Đô thịhoá là xu hướng tất yếu của toàn cầu; quá trình đô thịhoá gắn liền với sựphát
triển vềkinh tế- xã hội, nhưng cũng dễlàm biến động vềmôi trường tựnhiên và mất
cân bằng sinh thái. Nếu không có các giải pháp hữu hiệu thì quá trình đô thịhoá cũng
dẫn đến sựgia tăng sốlượng người nghèo tại các đô thị. Tại Hội nghịnày, tôi xin trao
đổi vềchiến lược phát triển đô thịgắn với xoá đói giảm nghèo ởViệt Nam.
Thưa các quý vị!
Hệthống đô thịViệt Nam qua các giai đoạn lịch sử được hình thành gắn liền với các
điều kiện tựnhiên, điều kiện chính trị, kinh tếvà xã hội , hợp thành một cấu trúc
không gian tuyến-điểm, từBắc xuống Nam, dọc theo bờbiển Đông (Thái Bình
Dương) và từTây sang Đông dọc theo lưu vực các dòng sông lớn là nguồn gốc tạo
nên những đồng bằng rộng lớn, đất đai phì nhiêu, màu mỡ, nguồn nước dồi dào, là
động lực quan trọng phát triển kinh tếvà đô thịViệt Nam. Trong những năm vừa qua
đi đôi với việc phát triển kinh tế-xã hội là quá trình đô thịhoá với tốc độnhanh phù
hợp với tiến trình hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước.
11 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1994 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHIẾN LƯƠC PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ
Từ tâ ̀m nhi ̀n tới tăng trưởng va ̀ xóa ₫o ́i gia ̉m nghe ̀o
PHIÊN HỌP TOÀN THỂ II:
PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ Ở VIỆT NAM
QUY HOA ̣CH PHA ́T TRIỂN ĐÔ THI ̣ VIỆT NAM
KTS Trần Ngọc Chính
Vụ trưởng
Vụ Kiến trúc Quy hoạch Xây dựng, Bộ Xây dựng
24 — 26 tháng 11 năm 2004
Hà Nôi, Viêt Nam
Chiến lươc Phát triê ̉n thành phố: Từ Tầm nhìn tới Tăng trưởng và Xóa ₫ói giảm nghèo
24-26 tháng 11 năm 2004/Hà Nôi, Viêt Nam
Phiên hop toàn thể II: Phát triển ₫ô thi ở Viêt Nam Trần Ngoc Chính - 1
Thưa các quý vị!
Đô thị hoá là xu hướng tất yếu của toàn cầu; quá trình đô thị hoá gắn liền với sự phát
triển về kinh tế - xã hội, nhưng cũng dễ làm biến động về môi trường tự nhiên và mất
cân bằng sinh thái. Nếu không có các giải pháp hữu hiệu thì quá trình đô thị hoá cũng
dẫn đến sự gia tăng số lượng người nghèo tại các đô thị. Tại Hội nghị này, tôi xin trao
đổi về chiến lược phát triển đô thị gắn với xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam.
Thưa các quý vị!
Hệ thống đô thị Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử được hình thành gắn liền với các
điều kiện tự nhiên, điều kiện chính trị, kinh tế và xã hội , hợp thành một cấu trúc
không gian tuyến-điểm, từ Bắc xuống Nam, dọc theo bờ biển Đông (Thái Bình
Dương) và từ Tây sang Đông dọc theo lưu vực các dòng sông lớn là nguồn gốc tạo
nên những đồng bằng rộng lớn, đất đai phì nhiêu, màu mỡ, nguồn nước dồi dào, là
động lực quan trọng phát triển kinh tế và đô thị Việt Nam. Trong những năm vừa qua
đi đôi với việc phát triển kinh tế-xã hội là quá trình đô thị hoá với tốc độ nhanh phù
hợp với tiến trình hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước.
