Tám xu hướng mới nổi lên này đang làm biến đổi các thịtrường cũng nhưcác
doanh nghiệp. Các chuyên viên nên học hỏi để định hướng cho đầu ra của mình hơn là
chỉ đối phó lại điều đó. Bởi một mình nền công nghệkhông thể đóng vai trò quyết định
cho việc thay đổi giá trịnền kinh tế được mà chính việc các công ty tạo ra sựgiàu có
thật khi họkết hợp nền công nghệvới những cách thức mới trong hoạt động kinh
doanh mới làm nên điều đó. Thông qua công việc và nghiên cứu của mình, chúng tôi
vừa xác định được tám xu hướng cho phép nền công nghệcó thểsẽgiúp các doanh
nghiệp định hướng được và cho cảnền kinh tếtrong những năm sắp tới. Những xu
hướng này được chia ra làm ba vùng hoạt động kinh doanh chính bao gồm: quản lý
các mối quan hệ, quản lý vốn và tài sản, và cuối cùng là tiếp nhận được thông tin theo
những cách mới.
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongtt | Lượt xem: 1605 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan sát tám xu hướng về nền công nghệ kinh doanh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quan sát tám xu hướng về nền công
nghệ kinh doanh
Tám xu hướng mới nổi lên này đang làm biến đổi các thị trường cũng như các
doanh nghiệp. Các chuyên viên nên học hỏi để định hướng cho đầu ra của mình hơn là
chỉ đối phó lại điều đó. Bởi một mình nền công nghệ không thể đóng vai trò quyết định
cho việc thay đổi giá trị nền kinh tế được mà chính việc các công ty tạo ra sự giàu có
thật khi họ kết hợp nền công nghệ với những cách thức mới trong hoạt động kinh
doanh mới làm nên điều đó. Thông qua công việc và nghiên cứu của mình, chúng tôi
vừa xác định được tám xu hướng cho phép nền công nghệ có thể sẽ giúp các doanh
nghiệp định hướng được và cho cả nền kinh tế trong những năm sắp tới. Những xu
hướng này được chia ra làm ba vùng hoạt động kinh doanh chính bao gồm: quản lý
các mối quan hệ, quản lý vốn và tài sản, và cuối cùng là tiếp nhận được thông tin theo
những cách mới.
Quản lý các mối quan hệ
1. Phân bố việc cùng sáng tạo
Internet và những công nghệ liên quan đã đưa cho các công ty những cách hoàn
toàn mới nhằm thu hút được khả năng làm việc của những nhà cải cách mà không
phải bận tâm tới các ranh giới hợp tác. Ngày nay, trong nền công nghệ cao, sản phẩm
người tiêu dùng, và các lĩnh vực tự động, cùng cả những cái khác, các công ty luôn
luôn lôi kéo các khách hàng, các nhà cung cấp, các doanh nghiệp chuyên môn nhỏ và
cả những nhà thầu độc lập vào việc sáng tạo cho các sản phẩm mới. Bởi chính những
người không có chuyên môn lại thường đưa ra những nhận xét sáng suốt có thể giúp
cho việc định hướng phát triển sản phẩm, còn trong khi các công ty lại chủ yếu kiểm
soát quá trình đổi mới. Nền công nghệ ngày nay cho phép các công ty giao phó được
việc kiểm soát quan trọng cho những người bên ngoài – việc cùng sáng tạo – thực chất
là việc thuê các đối tác kinh doanh bên ngoài có thể làm việc cùng nhau qua các mạng
lưới để đưa ra được sự cách tân. Nhờ việc phân bố sự cách tân thông qua chuỗi giá trị,
các công ty có thể giảm được chi phí và tiếp thị những sản phẩm mới của mình ra thị
trường nhanh hơn bằng cách loại bỏ được những nút cổ chai có thể xảy ra do việc
kiểm soát toàn bộ.
