vương xưa... chế tác ra các âm thanh của “Nhã” và “Tụng” để khiến âm thanh đủ vui mà không sa đọa, khiến văn đủ để bàn luận không ngừng nghỉ, khiến các tiết tấu có đủ âm sắc nhạc khí đủ để cảm động lòng thiện của người ta mà thôi, không để khiến cho (người ta) tiếp cận với tà khí phóng túng. Đó là ý nghĩa chế tác Nhạc của tiên vương vậy” (2, tr.185). Chủ trương nhạc phải đạt đến độ cực hòa, cực thuận, Khổng Tử khen ngợi nhạc Thiều của vua Thuấn “hay tột bực và lành cũng tột bực”, nhưng có ý phê phán nhạc của Võ vương “hay tột bực nhưng mà lành chưa tột bực” (3, tr.47). Khổng học cho rằng trong thuật trị nước, nếu các bậc vua chúa am hiểu và nắm được công dụng to lớn của âm nhạc thì có thể dùng nó để an dân. Nhạc là một trong bốn phép trị nước gồm Lễ, Nhạc, Hình, Chính. Nếu vua mà thông hiểu được Lễ Nhạc thì không có thù trong giặc ngoài, không cần dùng tới binh khí, hình phạt, thiên hạ thái bình, như thế là đạt được mục đích ý nghĩa của âm nhạc (2, tr.174). Ở chương Thái Bá trong sách Luận ngữ, Khổng Tử đã đi đến kết luận: “Hưng ư Thi, lập ư Lễ, thành ư Nhạc”, nghĩa là người ta hưng khởi lòng lành là nhờ đọc kinh Thi; lập lấy ý chí, không sa ngã theo vật dục là nhờ đọc kinh Lễ; thành tựu được đức hạnh của bậc quân tử là nhờ ở âm nhạc và kinh Nhạc” (3, tr.124-125). Như thế mới thấy tác dụng to lớn của âm nhạc trong quan niệm của Khổng học. Nhạc và Lễ đi đôi với nhau, tương chế lẫn nhau, cùng trở thành phương thức trị nước và là biểu tượng cho sự an bình, thịnh trị Khi bàn về âm nhạc, Khổng học thường ghép chung nó với phạm trù Lễ, bởi Nhạc thiên về tình cảm thì cần phải có Lễ thiên về lý trí để điều phối, chế ngự lẫn nhau (Lễ ở đây là các quy tắc, chuẩn mực đặt ra để chế định hành vi của con người): Khổng học khuyên nên áp dụng cả hai yếu tố này một cách hài hòa, không được thiên lệch cái này hay cái kia, bởi Nhạc cảm hóa lòng người từ bên trong, còn Lễ kìm chế hành vi con người bằng những quy tắc đến từ bên ngoài, nếu dùng hai yếu tố này chế định lẫn nhau thì sẽ bình yên (2, tr.172). Vì lý do đó, Nhạc và Lễ phải đi đôi với nhau để chế định lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau cùng đạt được mục đích sau cùng là giữ yên thiên hạ. Vì Lễ và Nhạc có công dụng to lớn nên người xưa đã dùng chúng trong việc trị nước: “...các bậc tiên vương xưa phải chế định ra Lễ, Nhạc để tiết chế người... Lễ tiết chế lại lòng người, Nhạc làm ôn hòa lại âm thanh của dân chúng. Chính trị như vậy được thi hành. Hình phạt như vậy mới thành nguyên tắc để phòng ngừa (những điều xấu). Lễ, Nhạc, Hình luật, Chính trị, bốn điều ấy đạt đến chỗ không sai trái thì là vương đạo hoàn bị vậy” (2, tr.172). Cũng về vấn đề này, chương Nhạc ký viết: “... Nhạc cảm động ở bên trong, Lễ cảm động ở bên ngoài. Nhạc là cực hòa, Lễ là cực thuận. Trong hòa mà ngoài thuận ắt dân (lấy đó) chiêm ngưỡng mà không xảy