I. Thực trạng phát triển đô thị Việt nam
1. Tổng quan về phát triển đô thị ở Việt Nam
Dân số đô thị hiện nay khoảng 21 triệu người chiếm 25,8% tổng dân số toàn quốc là
81 triệu người. Tỷ lệ đô thị hóa trong giai đoạn phát triển bình quân hàng năm gần
2% là tỷ lệ rất đáng khích lệ.
Mạng lưới đô thị Việt Nam ngày càng được mở rộng và phát triển. Hiện nay, cả nước
có 703 đô thị, trong đó: 2 đô thị có quy mô dân số trên 3 triệu người, 15 đô thị có quy
mô dân số từ 25 vạn đến 3 triệu người, 74 đô thị có quy mô dân số từ 5 vạn đến 25
vạn người và các đô thị còn lại có quy mô dân số dưới 5 vạn người. Nhiều khu công
nghiệp tập trung, nhiều khu đô thị mới và khu kinh tế cửa khẩu được hình thành góp
phần mở rộng mạng lưới đô thị quốc gia, tạo tiền đề cho sự tăng trưởng đô thị. Năm
năm qua, các đô thị Việt Nam đã phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, đáp
ứng được sự phát triển kinh tế-xã hội của cả nước, đồng thời trở thành những nhân tố
tích cực trong quá trình phát triển, đảm nhiệm được vai trò là trung tâm phát triển
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các ngành nghề mới; là trung tâm phát triển và
chuyển giao công nghệ trong vùng, trung tâm giao lưu thương mại trong và ngoài
nước, thu hút đầu tư, phát triển kinh tế đối ngoại; là trung tâm dịch vụ, phát triển văn
hoá, giáo dục, nâng cáo dân trí và phát triển nguồn lực; giữ vai trò trong việc tăng thu
ngân sách cho Nhà nước và đi đầu trong việc đảm bảo an ninh, quốc phòng.
Do tác động của sự phát triển nền kinh tế thị trường và các chính sách khuyến khích
phát triển đô thị, công tác quy hoạch được quan tâm tạo cơ sở cho đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng, xoá đói giảm nghèo ở đô thị. Việc quy hoạch chỉnh trang các khu dân cư
Chiến lươc Phát triê ̉n thành phố: Từ Tầm nhìn tới Tăng trưởng và Xóa ₫ói giảm nghèo
24-26 tháng 11 năm 2004/Hà Nôi, Viêt Nam
Phiên hop toàn thể II: Phát triển ₫ô thi ở Viêt Nam Trần Ngoc Chính - 2
nông thôn được lập đã phần nào đáp ứng nhu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng, cải tạo,
xây dựng các khu dân cư nông thôn, hạn chế việc di dân tự do ra đô thị.
Về quản lý đô thị đã có chuyển biến tích cực, nhận thức về đô thị và quản lý đô thị
trong nền kinh tế thị trường đã được nâng cao; nhiều văn bản pháp luật về quản lý đô
thị thuộc nhiều lĩnh vực đã được ban hành khá đồng bộ; việc triển khai các biện pháp
cải cách thủ tục hành chính và nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý đô thị đã đạt
được một số kết quả; những kết quả trên đã tác động tích cực tới công tác xoá đói
giảm nghèo của các đô thị.