Nội dung phần mềm hay bản thảo chính là kết quả đối với kiểu cải cách không
tập trung, ví dụ như hệ điều hành Linux được phát triển qua Internet bởi một mạng
lưới các chuyên gia, và các công ty thì đều có thể tạo ra được hàng hóa vật chất bằng
chính cách này. Như hãng Loncin, một hãng sản xuất xe máy hàng đầu của Trung
Quốc, vừa thiết lập bảng các đặc tả cho các sản phẩm và sau đó để cho các nhà cung
cấp của hãng làm việc với nhau nhằm thiết kế các thành phần, đảm bảo được mọi thứ
được lắp ráp khít với nhau và giảm được chi phí. Trước đây, hãng Loncin đã không
mở rộng việc sử dụng công nghệ thông tin nhằm quản lý cộng đồng nhà cung cấp –
đây là một phương pháp phản ánh được thực tế hoạt động kinh doanh ở Trung Quốc
và trên thị trường công nghiệp nói riêng. Nhưng những tiến bộ gần đây theo các tiêu
chuẩn mở dựa vào máy vi tính (ví dụ như các chương trình máy tính hỗ trợ thiết kế
làm việc cùng các loại phần mềm khác rất tốt) đang làm cho việc đồng sáng tạo hàng
hóa vật chất trở nên dễ hơn đối với những chuỗi giá trị phức tạp hơn trong các thị
trường cạnh tranh.
Nếu phương pháp cách tân này đang ngày được chấp nhận rộng rãi thì ảnh
hường của nó đối với các công ty và các ngành kinh doanh có thể sẽ trở nên quan
trọng. Ví dụ, chúng tôi ước tính rằng chỉ riêng nền kinh tế Mỹ cũng xấp xỉ 12% hoạt
động của tất cả các phòng thí nghiệm có thể sẽ bị biến đổi nhờ các phương pháp cách
tân được phân bố và lập thành mạng lưới nhiều hơn – từ đó sẽ làm giảm bớt được giá
trị hoạt động quản trị và luật pháp, mà tài sản về trí tuệ thường liên quan tới việc tái
cơ cấu hoặc loại bỏ bớt một số công việc nghiên cứu và phát triển truyền thống.
Các công ty đang theo đuổi xu hướng này sẽ ít kiểm soát hơn qua sự đổi mới
song tài sản về trí tuệ cũng vì thế mà sẽ ít đi. Và như vậy các công ty cũng sẽ phải
cạnh tranh để thu hút được sự chú ý và thời gian của những người cộng tác có khả
năng lớn và tốt nhất.
2. Việc coi những người tiêu dùng cũng như các nhà cải cách
Những người tiêu dùng cũng cùng sáng tạo vói các công ty; từ điển bách khoa
trực tuyến Wikipedia là một ví dụ có thể được xem như một dịch vụ hoặc sản phẩm
được tạo ra nhờ chính những khách hàng được phân bố của nó. Nhưng cách mà các
công ty cùng sáng tạo với các đối tác lại là hoàn toàn khác so với cách cùng sáng tạo
với các khách hàng, những sự khác biệt đó được thể hiện rõ đến nỗi mà cách cùng với
người tiêu dùng thực sự là một xu hướng riêng biệt. Bởi những sự khác biệt đó bao
gồm cả bản chất và phạm vi của những tác động, tình trạng kinh tế của việc tạo cho
những tác động đó hoạt động và cả những thách thức quản lý kết hợp với những tác
động đó.
Ngay cả việc Internet vừa được tiến triển – sự tiến triển được thúc đẩy một phần
nhờ các công nghệ Web 2.0 mới – thì nó cũng đã trở thành một nền tảng phổ biến hơn
cho việc tương tác, truyền thông và cả sự tích cực. Còn những người sử dụng thì ngày
càng muốn làm việc trực tuyến cùng với người khác cũng như với các tổ chức của tất
cả các lĩnh vực. Và như thế thì các công ty có thể áp dụng hình thức ràng buộc khách
hàng mới này cho lợi ích kinh tế của họ.
Chẳng hạn như OhmyNews là một trang báo được viết trực tuyến phổ biến ở
Hàn Quốc bởi sự đóng góp của hơn 60000 “cư dân phóng viên”, và nó nhanh chóng
trở thành một trong những phương tiện truyền thông có thế lực nhất Hàn Quốc với
khoảng 700000 lượt xem một ngày. Một công ty khác cũng đã có một cách ràng buộc
các khách hàng của mình, đó là với cửa hàng quần áo trực tuyến Threadless, họ yêu
cầu mọi người gợi ý cho những mẫu thiết kế mới về áo phông ngắn tay. Vì vậy mà mỗi
tuần, hàng trăm người tham dự đã đưa ra những ý tưởng và cộng đồng đó đã tổ chức
những cuộc bỏ phiếu lớn cho những mẫu được yêu thích. Cứ như vậy, từ bốn đến sáu
mẫu thiết kế hàng đầu sẽ được in lên những chiếc áo phông và được bán trong cửa
hàng, còn những người chiến thắng thì sẽ được nhận những giải thưởng bằng tiền mặt
cùng với chứng nhận của cửa hàng. Và tới tháng chín năm 2007, Threadless đã mở
công ty kinh doanh bán lẻ đầu tiên của mình ở Chicago.