ra tranh giành, (dân) chỉ cần nhìn dung mạo bên ngoài mà đã không dám sinh ra kiêu ngạo. Đó là vì ánh sáng rực rỡ của Đức làm động bên trong nên dân không dám không nghe theo, nguyên lý phát ra bên ngoài nên dân không ai không thuận theo. Cho nên bảo “Đạo nghiên cứu Lễ Nhạc thi hành vi trị thiên hạ không có gì là khó cả” (2, tr.182- 183). Từ đó cho thấy Khổng học chủ trương lấy Lễ, Nhạc để cảm hóa lòng dân, vỗ yên thiên hạ. Cùng với lễ, âm nhạc là biểu tượng quyền lực chính trị của các đẳng cấp cao trong xã hội, thể hiện trật tự, kỷ cương giữa các đẳng cấp này. Thời nhà Chu, cũng là thời kỳ Khổng Tử đang sống, loại nhạc chúng ta ngày nay gọi là Nhã nhạc được dùng cho bốn đẳng cấp cao trong xã hội được xếp từ cao xuống thấp là Thiên tử, Chư hầu, Khanh đại phu, Quý tộc sỹ. Với những quy định chặt chẽ về lễ và nhạc mà từng đẳng cấp được phép dùng, người xưa chủ ý làm rõ địa vị chính trị của từng đẳng cấp ấy, trong đó nhấn mạnh đến quyền lực tối cao của Thiên tử nhà Chu. Chẳng hạn chỉ có Chu thiên tử mới được dùng múa Bát dật với số lượng vũ sinh nhiều nhất (64 người), số lượng nhạc khí cũng nhiều nhất, cao cấp nhất. Việc Khổng Tử phê phán một quan Đại phu dùng nhạc của Thiên Tử (3, tr.31) cho thấy nhạc đã 45Số 24 - Tháng 6 - 2018 NGHỆ THUẬT NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA thành một biểu tượng cho quyền lực chính trị của nhà vua. Như vậy, trong quan niệm của Khổng học, âm nhạc được đánh giá rất cao. Nhạc phản ánh tình cảm của con người, qua đó nói lên thực trạng xã hội, ngược lại, nhạc cũng có khả năng tác động sâu sắc vào lòng người và từ đó cảm hóa con người và làm biến chuyển xã hội. Với công dụng to lớn đó, nhạc trở thành một trong bốn phương tiện để trị nước (lễ, nhạc, hình, chính), là một trong “lục nghệ” của Nho gia (thi, thư, lễ, nhạc, xạ, ngự). Rõ ràng là trong con mắt của Khổng học, âm nhạc được nâng lên thành một phạm trù của triết học chứ không đơn thuần là một bộ môn nghệ thuật có tính giải trí như quan niệm thông thường của chúng ta ngày nay. 2. Những biểu hiện của tư tưởng Khổng giáo về âm nhạc trong Nhã nhạc Huế Nhà Nguyễn (1802 - 1945) khi xây dựng và phát triển thể chế chính trị triều đại mình đã dựa vào nền tảng tư tưởng của Khổng giáo nhằm thiết lập một xã hội có trật tự, kỷ cương, trong đó quyền lực của vua rất được đề cao. Từ đó, các quan niệm về nhạc của Khổng giáo cũng thấm nhuần trong tư tưởng của triều đại và được áp dụng trong thực tế. Nếu vua Gia Long (1802 - 1820) là người có công khai sáng ra triều đại thì vua Minh Mạng (1820 - 1840) được xem là vị vua đưa đất nước phát triển đến đỉnh cao về nhiều mặt. Bên cạnh các việc ngoại giao, nội trị, nhà vua còn chú trọng đến việc xây dựng các điển chế về lễ và nhạc cho triều đại mình. Là người tôn sùng Nho học, vua Minh Mạng từng bàn với các quan trong bộ Lễ rằng: “Thanh âm thông suốt đến chính