2. Các lợi thế và nguồn lực phát triển đô thị Việt Nam
(1) Về điều kiện thiên nhiên: Hệ thống đô thị Việt Nam đã được hình thành từ lâu
đời, tại những địa điểm đã quy tụ được nhiều điều kiện thuận lợi về tự nhiên,
kinh tế và xã hội. Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng, đất đai
phong phú, nguồn nước dồi dào, nhiều vùng khoáng sản có trữ lượng tập trung
lớn,v.v. đây là cơ sở rất thuận lợi và là nguồn lực quan trọng đối với việc hình
thành cơ sở kinh tế- tạo động lực để mở rộng và phát triển đô thị trong quá trình
đô thị hoá
(2) Về vị trí địa lý: Việt Nam nằm trong khu vực châu á-Thái Bình Dương, là một
trong những khu vực phát triển năng động trong khu vực, trên các tuyến giao
thông quốc tế quan trọng, có nhiều cửa ngõ thông ra biển. Tại các đầu mối giao
lưu có điều kiện tự nhiên thuận lợi, các đô thị, khu công nghiệp sẽ được hình
thành và phát triển, tạo ra lợi thế mở rộng kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư nước
ngoài, phát triển thương mại và dịch vụ hàng không, hàng hải, du lịch, nghỉ
ngơi giải trí, từ đó gắn mạng lưới đô thị Việt Nam với mạng lưới đô thị của các
nước trong khu vực và trên thế giới.
(3) Về bối cảnh quốc tế: Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với
trình độ ngày càng cao. Khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất, tạo
động lực phát triển đô thị. Các vấn đề của thời đại như: bảo vệ môi trường, bùng
nổ dân số, an toàn lương thực thực phẩm và đô thị hoá, nghèo đói ở đô thị v.v...
đã trở thành vấn đề toàn cầu, đòi hỏi phải có sự hợp tác đa phương để xử lý.
Kinh nghiệm phát triển và quản lý đô thị của các nước công nghiệp tiên tiến sẽ
góp phần giúp Việt Nam vượt qua những khó khăn để giải quyết có hiệu quả
việc cải tạo và xây dựng đô thị trong điều kiện thực tế của đất nước.
(4) Về Chính sách phát triển và cơ chế quản lý: Chính sách ”mở cửa” và những thành
công trong sự nghiệp "Đổi mới" của Nhà nước Việt Nam đã khẳng định đường
lối đúng đắn trong việc tháo gỡ những ách tắc về cơ chế, giải phóng và thu hút
các nguồn lực tham gia vào công cuộc xây dựng, phát triển đô thị và bảo vệ đất
nước. Nhiều dự án phát triển đô thị đã được các nhà đầu tư nước ngoài tham gia
có chất lượng đạt hiệu quả thiết thực.
Chiến lươc Phát triê ̉n thành phố: Từ Tầm nhìn tới Tăng trưởng và Xóa ₫ói giảm nghèo
24-26 tháng 11 năm 2004/Hà Nôi, Viêt Nam
Phiên hop toàn thể II: Phát triển ₫ô thi ở Viêt Nam Trần Ngoc Chính - 3
3. Các thách thức trong quá trình phát triển và đô thị hoá ở Việt Nam
Tuy nhiên, đi đôi với quá trình đô thị hoá, tăng trưởng và phát triển là những thách
thức tới sự phát triển ổn định của các đô thị như như là một quy luật cần được hạn chế
tới mức tối thiểu. Đó là:
(1) Thách thức về sự phát triển mất cân đối: Do sự phát triển quá tập trung vào các
đô thị làm cho trình độ phát triển giữa đô thị và nông thôn, giữa các vùng chậm
phát triển và các vùng phát triển ngày càng lớn. Việc mở rộng không gian đô thị
đang có nguy cơ làm giảm diện tích đất nông nghiệp, làm tăng dòng người di dân
từ nông thôn ra thành thị.
(2) Thách thức về sự phát triển không bền vững: Dân số đô thị tăng nhanh đã gây ra
quá tải đối với hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị. Các hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ
thuật và cơ sở hạ tầng xã hội đô thị ở hầu hết các đô thị Việt Nam đều phát triển
chậm hơn so với tốc độ phát triển kinh tế-xã hội đô thị. Phát triển đô thị chưa
đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường, đặc biệt là tình trạng yếu kém và lạc hậu
của hệ thống cấp nước, thoát nước, thu gom và xử lý chất thải rắn, hệ thống
giao thông và nhà ở.