Những công ty lôi kéo các khách hàng vào việc thiết kế, kiểm tra, tiếp thị (ngay
cả việc tiếp thị lan truyền) hay cả quá trình sau bán hàng nhằm để có được những hiểu
biết sâu sắc hơn về các nhu cầu và hành vi khách hàng của mình cũng như có thể có
khả năng giảm chi phí nhằm thu hút được các khách hàng thì cần phải có sự chân
thành hơn nữa và phải tăng tốc được các chu trình phát triển. Bởi một công ty công
khai cho phép các khách hàng giúp mình cách tân thì phải khẳng định được rằng điều
đó hoàn toàn được tác động chính đáng qua việc lượm lặt thông tin từ chính nhu cầu
của khách hàng. Thế nhưng công ty đó cũng phải đề phòng được việc tập trung vào
những nhu cầu trước mắt hơn là lâu dài của khách hàng và phải cẩn thận tránh việc gia
tăng nhanh để rồi sau đó chìm dần vào quên lãng của chính những người mong chờ nó.
3. Gia nhập vào thế giới nhân tài
Do càng ngày càng nhiều công việc tinh vi được thực hiện trực tuyến tương tác
cùng những công cụ cộng tác và truyền thông mới xuất hiện mà các công ty có thể
ngày càng tăng việc gia công những phần công việc chuyên biệt của mình và vẫn duy
trì được sự liên kết về tổ chức. Tuy rằng nền công nghệ cho phép các công ty phân bố
được sự cách tân thông qua các mạng lưới hoặc các khách hàng nhưng nó cũng khiến
các công ty phải chia công việc thành nhiều phần hơn theo các nhóm như chuyên gia,
người không bị ràng buộc công việc và cả mạng lưới nhân tài.
Nhân tài xuất sắc cho một phạm vi hoạt động – từ tài chính tới tiếp thị hay từ
công nghệ thông tin tới điều hành – đều có thể được tìm thấy ở bất kỳ đâu. Người tốt
nhất cho một công việc có thể là một người không bị ràng buộc công việc ở Ấn Độ
hoặc là một nhân viên của một công ty nhỏ ở Ý hơn là một ai đó làm việc cho một nhà
cung cấp các dịch vụ kinh doanh toàn cầu. Các công nghệ phần mềm và Internet đang
làm cho điều này trở nên dễ dàng hơn còn các công ty mất ít chi phí hơn nhằm hòa
nhập và quản lý được công việc của số người gia công đang được mở rộng, cũng chính
việc phát triển này đã mở ra nhiều lựa chọn ký kết cho các nhà quản lý về trách nhiệm
chung.
Ý nghĩa của viêc chia nhỏ công việc ra cho các cộng tác viên đang được quan
tâm bởi lý do các mô trình triển khai nhân tài mới đã trỗi dậy. Chẳng hạn như
TopCoder, một công ty vừa tạo ra một mạng lưới các nhà phát triển phần mềm, chính
là một mô hình như vậy. TopCoder đưa cho những tổ chức muốn có phần mềm do
công ty phát triển quyền truy cập vào mạng lưới nhân tài của mình. Lúc này, các khách
hàng chỉ cần trình bày kiểu phần mềm họ muốn và đưa ra giá cho những người phát
triển giỏi nhất về loại phần mềm đó – phương pháp tiếp cận này đỡ tốn chi phí hơn
việc thuê những kỹ sư có kinh nghiệm. Hơn nữa, những thay đổi về bản chất của các
mối quan hệ lao động có thể dẫn tới những mô hình trả giá mới làm thay đổi các hình
thức thanh toán từ trả khoán sang trả tương xứng theo kết quả.