trị. Chuông là đồ nhạc khí, được dùng trong lễ tế Giao hay tại nơi triều đình; vì thế răn không được dùng âm nhạc làm náo động, lại bảo âm nhạc phải hòa hợp với nhau” (7, tr.154-155). Đây cũng chính là tư tưởng của Khổng giáo cho rằng “âm nhạc liên thông với chính trị” cũng như tính “hòa” trong âm nhạc như đã nêu trên. Từ quan điểm cho rằng âm nhạc liên thông với chính trị, triều đình Nguyễn chủ trương lễ nhạc chỉn chu là một biểu hiện của thời đại thịnh trị. Chính vì vậy, vua Minh Mạng đã cùng triều thần xây dựng chế độ lễ nhạc quy củ như là sự biểu thị của một chế độ văn minh. Nhà vua từng nói: “... Đến như lễ nhạc ở nơi triều đình, nên theo thứ tự mà sửa sang để làm sáng tỏ văn vật, thanh danh cho được tốt đẹp” (7, tr.188-189). Theo đó, các quy định về lễ và nhạc ở các đàn tế, tôn miếu, triều đình đã trở nên hoàn thiện nên vào năm Minh Mạng thứ 12, tức năm 1931, triều thần đã dâng biểu chúc mừng nhà vua vì lễ nhạc của triều đình “đã được tu chỉnh rõ ràng” (2, tr.188). Với tư tưởng cho rằng âm nhạc là biểu tượng của nền chính trị đất nước, Nhã nhạc Huế chủ yếu dùng điệu Bắc có tính trang trọng, tươi sáng; ngược lại, điệu Nam với vẻ buồn man mác, hoặc ai oán, bi thương rất ít khi xuất hiện trong Nhã nhạc. Các bài bản Nhã nhạc có tốc độ chậm hay chậm vừa, giai điệu tiến hành liền mạch, chân phương, ít nhảy quãng, ít biến tấu hoa lá, thể hiện sự bình hòa, an ổn của xã hội. Loại nhạc này làm tâm người ổn định, hướng thượng, không vọng tưởng đến những xúc cảm thường tình của con người. Nhà Nguyễn cũng dùng điệu múa Bát dật, điệu múa dành cho Thiên tử để biểu trưng cho quyền lực tối thượng của nhà vua. Về công dụng “di dưỡng tinh thần” của âm nhạc mà Nho học đã nêu, chính vua Minh Mạng đã thấm nhuần tư tưởng ấy khi cho rằng: “Nhạc để nuôi tính tình, nay Trẫm muốn định lại các âm luật nhưng chưa có người nào giúp” (7, tr.161). Ở Duyệt Thị Đường, nhà hát hoàng cung trong Đại Nội, Huế được xây dưới thời Minh Mạng có cặp câu đối: Âm nhạc tịnh trần hòa kì tâm dĩ dưỡng kì chí, Nghiên xuy tề hiến thủ kì thị nhi giới kì phi (Âm nhạc cùng phô bày, hòa được lòng người để nuôi dưỡng chí khí, Thiện ác đồng trình hiện, khiến giữ được cái đúng mà giới hạn cái sai)7. Cặp câu đối thể hiện chức năng hòa lòng người và di dưỡng tinh thần của âm nhạc như quan niệm của Khổng giáo nêu trên, qua đó thấy được tư tưởng của nhà Nguyễn nhấn mạnh đến tác dụng của âm nhạc đối với con người và xã hội như trong triết thuyết của Khổng giáo. Là một trong những biểu tượng cho sự hưng vượng của triều đại, nhà Nguyễn đã cho khắc in các bài thơ liên quan đến âm nhạc để trang trí trên điện Thái Hòa, ngôi điện quan trọng nhất của Hoàng Thành, nơi vua thiết triều. Ở đây có những câu thơ như: Văn vật thanh danh địa/ Y quan lễ nhạc đình (Đất văn vật có tiếng/ Áo mũ, lễ nhạc tràn ngập cả sân chầu); hay Cửu thành đăng Thuấn nhạc/ Tam Số 24 - Tháng 6 - 201846 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA chúc dật Nghiêu phong (Chương nhạc cửu thành của vua Thuấn (trỗi lên)/ Ba lần chúc tụng tràn ngập cả bờ cõi vua Nghiêu); hoặc các câu thơ: Lễ nhạc long tam đại/ Dần cung hiệp nhất đường (Lễ nhạc cũng thịnh trị như thời Tam đại/ Sự cung kính hòa hợp cả một nhà)... (11, tr.16-17). Các câu thơ có ý nhấn mạnh đến tính biểu tượng của âm nhạc đối với sự thanh bình, thịnh trị của đất nước như thời Nghiêu, Thuấn xưa, đồng thời đề cao vai trò của âm nhạc như trong tư tưởng của Khổng giáo. Tóm lại, trong tư tưởng Khổng giáo, tính chính trị, tính triết lý, tính giáo dục của âm nhạc được hết sức đề cao. Sự đề cao ấy có lúc đi đến độ cực đoan, phi thực tế, chẳng hạn quan điểm cho rằng âm nhạc là một trong bốn phương tiện để trị nước. Mặt khác, phải thừa nhận rằng từ cách đây 2.500 năm khi nhận thức của con người về thế giới và xã hội còn hạn chế nhưng Khổng giáo đã có những quan điểm tiến bộ về vai trò, tác dụng giáo dục, phản ánh xã hội của âm nhạc, tính biểu tượng của âm nhạc Tuy vậy, chức năng giải trí của âm nhạc vẫn chưa được quan tâm đúng mức trong tư tưởng của triết thuyết này. Lấy Khổng giáo làm đường hướng trị nước, triều Nguyễn đã áp dụng các quan niệm về nhạc của triết thuyết ấy trong việc thiết lập và thực hành Nhã nhạc của triều đại mình. Các quan niệm ấy được vận dụng một cách phù hợp với tình hình xã hội Việt Nam thế kỷ XIX. Cho nên, ngày nay, khi tiếp cận với Nhã nhạc Huế, ta phải có cách nhìn phù hợp mới hiểu được hết giá trị văn hóa, nghệ thuật và lịch sử của loại hình âm nhạc di sản này. P.T.T (TS., Học viện Âm nhạc Huế) Chú thích 1 Không rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết ông là khai quốc công thần của nhà Chu (1122 - 256 TCN), tức sống vào khoảng thế kỷ XII - XI TCN. 2 Bấy giờ được gọi là “cổ nhạc” để phân biệt với “tân nhạc”, tức âm nhạc dân gian của các nước chư hầu được đưa vào cung đình. 3 Nhạc khí như đàn tranh, có 7 dây 4 Nhạc khí như đàn tranh, có 25 dây 5 Nhạc khí gồm nhiều thanh đá treo lên giá, mỗi thanh có một cao độ khác nhau 6 Nhạc khí như khèn 7 Nhà hát Duyệt Thị Đường được xây dựng dưới thời Minh Mạng nên nhiều người cho rằng đây là câu đối của vua Minh Mạng, tuy nhiên đến nay chưa có tư liệu chứng minh điều đó. Tài liệu tham khảo 1. Trần Văn Khê (1997), Khổng Tử và Âm nhạc, Tiểu phẩm, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 2. Khổng Tử (1999), Kinh Lễ, Nguyễn Tôn Nhan dịch và chú giải, Nxb. Văn học, Tp. Hồ Chí Minh. 3. Khổng Tử (1950), Luận ngữ, bản dịch của Đoàn Trung Còn, Trí Đức Tòng thơ xuất bản, Sài Gòn. 4. Thái Văn Kiểm (1960), Cố đô Huế, Nha Văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn. 5. Trần Trọng Kim, Nho giáo, Nxb. Tân Việt in lần thứ tư, Sài Gòn. 6. Lưu Cương Kỷ, Phạm Minh Hoa (2002), Chu Dịch và Mỹ học, bản dịch của