(3) Thách thức về năng lực quản lý hành chính của các chính quyền đô thị: Tốc độ
phát triển quá nhanh của đô thị đã vượt khả năng điều hành của chính quyền địa
phương; việc quản lý đất đai, nhà ở, quản lý trật tự xây dựng đô thị là vấn đề
nóng bỏng và thường xuyên, song hầu hết ở nhiều đô thị chưa tìm ra biện pháp
quản lý hữu hiệu. Các phương tiện dịch vụ đô thị hiện đại (hệ thống giao thông,
cấp thoát nước, sử lý vệ sinh môi trường ...) là đối tượng quản lý phức tạp hơn,
đòi hỏi trình độ, năng lực quản lý hành chính phải được nâng cao. Trong khi số
đông cán bộ, viên chức trong bộ máy chính quyền quản lý đô thị chưa được
đào tạo và bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về quản lý đô thị, kiến thức về
kinh tế thị trường, trình độ còn bất cập so với yêu cầu, chưa đáp ứng được với
yêu cầu đổi mới, lúng túng trước những vấn đề mới nẩy sinh.
Việc phát triển của đô thị cũng đòi hỏi tất yếu phải phân cấp, xác lập lại thẩm
quyền, nhiệm vụ và các mối quan hệ giữa các ngành từ trung ương đến địa
phương và việc nâng cao trình độ nghiệp vụ đối với các tổ chức và bản thân cán
bộ quản lý để có thể thích nghi với những vấn đề mới.
(4) Thách thức về an toàn xã hội, điều phối thu nhập và đói nghèo đô thị: Vấn đề đói
nghèo và thất nghiệp thường diễn ra ở những đô thị phát triển nhanh nhưng
thiếu cơ sở hạ tầng kinh tế-kỹ thuật vững chắc, sự thiếu hiểu biết về pháp luật
của người dân kéo theo sự mất an toàn xã hội, an ninh trật tự đô thị cũng là
nguyên nhân dẫn đến sự hấp dẫn đầu tư bị giảm sút. Việc giảm thiểu các tệ nạn
xã hội đối với các đô thị Việt Nam cũng là vấn đề cần được quan tâm;
Chiến lươc Phát triê ̉n thành phố: Từ Tầm nhìn tới Tăng trưởng và Xóa ₫ói giảm nghèo
24-26 tháng 11 năm 2004/Hà Nôi, Viêt Nam
Phiên hop toàn thể II: Phát triển ₫ô thi ở Viêt Nam Trần Ngoc Chính - 4
Chênh lệch thu nhập đô thị tăng nhanh dẫn đến nhu cầu về vật chất, dịch vụ đô
thị khác có nhiều mức độ khác nhau, đòi hỏi các giải pháp tổ chức cung cấp
dịch vụ đa dạng, đặc biệt là y tế, nhà ở cho người nghèo và người có thu nhập
thấp.
Các thách thức đối với vấn đề tăng trưởng đô thị ở Việt nam hiện nay đáng
được quan tâm, nếu không có các giải pháp “ đáp ứng” kịp thời và tương xứng
thì có thể dẫn đến sự phát triển không bền vững ở tất cả các đô thị.
II. Chiến lược phát triển đô thị Việt nam đến năm 2020
1. Về quan điểm và mục tiêu phát triển đô thị
• Phát triển đô thị phải phù hợp với phân bố và trình độ phát triển lực lượng sản
xuất, tập trung xây dựng cơ sở kinh tế - kỹ thuật vững chắc làm động lực phát
triển cho từng đô thị.
• Phát triển và phân bố hợp lý các đô thị lớn, trung bình và nhỏ trên địa bàn cả nước,
tạo ra sự phát triển cân đối giữ các vùng lãnh thổ kết hợp quá trình đẩy mạnh đô
thị hoá nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
• Phát triển đô thị phải đi đôi với việc xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng xã hội và kỹ
thuật, đặc biệt là giao thông, thông tin liên lạc, cấp nước, cấp điện, y tế, giáo dục và
nhà ở với trình độ thích hợp hoặc hiện đại tuỳ thuộc vào yêu cầu khai thác và sử
dụng các khu vực trong đô thị tưng ướng với quá trình phát triển của mỗi đô thị.