Xu hướng này nên được đưa ra trong các lĩnh vực như phần mềm, tư vấn chăm
sóc sức khỏe, các dịch vụ chuyên nghiệp và cả bất động sản, những lĩnh vực mà các
công ty có thể phân khúc dễ dàng công việc thành những nhiệm vụ riêng biệt cho các
nhà thầu độc lập rồi sau đó lại tập hợp lại. Dù cho các công ty có chuyển theo hướng
này thì họ cũng cần phải hiểu rõ hơn về giá trị vốn con người và phải quản lý được các
nhóm người cộng tác khác nhau một cách phù hợp. Họ cũng sẽ phải xây dựng những
khả năng để rằng buộc được toàn bộ nhân tài hoặc ký kết với những nhóm nhân tài
chuyên gia trong việc cung cấp được những dịch vụ như vậy. Lợi thế cạnh tranh này sẽ
khiến cho các công ty có thể làm chủ được việc chia nhỏ và tổ hợp lại các nhiệm vụ.
4. Tạo ra nhiều giá trị hơn từ những sự tương tác
Các công ty đang tự mình hoặc thuê bên ngoài làm gia tăng sự cân đối về sản
lượng giữa các hoạt động sản xuất với các hoạt động văn phòng hoặc giao dịch. Dĩ
nhiên, sự cân đối phát triển nguồn lực lao động trong những nền kinh tế đã phát triển
chủ yếu phải có cam kết trong công việc, điều này có liên quan tới các cuộc thương
lượng và đám phán, sự hiểu biết, óc phán đoán và cả sự hợp tác đặc biệt – và tất cả
điều này được gọi là những tương tác ngầm định. Chúng tôi cho rằng tình trạng làm
thuê trong mọi nghề chủ yếu đều liên quan tới chính những tương tác ấy, và chính
những tương tác này lý giải được cho toàn bộ tình trạng làm thuê ở Mỹ vào năm 2015
sẽ là 44%, cao hơn so với 40% hiện nay. Châu Âu và Nhật Bản sẽ trải qua những thay
đổi tương tự như vậy trong tổ chức các lực lượng lao động của mình.
Việc ứng dụng công nghệ vừa giảm bớt những sự khác biệt giữa hiệu quả của
những nhân viên sản xuất với những nhân viên giao dịch, nhưng những mâu thuẫn lớn
vẫn còn tồn tại trong tình trạng sản xuất của các mâu thuẫn ngầm định giá trị cao. Việc
cải thiện nó lại thiên về việc làm gia tăng hiệu quả của họ, chẳng hạn như bằng việc
tập trung họ vào những tương tác tạo nên giá trị và đảm bảo rằng họ có được điều kiện
và thông tin tốt, hơn là về năng lực của họ. Các công cụ công nghệ thúc đẩy những
tương tác ngầm định chẳng hạn như các wiki, các môi trường nhóm ảo, và cả các hội
nghị truyền hình đều có thể trở nên phổ biến không kém gì các máy vi tính bây giờ.
Cho dù các công ty có học được cách sử dụng các công cụ này thì họ cũng sẽ phải phát
triển những cách tân về quản lý – những cách nhanh hơn và thông minh hơn đối với
những cá nhân cũng như các nhóm nhằm tạo ra giá trị thông qua chính những cách tân
đó – và điều đó sẽ trở nên khó khăn đối với những đối thủ cạnh trạnh của họ nhằm
nhái lại. Các công ty trong các lĩnh vực như chăm sóc sức khỏe hay ngân hàng thì luôn
sẵn sàng thực hiện theo cách này.
Và tuy các công ty cải thiện được năng suất của những người công nhân thì sẽ
vẫn cần kết hợp những đầu tư trong các nền công nghệ với sự phối hợp đúng lúc giữa
những lời động viên và các giá trị tổ chức nhằm định hướng việc sử dụng hay chấp
nhận của mình qua chính những người lao động. Nhưng vẫn có lý do quan trọng khiến
các công ty vẫn phải tự mình làm các hoạt động giao dịch và việc trả lương có thể
được thấy thường nhanh hơn nhiều cũng như được đánh giá rõ ràng hơn nhiều so với
việc trả lương từ những sự đầu tư nhằm tạo cho công việc ngầm định hiệu quả hơn.
Việc tạo ra trường hợp kinh doanh đối với việc đầu tư vào các tương tác sẽ trở thành
thách thức mà chủ yếu là đối với các nhà quản lý.
