Quản trị tri thức và khả năng áp dụng trong các trường đại học tại Việt Nam

Tóm tắt: Quản trị tri thức đang là một xu hướng rất phổ biến ở các nước phát triển trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội như kinh tế, chính trị, giáo dục, quốc phòng . Về lĩnh vực giáo dục đại học, Việt Nam đang tồn tại nhiều bất cập lớn, chất lượng giáo dục đại học đang ở mức thấp hơn so với yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Việc nghiên cứu để ứng dụng các mô hình quản trị mới đáp ứng nhu cầu đổi mới hệ thống giáo dục đại học đang ngày càng trở nên cấp thiết. Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung vào việc phân tích tổng quan về quản trị tri thức trong trường đại học và đưa ra một số khuyến nghị cho các trường đại học trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học

pdf20 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 56 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quản trị tri thức và khả năng áp dụng trong các trường đại học tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUẢN TRỊ TRI THỨC VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM Lê Đình Bình1* Tóm tắt: Quản trị tri thức đang là một xu hướng rất phổ biến ở các nước phát triển trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội như kinh tế, chính trị, giáo dục, quốc phòng. Về lĩnh vực giáo dục đại học, Việt Nam đang tồn tại nhiều bất cập lớn, chất lượng giáo dục đại học đang ở mức thấp hơn so với yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Việc nghiên cứu để ứng dụng các mô hình quản trị mới đáp ứng nhu cầu đổi mới hệ thống giáo dục đại học đang ngày càng trở nên cấp thiết. Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung vào việc phân tích tổng quan về quản trị tri thức trong trường đại học và đưa ra một số khuyến nghị cho các trường đại học trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo ra những dấu ấn quan trọng trong lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội. Dưới sự tác động của khoa học và công nghệ, lực lượng sản xuất xã hội đã có những bước phát triển mạnh, tạo ra một xu hướng mới mà ở đó tri thức, đặc biệt là tri thức khoa học và công nghệ ngày càng đóng vai trò quyết định đối với nền sản xuất xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới: từ kinh tế công nghiệp truyền thống sang kinh tế tri thức, đây * Nghiên cứu sinh, Viện Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội - Thạc sĩ, Ban Tổ chức Cán bộ, Đại học Quốc gia Hà Nội. 172 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM được xem là một xu hướng phát triển chủ đạo của thế giới trong thế kỷ XXI. Các tổ chức, doanh nghiệp (DN) chịu sức ép phải không ngừng đổi mới, sáng tạo trong sản phẩm, dịch vụ và quy trình sản xuất kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển trên thị trường. Các nhà quản trị phải suy nghĩ cách thức quản lý mới bởi quản lý bằng mệnh lệnh và sự kiểm soát chặt chẽ người lao động trong quy trình sản xuất đã không phù hợp trong môi trường sáng tạo năng động. Khi tri thức trở nên quan trọng hơn vốn, lao động và tài nguyên trong việc cấu thành giá trị kinh tế, người ta nghĩ tới đối tượng trọng tâm mới của hoạt động quản trị, đó là quản trị tri thức. Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu của Việt Nam nghiên cứu về quản trị đại học như Phạm Thị Ly (2008); Nguyễn Đông Phong & Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2013), Tuy nhiên, các nghiên cứu trên tập trung nghiên cứu các nhân tố vĩ mô như cơ chế chính sách. Có rất ít các nghiên cứu tiếp cận theo hướng quản trị hoạt động, nghiên cứu chuyên sâu vào từng quá trình hoạt động trong trường đại học. Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về quản trị đại học theo hướng tiếp cận nhìn nhận trường đại học như một doanh nghiệp. Thông qua góc nhìn về quản trị hoạt động, các phương pháp quản trị khoa học của doanh nghiệp như quản trị tri thức, quản trị chất lượng tổng thể, Balanced Scorecard, quản trị mục tiêu,... đã được nghiên cứu áp dụng thành công tại các trường đại học trên thế giới. Quản trị tri thức (sau đây gọi tắt là QTTT) đã và đang được nghiên cứu, áp dụng thành công tại rất nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới, đặc biệt là tại Mỹ, Nhật Bản và châu Âu. Các trường đại học trên đang áp dụng thành công QTTT vào các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao tri thức nhằm tối ưu hóa các nguồn lực bao gồm con người, tài chính và hệ thống cơ sở vật chất. Một số nghiên cứu cho thấy có một mối quan hệ tích cực giữa các hoạt động QTTT đến việc cải thiện hiệu quả của tổ chức, việc QTTT có ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo và năng lực lãnh đạo này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của tổ chức (Francisco Javier Lara, 2008). Như vậy, 173 QUẢN TRỊ TRI THỨC VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM thực hiện tốt việc QTTT trong tổ chức sẽ đem lại hiệu quả tốt hơn cho tổ chức của mình. Tại các trường đại học tại Việt Nam, việc thực hiện QTTT còn rất hạn chế, rất ít trường đại học quan tâm đến việc thực hiện quản trị tri thức, điều đáng nói ở đây là các trường đại học chưa am hiểu một cách rõ ràng và chưa có nhận thức đầy đủ về tác động của hoạt động QTTT đến kết quả hoạt động của tổ chức, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động QTTT trong các trường đại học. Trong bối cảnh này, việc nhận thức một cách đầy đủ về tầm quan trọng cũng như thấy được những tác động tích cực của hoạt động QTTT đối với kết quả hoạt động của trường đại học là điều tối quan trọng. Về thực tiễn, trong môi trường cạnh tranh giáo dục toàn cầu, các trường đại học cần có động lực mạnh mẽ để trở thành các tổ chức học hỏi năng động, tích cực và phát triển hoạt động học hỏi ở cấp độ tổ chức để nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu. Việt Nam đang đổi mới giáo dục đại học theo định hướng tự chủ và trách nhiệm giải trình để cải thiện chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu của xã hội theo hướng phát huy tốt mọi nguồn lực, trong đó đặc biệt quan trọng là nguồn lực tri thức của nhà trường. Cụ thể, cần phát huy nguồn lực tri thức của từng cá nhân (cán bộ quản lý, giảng viên..) để áp dụng vào các hoạt động chuyên môn, từ đó nâng cao tính thực tiễn trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu; cũng như hoạt động quản lý của nhà trường theo định hướng quản trị trường đại học hiện đại thông qua quá trình học hỏi của tổ chức. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu này sẽ có ý nghĩa thực tiễn khi dựa trên kết quả nghiên cứu lý thuyết để đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động QTTT của trường đại học hướng tới nâng cao kết quả hoạt động của nhà trường. 