• Sự hình thành và phát triển đô thị phải đảm bảo ổn định, bền vững, trên cơ sở tổ
chức hợp lý môi sinh, môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên; hạn chế
tối đa việc sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích phát triển đô thị; bảo vệ môi
trường, giữ gìn cân bằng sinh thái đô thị; tổ chức hợp lý và có khoa học các khu
chức năng chủ yếu, đảm bảo thoả mãn các nhu cầu cơ bản về chỗ ở, sinh hoạt, đi
lại, làm việc và nghỉ ngơi giải trí của cá nhân và xã hội.
• Kết hợp cải tạo với xây dựng mới đô thị, coi trọng việc giữ gìn bản sắc văn hoá và
truyền thống dân tộc; bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hoá, các công trình
kiến trúc có giá trị và danh lam thắng cảnh của đất nước, đồng thời phát triển kiến
trúc mới hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc góp phần làm giàu thêm nền văn hoá
kiến trúc truyền thống.
• Đẩy mạnh việc nghiên cứu áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ và các thành
tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vào mục đích cải tạo, xây dựng và hiện
đại đô thị phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
• Huy động mọi nguồn vốn để cải tạo và xây dựng đô thị, nhưng phải coi trọng việc
giữ gìn trật tự, kỷ cương, tăng cường kiểm soát sự phát triển đô thị theo đúng quy
hoạch.
Chiến lươc Phát triê ̉n thành phố: Từ Tầm nhìn tới Tăng trưởng và Xóa ₫ói giảm nghèo
24-26 tháng 11 năm 2004/Hà Nôi, Viêt Nam
Phiên hop toàn thể II: Phát triển ₫ô thi ở Viêt Nam Trần Ngoc Chính - 5
• Phát triển đô thị phải kết hợp chặt chẽ với việc đảm bảo an ninh, quốc phòng và
an toàn xã hội.
2. Nội dung chính trong chiến lược phát triển đô thị Việt Nam đến năm 2020
(1) Các cơ sở chủ yếu hình thành và phát triển đô thị
• Đối với các đô thị lớn có vị trí quan trọng đối với vùng hoặc cả nước, có sức
thu hút đầu tư đối với trong nước và nước ngoài, cơ cấu kinh tế đô thị được
chuyển dịch theo hướng: dịch vụ và công nghiệp với chức năng là trung tâm
kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật, đào tạo và là đầu mối giao thông,
giao lưu trong vùng, cả nước và quốc tế.
• Đối với các thành phố, thị xã, thị trấn là các trung tâm tỉnh lỵ, huyện lỵ hoặc là
trung tâm các tiểu khu kinh tế của tỉnh hoặc huyện, căn cứ vào qui hoạch phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ, chuyển dịch cơ cấu sản xuất và cơ
cấu đầu tư, trên cơ sở khai thác triệt để các thế mạnh, động viên các nguồn lực
của tất cả các thành phần kinh tế địa phương, liên kết với các nơi khác, kể cả
với nước ngoài, kết hợp chặt chẽ với quốc phòng, để làm cơ sở thu hút các
nguồn đầu tư phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ và du lịch.
• Tại các vùng nông thôn, công nghiệp chế biến và tiểu thủ công nghiệp là động
lực chủ yếu phát triển các đô thị nhỏ và đô thị hoá các khu dân cư nông thôn
thành các thị trấn, thị tứ công nghiệp - dịch vụ và nông nghiệp, làm điểm tựa
để phát triển kinh tế - xã hội các vùng nông thôn, góp phần làm giảm bớt sự
chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội giữa thành thị và
nông thôn; hạn chế việc di dân từ nông thôn vào các đô thị lớn.