Quản lý vốn và tài sản
5. Mở rộng lĩnh vực tự động hóa
Các công ty, các chính phủ và cả những tổ chức khác vừa đưa vào các hệ thống
những tiến trình và nhiệm được tự động hóa như: các công nghệ dự báo và cung cấp
chuỗi, các hệ thống cho việc lập kế hoạch nguồn doanh nghiệp, quản lý quan hệ khác
hàng và quản lý nhân sự, các cơ sở dữ liệu khách hàng và sản phẩm, và cả những trang
Web. Ngày nay, những hệ thống này đang được kết nối với nhau thông qua những
chuẩn chung trong việc trao đổi dữ liệu và thể hiện các quy trình kinh doanh theo các
bit và byte. Và còn hơn nữa, thông tin này có thể được kết hợp theo những cách mới
nhằm tự động làm tăng thêm danh sách các hoạt động chính từ việc quản lý kiểm kê
tới dịch vụ khách hàng.
Trong suốt những năm cuối 1990, FedEx và UPS đã hoàn toàn kết nối dữ liệu
thông qua các hệ thống lưu vết nội bộ của họ tới Internet – một nhiệm vụ rất quan
trọng thời điểm đó – để cho phép các khách hàng theo dõi được các bưu kiện từ những
trang Web của mình mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào từ phía công ty. Nhờ việc
áp dụng và kết nối các hệ thống nhằm làm tự động các tiến trình trong việc trả lời các
yêu cầu từ các khách hàng mà đã làm giảm chi phí đáng kể về việc phục vụ khách
hàng trong khi lại làm tăng được sự hài lòng và niềm tin từ họ. Gần đây hơn thì
Carrefour, Metro, Wal-Mart Stores và cả những công ty bán lẻ lớn nữa cũng tham gia
sử dụng (và yêu cầu cả những nhà cung cấp cùng sử dụng) những nền công nghệ tạo
thẻ kỹ thuật số chẳng hạn như nhận dạng tần số radio (radio frequency identification -
RFID) và tích hợp chúng theo đúng với các hệ thống chuỗi cung cấp khác nhằm tự
động cung cấp thêm việc quản lý chuỗi và kiểm kê. Tỉ lệ chấp nhận tồn tại này đã làm
thất vọng những người ủng hộ các nền công nghệ nhưng khi giá của những thẻ kỹ
thuật số này giảm xuống thì chúng cũng có thể giảm đáng kể chi phí việc quản lý sự
phân bố và làm tăng doanh thu cho các công ty bằng cách trợ giúp các công ty quản lý
việc cung cấp hiệu quả hơn.
Các công ty thì vẫn còn có rất nhiều các công việc được lặp đi lặp lại có thể
được làm tự động mà không nhất thiết phải qua trung gian là những chiếc máy vi tính
– chẳng hạn như trong các lĩnh vực và các vùng mà công nghệ thông tin phát triển với
tốc độ chậm hơn – hay để nối “những điểm đứng riêng tự động” với nhau và như vậy
thì đưa cho những nhà quản lý và các khách hàng khả năng để làm những điều mới. Tự
động hóa là một sự đầu tư tốt nếu nó không chỉ làm giảm được chi phí mà còn trợ giúp
những người sử dụng có được cái họ muốn nhanh chóng và dễ dàng hơn, nhưng nó có
thể không phải là một ý tưởng hay nếu điều đó đưa lại cho họ những kinh nghiệm khó
chịu. Đó chính là bí quyết để có được sự cân bằng chuẩn giữa việc làm tăng lợi nhuận
và làm cho các khách hàng thấy thoải mái.
6. Không đóng gói sản phẩm chuyển đi
Nền công nghệ trợ giúp các công ty sử dụng các tài sản cố định một cách hiệu
quả hơn bằng việc phân bố các hệ thống lớn thành những phần có thể tái sử dụng, đánh
giá và xác định được việc sử dụng của mỗi phần và việc quảng cáo sử dụng còn giảm
được chi phí một cách đáng kể. Các nền công nghệ thông tin và truyền thông kiểm
soát được cơ bản việc lưu vết và xác định những mô hình mới cũng như làm cho nó có
thể có được những hệ thống phân phối và lập kế hoạch sản xuất hiệu quả.
Lấy ví dụ như Amazon.com vừa mới mở rộng mô hình kinh doanh bằng cách
cho phép những nhà bán lẻ khác sử dụng các dịch vụ phân bố và tổ chức của mình.