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN TRỊ TRI THỨC TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC 2.1. Khái niệm về quản trị tri thức Ý tưởng tri thức nên được quản lý bắt đầu phổ biến từ giữa thập niên 90 của thế kỷ XX sau các công trình nghiên cứu của Thomas Steward về vốn tri thức (1991, 1994), Ikujiro Nonaka về kiến tạo tri thức 174 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM (1991, 1995). Sau gần hai thập kỷ, QTTT đã trở thành một lĩnh vực trưởng thành ở cả khía cạnh nghiên cứu và thực tế. Về nghiên cứu, cho đến nay đã có khoảng hơn 40 tạp chí khoa học quốc tế về quản trị tri thức; bên cạnh đó là rất nhiều các hội nghị khoa học quốc tế được tổ chức hàng năm và các sách, bài nghiên cứu được xuất bản. Hơn 60 trường đại học thuộc nhiều quốc gia, đặc biệt là Mỹ và Anh, đã mở thêm chuyên ngành QTTT bên cạnh các chuyên ngành quản trị kinh doanh truyền thống để đào tạo lớp người quản lý mới, thích ứng với môi trường mới. Trong thực tế quản lý DN, QTTT đã và đang được ứng dụng một cách nghiêm túc, đặc biệt ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản và nhiều nước châu Âu. Theo Davenport (1998) thì QTTT là quá trình thu nhận, phát triển, chia sẻ và sử dụng hữu hiệu tri thức của tổ chức. “QTTT là một mô hình quản lý đa ngành mới nổi”, ngụ ý tới tất cả các khía cạnh của tri thức trong tổ chức, bao gồm sáng tạo, mã hóa, chia sẻ và bí quyết làm cho những hoạt động này thúc đẩy quá trình học tập và cải tổ của tổ chức" (Gotcha Project (SIMS), www.asis.org. trích trong Dalkir, 2005). “QTTT là quá trình xác định, tổ chức, chuyển giao và sử dụng thông tin và những kiến thức chuyên môn trong tổ chức" (American Productivity & Quality Center, trích trong Dalkir, 2005). Tóm lại, có rất nhiều định nghĩa về QTTT theo nhiều góc độ khác nhau. Nhưng có thể hiểu ngắn gọn QTTT liên quan đến tri thức bên trong tổ chức và cách dùng tri thức này tạo ra lợi thế cạnh tranh cũng như phát triển bền vững cho doanh nghiệp bao gồm việc nắm bắt, sáng tạo, chia sẻ, thu thập và áp dụng tri thức mới. Quản trị tri thức mang lại lợi ích cho từng cá nhân trong tổ chức, cho từng tập thể nhóm và cho cả tổ chức. Bảng 1 liệt kê một số lý do tại sao quản trị tri thức lại quan trọng đối với từng loại đối tượng. 175 QUẢN TRỊ TRI THỨC VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM Bảng 1. Lợi ích của việc áp dụng quản trị tri thức vào công việc Đối tượng Vai trò Đối với cá nhân + Giúp các cá nhân hoàn thành tốt công việc và tiết kiệm thời gian thông qua việc ra quyết định và giải quyết vấn đề tốt hơn. + Tạo ý thức kết nối gắn bó cộng đồng trong tổ chức. + Giúp các cá nhân thường xuyên cập nhật bản tình hình trong tổ chức. + Tạo những thử thách và cơ hội để cá nhân đóng góp vào tổ chức. Đối với nhóm + Phát triển kỹ năng chuyên môn + Xúc tiến việc tư vấn chia sẻ giữa những nhân viên có kinh nghiệm lành nghề với người mới vào nghề. + Thúc đẩy hợp tác và kết nối hiệu quả hơn. + Phát triển những hệ thống kiến thức nghiệp vụ chung giữa các thành viên tổ chức. + Xây dựng tiếng nói chung cho tập thể. Đối với tổ chức + Giúp hoạch định chiến lược. + Giải quyết các vấn đề nhanh chóng. + Triển khai những quy tắc thực hành tốt nhất. + Cải thiện chất lượng của tri thức tiềm ẩn bên trong sản phẩm và dịch vụ. + Thúc đẩy trao đổi ý tưởng và tăng cơ hội cho  đổi mới. + Giúp tổ chức tăng năng lực cạnh tranh. + Tạo dựng được kho lưu trữ tri thức của tổ chức. (Nguồn: Tác giả tổng hợp) Một trong những thách thức lớn nhất trong hoạt động QTTT là việc tổ chức, doanh nghiệp phải quản lý công việc hiệu quả, không ngừng thúc đẩy hoạt động hợp tác, giúp đỡ những nhân viên tri thức kết nối và tìm ra những chuyên gia, giúp tổ chức học hỏi và đưa ra những quyết định dựa