(2) Định hướng tổ chức không gian hệ thống các đô thị Việt Nam
• Dự báo tăng trưởng dân số và đô thị hoá
– Năm 2010: dân số cả nước là 93 triệu người. Dự kiến dân số đô thị sẽ tăng
khoảng 1,14 triệu người/năm, đưa tổng dân số đô thị cả nước lên 30,4 triệu
người chiếm 33% số dân cả nước. Đất xây dựng đô thị sẽ là 243.200 ha,
chiếm 0,74% diện tích đất tự nhiên cả nước, bình quân 80m2/người.
– Năm 2020: dân số cả nước là 103 triệu người, trong đó dân số đô thị là 46
triệu người, chiếm tỷ lệ 45% số dân cả nước, bình quân tăng 1,56 triệu
người/năm. Đất xây dựng đô thị sẽ là 460.000 ha, chiếm 1,40% diện tích
đất tự nhiên cả nước, bình quân 100m2/người.
• Về cơ cấu quy hoạch và định hướng tổ chức không gian
Mạng lưới đô thị cả nước được hình thành và phát triển trên cơ sở các đô thị
trung tâm, gồm thành phố trung tâm cấp quốc gia; thành phố trung tâm cấp
Chiến lươc Phát triê ̉n thành phố: Từ Tầm nhìn tới Tăng trưởng và Xóa ₫ói giảm nghèo
24-26 tháng 11 năm 2004/Hà Nôi, Viêt Nam
Phiên hop toàn thể II: Phát triển ₫ô thi ở Viêt Nam Trần Ngoc Chính - 6
vùng; các thành phố, thị xã trung tâm cấp tỉnh; các đô thị trung tâm cấp huyện
và các đô thị trung tâm cấp tiểu vùng.
Các đô thị trung tâm các cấp được phân bố hợp lý trên 10 vùng đô thị hoá phân
bố đều khắp trên địa bàn cả nước;
Các đô thị trung tâm lớn được tổ chức thành các chùm đô thị, có vành đai xanh
bảo vệ để hạn chế tối đa sự tập trung dân số, kinh tế và giữ gìn cân bằng sinh
thái, tránh sự hình thành các siêu đô thị.
• Phân bố và tổ chức các khu chức năng chủ yếu trong đô thị
– Các khu công nghiệp: đối với khu công nghiệp hiện có, bố trí sắp xếp lại
cho phù hợp với cơ cấu quy hoạch đô thị; đưa các xí nghiệp gây ô nhiễm
ra khỏi khu vực nội thành; di chuyển dân cư còn ở xen kẽ với công nghiệp;
đối với các khu công nghiệp mới bố trí gắn bó hữu cơ với các khu dân cư.
– Các khu ở và các trung tâm phục vụ công cộng trong đô thị: (i) Tại các đô
thị lớn và trung bình, các khu ở mới được tổ chức thành các đơn vị ở, khu
ở với bán kính phục vụ phù hợp; đối với các khu ở cũ, qui hoạch sắp xếp
lại cho phù hợp với cơ cấu qui hoạch chung toàn đô thị; nâng cấp cơ sở hạ
tầng đặc biệt là giao thông, cấp nước, tăng diện tích cây xanh đáp ứng yêu
cầu sinh hoạt dân cư; (ii) Xây dựng mạng lưới các công trình công cộng
như: y tế, giáo dục, thể dục thể thao, dịch vụ công cộng, thương mại, ăn
uống và nghỉ ngơi giải trí các cấp phục vụ cho dân cư đô thị và toàn vùng.
• Nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng đô thị
– Giao thông đô thị: Phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải liên vùng,
liên đô thị và các vùng kinh tế trọng điểm, tạo tiền đề phát triển hệ thống
đô thị toàn quốc; xây dựng mạng lưới đường đô thị chiếm 20-30% và diện
tích giao thông tĩnh đạt 5-6% diện tích đất đô thị; đẩy mạnh giao thông
công cộng đáp ứng 30-50% nhu cầu đi lại; chống xuống cấp hệ thông giai
thông hiện có, xây dựng các tuyến mới, tăng tốc độ giao thông tăng năng
lực vận tải các tuyến đường.
– Cấp nước đô thị: Đầu tư xây dựng và cải tạo hệ thống cấp nước tại các đô
thị bảo đảm năm 2005 khoảng 70 - 80% dân số đô thị được cấp nước sạch,
với tiêu chuẩn bình quân từ 80 - 100lít/người/ngàyđêm và năm 2020 là
180lít/người/ngày đêm với 90 - 100% số dân được cấp nước;
– Thoát nước, thu gom xử lý chất thải và vệ sinh đô thị: các đô thị đều có hệ
thống cống thoát nước thải và hệ thống thu gom, xử lý chất thải phù hợp
tiêu chuẩn vệ sinh môi trường; xây dựng đủ nhà vệ sinh công cộng tại các
trung tâm đô thị, khu dân cư nghèo. Phát triển hệ thống công viên, cây
Chiến lươc Phát triê ̉n thành phố: Từ Tầm nhìn tới Tăng trưởng và Xóa ₫ói giảm nghèo
24-26 tháng 11 năm 2004/Hà Nôi, Viêt Nam
Phiên hop toàn thể II: Phát triển ₫ô thi ở Viêt Nam Trần Ngoc Chính - 7
xanh, hồ điều hoà và các vùng bảo vệ thiên nhiên, giữ gìn cân bằng sinh
thái đô thị, nhất là tại các đô thị lớn.
– Cấp điện và chiếu sáng đô thị, thông tin: 100% đô thị đều được cấp điện và
chiếu sáng công cộng; nâng tỷ lệ điện thoại hiện nay từ 4 máy/100dân lên
10máy/100 dân vào năm 2010.
(4) Về xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội:
• Xây dựng nhà ở: đến năm 2005 xây dựng khoảng 60 triệu m2, chỉ tiêu nhà ở
bình quân 8-9 m2/người; năm 2010 diện tích nhà ở bình quân 10-12 m2/người
và đến năm 2020 là 18 - 20m2/người theo các chương trình phát triển nhà
nhằm cung cấp các loại nhà ở phù hợp với các đối tượng xã hội có nhu cầu và
mức thu nhập khác nhau;
• Xây dựng các công trình phục vụ công cộng, bảo đảm dành từ 3 -
5m2đất/người, đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân ở từng đô
thị, dành 5% quỹ đất đô thị cho xây dựng công trình phục vụ công cộng.
III. Chiến lược phát triển quốc gia hỗ trợ giảm nghèo đô thị
1. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010
Mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nêu rõ "xoá loại hộ đói và nhanh
chngs giảm số lượng người nghèo", chiến lược này cũng đặt ra giải quyết "vấn đề việc
làm ở cả thành thị và nông thôn và giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5%".
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đề cập đến công tác quy hoạch xây dựng và
quản lý quy hoạch đô thị chú trọng tới xây dựng và cải tạo các trung tâm đô thị; bảo
đảm cung cấp nước sạch, sử lý vệ sinh môi trường đô thị và hỗ trợ nhà ở, xoá bỏ nhà
tạm cho mọi tầng lớp nhân dân. Đối với công tác xoá đói giảm nghèo tăng đầu tư vào
xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị để tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo được tiếp
cận với những cơ hội cải thiện điều kiện sống.
32. Chiến lược tổng hợp về tăng trưởng và giảm nghèo
Tập trung vào các chính sách phát triển đô thị như: chính sách hỗ trợ của Chính phủ
và cộng đồng ở đô thị bằn