Đồng thời Amazon.com cũng đưa ra những cơ hội cho những người phát triển phần
mềm độc lập có được khả năng xử lý trên cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của mình
đến nỗi mà họ không phải mua về riêng cho mình. Các nhà điều hành mạng ảo di động
là một ví dụ khác của xu hướng này, họ cung cấp các dịch vụ không dây mà không cần
phải đầu tư cho một hạ tầng cơ sở mạng lưới. Và với mức cơ bản nhất của sản phẩm
không đóng gói thì tới 80% tất cả các công ty đều đang cố gắng đáp ứng, và theo một
nghiên cứu gần đây về các xu hướng Web thì các công ty đều định đầu tư vào các dịch
vụ Web và các công nghệ có liên quan, dù cho các ứng dụng rất đa dạng và nhiều công
ty sử dụng các nền công nghệ này nhằm đưa ra cho các công ty khác – các nhà cung
cấp, các khách hàng và cả những người tham dự xung quanh – khả năng truy cập vào
các phần kiến trúc công nghệ thông tin của họ thông các giao thức chuẩn.
Việc không đóng gói làm việc hoàn toàn theo cơ chế vật lý. Ngày nay bạn có
thể mua những bộ phận nhỏ trên một chiếc máy bay phản lực, hay của một chiếc xe
hơi thể thao đắt tiền hoặc thậm chí là những chiếc túi xách thời trang. Việc không
đóng gói thực sự hấp dẫn giới cung cấp bởi vì nó cho phép các hoạt động kinh doanh
chuyên về tài sản – các nhà máy, các cửa hàng, ngành vận tải, các tòa nhà văn phòng,
các trung tâm dữ liệu, các mạng lưới và tất cả những điều đó – gia tăng được tỉ lệ sử
dụng và hơn nữa họ có thể xoay vòng được vốn đầu tư. Còn với giới tiêu dùng thì việc
không đóng gói đưa ra khả năng truy cập vào các nguồn và các tài sản mà theo cách
khác có thể đòi hỏi phải có sự đầu tư cố định hoặc quy mô lớn mới không bị mất nhiều
chi phí cạnh tranh. Đối với những công ty và các nhà đầu tư đang tìm kiếm khả năng
(hoặc khả năng phụ có thể thay đổi) thì việc không đóng gói khiến họ có thể có được
khả năng truy cập vào các tài sản một cách nhanh chóng, mở rộng được quy mô các
hoạt động kinh doanh nhưng vẫn giữ được việc cân bằng tài sản của họ, cũng như tận
dụng được việc tiêu thụ hấp dẫn và cả việc ký kết các mô hình có thể dễ hơn cho việc
báo cáo thu nhập của họ.
Các công ty mà làm cho các tài sản của mình có khả năng sử dụng được cả
trong lẫn ngoài thì sẽ cần phải quản lý các xung đột nếu cầu vượt quá cung. Một thuận
lợi cạnh tranh thông qua quy mô có thể khó duy trì được khi có quá nhiều người tham
gia, kể cả lớn lẫn nhỏ, với quyền truy cập như nhau tới các nguồn và chi phí thì lại
thấp.
Tiếp nhận thông tin theo những cách mới
7. Việc đưa khoa học nhiều hơn vào quản lý
Không chỉ các công cụ sản xuất và Internet đều mở rộng phạm vi và đưa ra việc
tiếp nhận với các công nhân làm việc ở bàn giấy, mà nền công nghệ còn đang giúp cho
các nhà quản lý khai thác được những khối lượng dữ liệu lớn hơn để đưa ra được
những quyết định thông minh hơn, và phát triển được những hiểu biết sâu sắc có thể
tạo ra những thuận lợi cạnh tranh và các mô hình kinh doanh mới. Từ “ideagoras”
(eBay – các thị trường cho những ý tưởng) để dự báo được những thị trường tới những
phương pháp quản lý thực hiện, những tiêu chuẩn phổ biến dựa trên các nền công nghệ
thúc đẩy sự kết hợp, việc xử lý và việc tạo quyết định dựa vào sử dụng việc phát triển
các nguồn dữ liệu dồi dào.
Những người tham gia đang được dẫn tới việc khai thác sự bùng nổ thông tin
này bằng một loạt các kỹ thuật quản lý khác nhau. Như Google cổ vũ sự cách tân
thông qua một thị trường nội bộ: những người làm công này đóng góp ý tưởng, còn
những người làm công khác lại quyết định liệu một ý tưởng đó là đáng được theo đuổi
hoặc liệu họ có sẵn sàng làm việc hết mình vì nó không. Còn Intel lại tích hợp một “thị
trường dự đoán” bằng những tiến trình dự đoán ngắn hạn nhằm xây dựng v