trên những dữ liệu, thông tin, tri thức đầy đủ, hợp pháp và được diễn giải tốt. Muốn thực hiện được tốt hoạt động quản trị tri thức, vấn đề then chốt phải xác định được cái gì là quan trọng đối với những lao động tri thức - cái gì thực sự có ý nghĩa đối với họ và thực tiễn công việc chuyên môn của họ, cũng như những gì tổ chức cần tiến hành để đạt được điều này. Điều quan trọng là phải đạt được sự cân bằng. Nếu mục tiêu 176 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM khởi đầu quá lớn, hoạt động quản trị tri thức có nguy cơ trở nên quá chung chung, quá trừu tượng, quá quan cách và quá xa vời để những cá nhân trong tổ chức, doanh nghiệp có thể lĩnh hội tinh thần của quản trị tri thức. Tuy nhiên, nếu mục tiêu khởi đầu quá nhỏ, hoạt động quản trị tri thức có thể không tạo ra sự tương tác giữa các cá nhân đủ để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Để khích lệ hoạt động quản trị tri thức trong doanh nghiệp, cần phải có sự hỗ trợ tích cực từ hệ thống công nghệ thông tin, cũng như hoạt động quản lý, nhằm tạo ra những phản hồi và ưu đãi thích đáng cho các hoạt động quản trị tri thức. Cuối cùng, để đạt hiệu quả tối ưu, những người tham gia vào hoạt động này cần phải phát triển kỹ năng và có hiểu biết về quản lý tri thức. Những kỹ năng, hiểu biết này vô cùng phong phú và đa dạng, xuất phát từ bản chất đa ngành của quản trị tri thức. Quản trị tri thức được liên hệ với rất nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau, nhưng có một kết nối rất hay bị bỏ quên, đó là mối liên hệ giữa những kỹ năng về quản trị tri thức và kỹ năng của những chuyên gia quản lý thông tin (chuyên gia quản lý thông tin lại là những người ghi lại, tổ chức, lưu trữ, khôi phục và phổ biến những thông tin đã được đăng tải hoặc thông tin kỹ thuật số). Hoạt động quản trị tri thức đã làm nảy sinh một số vai trò và trách nhiệm mới của tổ chức, và rất nhiều trong số này đạt được từ một tổ chức lành mạnh, không chỉ dựa trên hệ thống công nghệ thông tin tiên tiến, mà còn dựa trên sự hiểu biết về cả ngành khoa học về thông tin. 2.2. Chu trình quản trị tri thức Sau khi phân tích, tổng hợp những nghiên cứu và cách tiếp cận chủ đạo đề cập tới chu trình quản trị tri thức, Dalkir (2005) đúc kết lại thành 3 giai đoạn chính, bao gồm: Nắm bắt hoặc/và sáng tạo tri thức; Chia sẻ và phân phối tri thức; Thu nhập và áp dụng tri thức. Trong quá trình chuyển đổi từ nắm bắt/sáng tạo sang giai đoạn chia sẻ và phân phối, tri thức được đánh giá, phân tích. Tri thức sau đó được đặt vào trong ngữ cảnh để có thể hiểu được (thu nhận) và sử 177 QUẢN TRỊ TRI THỨC VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM dụng được (áp dụng). Giai đoạn này sau đó được quay vòng ngược lại giai đoạn đầu để cập nhật những nội dung tri thức mới. Chu trình quản trị tri thức được thể hiện ở trong Hình 1. Hình 1: Chu trình quản trị tri thức (Nguồn: Dalkir (2005)) Nắm bắt tri thức ngụ ý tới việc nhận ra và sau đó có thể mã hóa những tri thức nội bộ đang tồn tại nhưng chưa được chú ý tới của tổ chức hoặc/và những tri thức mới, know-how, những cách tân mà trước đó không tồn tại trong tổ chức. Khi tri thức được phát minh ra theo cách này, bước quan trọng tiếp theo là đưa ra cách đánh giá theo tiêu chí lựa chọn phù hợp với các mục tiêu của tổ chức. Tiếp theo là khâu đánh giá giá trị, là khâu đưa tri thức mới vào một bối cảnh cụ thể. Cần phải phân tích mối quan hệ giữa tri thức và những nội dung liên quan đến nó: tác giả hay người khởi xướng ý tưởng và các chuyên gia trong ngành, cũng như những người có kinh nghiệm trong việc sử dụng hiệu quả nội dung này. Cuối cùng, bối cảnh hóa được cho là diễn ra thành công khi một nội dung mới được vận dụng vào chu trình kinh doanh của tổ chức một cách chắc chắn, liền mạch. Chu trình tích hợp bao gồm hầu hết các bước được mô tả trong chu trình quản trị tri thức được nói đến trong phần này. Chu trình quản trị tri thức sau đó được lặp lại khi người sử dụng hiểu và quyết định sử dụng nội dung đó. Người dùng sẽ xác nhận giá 178 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM trị sử dụng và họ sẽ báo khi nội dung đó hết hạn sử dụng hay không còn giá trị nữa. Người dùng sẽ giúp đánh giá phạm vi nội dung hoặc làm thế nào để khái quát hóa tri thức cụ thể thành những bài học kinh nghiệm thực tiễn có thể tham khảo được. Họ cũng thường xuyên cập nhật bản thông tin mới, những thứ giúp họ có thể đóng góp vào những chu trình lặp lại tiếp theo. 2.3. Vai trò của quản trị tri thức Gold và ctg (2001) xây dựng một mô hình tổng thể về mối quan hệ giữa năng lực QTTT (bao gồm các quy trình QTTT như thu nhận, chuyển đổi, áp dụng tri thức) của tổ chức và kết quả hoạt động của tổ chức. Sử dụng mô hình cấu trúc tuyến tính SEM, các tác giả này chứng minh rằng năng lực QTTT có quan hệ thuận chiều với kết quả hoạt động của tổ chức. Donate và Guadamillas (2011) dựa trên dữ liệu khảo sát tại 111 công ty ở Tây Ban Nha chứng minh vai trò điều tiết của các yếu tố văn hóa, lãnh đạo và chính sách nguồn nhân lực đối với mối quan hệ giữa hai quy trình khai thác tri thức (exploitation) và phát triển tri thức (exploration) và kết quả đổi mới sáng tạo. Andreeva và Kianto (2011) thực hiện khảo sát định lượng với mẫu nghiên cứu gồm 221 doanh nghiệp tại ba quốc gia khác nhau (Phần Lan, Nga và Trung Quốc), hai tác giả này chỉ ra rằng các quy trình QTTT là sáng tạo tri thức, lưu trữ tri thức, chia sẻ tri thức, và thu nhận tri thức đều có tác động tích cực tới đổi mới sáng tạo, và quy trình sáng tạo tri thức còn đóng vai trò trung gian (mediate) trong mối quan hệ giữa ba quy trình QTTT còn lại với đổi mới sáng tạo. Fugate & ctg (2009) dựa trên kết quả phân tích SEM từ hơn 300 cán bộ quản lý làm việc tại các công ty dịch vụ hậu cần, chứng minh rằng các quy trình kiến tạo (generation), phổ biến (dissemination), chia sẻ (sharing), phản hồi (responsiveness) tác động mạnh tới kết quả hoạt động của tổ chức. Các học giả khi nghiên cứu mối quan hệ giữa QTTT và kết quả hoạt động của tổ chức cũng thường áp dụng cách tiếp cận tình huống 179 QUẢN TRỊ TRI THỨC VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM (contingency approach) để xem xét mối quan hệ này thay đổi thế nào khi có sự xuất hiện của các yếu tố khác như văn hóa, tổ chức, lãnh đạo, quản trị NNL (Donate và Guadamillas, 2011), mật độ tập trung tri thức trong hoạt động kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp (Andreeva và Kianto, 2011) và vai trò của định hướng chiến lược (strategic orientation) đối với mối quan hệ giữa QTTT và đổi mới sáng tạo. Luận án của tác giả Phạm Anh Tuấn (2016) về “Tác động của quản trị tri thức đối với đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp”: tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng nhằm xác định việc chia sẻ tri thức trong tổ chức, tác động trực tiếp của các quy trình QTTT tới đổi mới sáng tạo. Thông qua việc tìm hiểu tác động trực tiếp của quản trị tri thức bao gồm các quy trình và chiến lược quản trị tri thức tới kết quả đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp Việt Nam để xác định các yếu tố thuộc về tổ chức giúp thúc đẩy QTTT trong các doanh nghiệp Việt Nam như cơ cấu tổ chức, văn hóa tổ chức, chính sách quản trị nguồn nhân lực và công nghệ. 2.4. Quản trị tri thức trong trường đại học Nghiên cứu của Jing Tian và ctg (2009) về “QTTT và sáng tạo tri thức trong trường đại học: nghiên cứu dựa trên khảo sát trường đại học tại Nhật Bản”. Nghiên cứu này đã trả lời các câu hỏi nghiên cứu liên quan đến việc sử dụng phương pháp QTTT nhằm nâng cao việc sáng tạo tri thức trong trường đại học tại Nhật Bản. Nghiên cứu chỉ ra rằng QTTT trong trường đại học cũng như bất kỳ hoạt động có hệ thống liên quan đến hỗ trợ và nâng cao việc tạo ra kiến thức khoa học và thành tựu của mục tiêu nghiên cứu, bao gồm cả quá trình xã hội và các công cụ công nghệ máy tính có liên quan. Hai khảo sát và nghiên cứu trường hợp đã được thực hiện tại Viện Khoa học và Công nghệ tiên tiến Nhật Bản (JAIST). Cuộc khảo sát đầu tiên tập trung vào QTTT trong trường đại học và đã điều tra các tình huống QTTT hiện tại, các yêu cầu đặc biệt và đa dạng từ các nhà nghiên cứu. Cuộc khảo sát thứ hai tập trung nghiên cứu các yếu tố hỗ trợ tiến trình sáng tạo tri thức trong trường đại học, từ đó tạo ra môi trường sáng tạo cho kiến thức khoa học. 180 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM Các kết quả khảo sát cho thấy những trở ngại của việc ứng dụng QTTT trong trường đại học gồm một số các yếu tố: công nghệ hỗ trợ, yếu tố con người, văn hóa tại các phòng thí nghiệm, v.v... Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng môi trường sáng tạo tri thức trong trường đại học cần thiết phải xây dựng khung tư duy hệ thống QTTT trong các phòng thí nghiệm bằng cách sử dụng các chiến lược cá nhân hóa, văn hóa chia sẻ tri thức từ đó hình thành giao tiếp khoa học, tư duy phản biện cũng như các nhóm làm việc. Bên cạnh đó, sử dụng các chiến lược công nghệ thúc đẩy quá trình luân chuyển, sáng tạo tri thức trong trường đại học. Tóm lại, nghiên cứu đã góp phần chỉ ra các bước thực tế giúp các trường đại học cải thiện năng lực QTTT, góp phần nâng cao kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu này thúc đẩy niềm tin rằng QTTT không những áp dụng trong các doanh nghiệp, mà còn trong các trường đại học. Các kết quả ở nghiên cứu này đã đưa ra một số yếu tố của QTTT cần thiết để áp dụng trong QTTT của trường đại học. Tuy nhiên, nghiên cứu chưa làm rõ mối quan hệ, tác động của QTTT tới kết quả hoạt động của trường đại học, mà chỉ dừng lại ở việc chỉ ra vai trò của QTTT đối với hoạt động đào tạo. Nghiên cứu của Marco Romano Manlio và ctg (2014) về “Sáng tạo và khai thác tri thức trong các trường đại học tại Italia: Vai trò của của chính sách bên trong tổ chức đối với các hoạt động sáng chế” đã xác định các yếu tố của QTTT có thể ảnh hưởng đến các hoạt động phát minh, sáng chế trong trường đại học. Ba giả thuyết được kiểm định thông qua phân tích hồi quy, xem xét các biến số khác nhau. Kết quả nghiên cứu chứng minh rằng hoạt động phát minh, sáng chế trong trường đại học là do tác động của việc áp dụng các chính sách nội bộ liên quan đến quản trị tri thức. Việc áp dụng các chính sách nội bộ sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho các hoạt động sáng chế và hỗ trợ các nhà khoa học trong quá trình sáng tạo, chuyển giao tri thức. Điểm khác biệt so với đa số các nghiên cứu trước đây là tập trung vào các yếu tố thể chế ản
Tài liệu liên quan