Người ta hầu như không thể dự đoán được những biến cố kiểu ''Thiên Nga
Đen''. Do vậy, thay vì duy trì ảo tưởng rằng chúng ta có thể lường trước
tương lai, các nhà quản trịnên tìm cách giảm thiểu ảnh hưởng từ những
nguy cơ khó nhận biết.
Chúng ta không nhìn thếgiới qua lăng kính của những kiến thức quản trịrủi ro
xưa cũ. Không một mô hình dựbáo nào dự đoán được tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tếhiện tại, những tác động vẫn đang tiếp tục khiến các nhà kinh tế học
và giáo sưcác trường kinh doanh sửng sốt.
13 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1661 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáu sai lầm trong quản trị rủi ro, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sáu sai lầm trong quản trị rủi ro
Người ta hầu như không thể dự đoán được những biến cố kiểu ''Thiên Nga
Đen''. Do vậy, thay vì duy trì ảo tưởng rằng chúng ta có thể lường trước
tương lai, các nhà quản trị nên tìm cách giảm thiểu ảnh hưởng từ những
nguy cơ khó nhận biết.
Chúng ta không nhìn thế giới qua lăng kính của những kiến thức quản trị rủi ro
xưa cũ. Không một mô hình dự báo nào dự đoán được tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế hiện tại, những tác động vẫn đang tiếp tục khiến các nhà kinh tế học
và giáo sư các trường kinh doanh sửng sốt.
Hơn nữa, như chúng ta đều biết, chính những cái gọi là mô hình quản trị rủi ro của
các ngân hàng đã làm cho cuộc khủng hoảng thêm trầm trọng, thay vì phải hạn
chế, chúng làm tăng khả năng tiếp xúc với hiểm nguy và mặc cho nền kinh tế suy
yếu hơn bao giờ hết.
Những biến cố xác suất thấp, tác động lớn và gần như không thể dự đoán - mà
chúng tôi gọi là Thiên Nga Đen [1] - đang ngày càng thống trị thế giới. Nhờ
internet và quá trình toàn cầu hóa, thế giới của chúng ta trở thành một hệ thống
phức tạp với mạng lưới các mối quan hệ rối rắm và những nhân tố có mối quan hệ
chằng chịt. Sự phức tạp không chỉ gia tăng phạm vi ảnh hưởng của các biến cố
Thiên Nga Đen mà còn khiến người ta không thể dự báo các biến cố dù rất bình
thường khác. Tất cả những gì chúng ta có thể dự đoán là những công ty nào phớt
lờ các biến cố Thiên Nga Đen sẽ thất bại.
Thay vì cố gắng dự báo cho bằng được các biến cố xác suất thấp, tác động lớn,
chúng ta nên tìm cách hạn chế "khả năng phơi nhiễm" trước những biến cố này.
Chúng tôi tin rằng quản trị rủi ro nên phát huy vai trò giảm thiểu tác động của
những điều chúng ta không biết, thay vì làm một công việc phù phiếm là sáng tạo
những kỹ thuật công phu và những minh họa tinh vi để kéo dài ảo tưởng của
chúng ta về khả năng hiểu biết và dự đoán môi trường kinh tế, xã hội quanh mình.
Để thay đổi cách tư duy của chúng ta về rủi ro, chúng ta nên tránh 6 sai lầm sau:
1. Tin rằng mình có thể quản lý rủi ro khi đã dự đoán được những biến cố
cực hạn
Đây là sai lầm tệ hại nhất mà chúng ta mắc phải bởi một vài nguyên do sau. Thứ
nhất, chúng ta có một thư viện khổng lồ sẵn sàng chỉ ra cách dự đoán các biến cố
Thiên Nga Đen. Thứ hai, khi chỉ tập trung vào một số viễn cảnh cực hạn, chúng ta
sẽ bỏ qua các khả năng khác. Và như thế, chúng ta sẽ dễ bị tổn thương hơn bao giờ
hết.
Sẽ hiệu quả hơn nếu chúng ta dành sự tập trung của mình cho hậu quả, nghĩa là, sẽ
đánh giá những tác động có thể có của những biến cố cực hạn. Nếu nhận thức
được điều này, các công ty năng lượng sẽ chuyển trọng tâm của mình từ dự đoán
thời điểm xảy ra tai nạn trong các nhà máy hạt nhân sang chuẩn bị đón đầu những
tình huống có thể xảy ra.
Tương tự như thế, hãy đánh giá xem, so với đối thủ cạnh tranh, công ty của bạn sẽ
bị ảnh hưởng đến mức nào trước những thay đổi đột ngột từ môi trường (kinh
doanh). Liệu một sự tụt giảm không đáng kể nhưng hoàn toàn không nằm trong dự
đoán của bạn về nguồn cung hoặc nhu cầu có ảnh hưởng nghiêm trọng đến công ty
của bạn không? Nếu có, công ty bạn rõ ràng sẽ không thể trụ nổi khi số lượng đơn
đặt hàng sụt giảm đột ngột, hàng tồn kho gia tăng đột biến...
Nếu xét ở khía cạnh đời tư của mỗi người, nhiều lúc chúng ta hành động theo
những cách có thể giúp giảm bớt tác động của các biến cố Thiên Nga Đen. Chúng
ta không cố tính toán xác suất xảy ra của các biến cố; chúng ta chỉ lo lắng liệu
mình có thể xử lý hậu quả khi các biến cố ấy xảy ra hay không.
Ví dụ, chúng ta rất sẵn sàng mua bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm ôtô, nhà cửa và
nhiều thứ khác. Liệu có ai mua xong nhà rồi mới tính toán đến chi phí phải trả để
mua bảo hiểm cho nó? Dĩ nhiên bạn chỉ quyết định mua nhà sau khi đã tính toán
tất cả chi phí liên quan đến bảo hiểm. Tuy nhiên, trong kinh doanh, chúng ta xem
bảo hiểm như một phương án tùy chọn. Bảo hiểm hoàn toàn không phải là một tùy
chọn; các công ty phải chuẩn bị để sẵn sàng đương đầu với các hậu quả và phải
mua bảo hiểm để phòng ngừa rủi ro.
2. Tin rằng nghiên cứu quá khứ sẽ giúp quản lý được rủi ro
Các nhà quản lý rủi ro đã sai lầm khi sử dụng khả năng hiểu biết những sự kiện đã
qua để dự báo những sự kiện sắp xảy đến. Nhưng tiếc thay, nghiên cứu của chúng
tôi đã chỉ ra rằng không có mối liên hệ nào giữa các biến cố trong quá khứ và
những cú sốc của tương lai. Điển hình là những biến cố lớn như Thế chiến I hay
vụ tấn công khủng bố ngày 11/9/2001, trước nay chưa hề có tiền lệ.
Điều này cũng tương tự với những thay đổi về giá. Cho đến tận cuối thập niên
1980, mức giảm của giá cổ phiếu, dù vào thời điểm tồi tệ nhất, cũng chưa vượt
quá 10%/ngày. Nhưng giá cả bất ngờ tụt giảm 23% vào ngày 19/10/1987 [2]. Vì
sao tại thời điểm đó mọi người đều tin rằng sắp có tai họa trong khi giá chứng
khoán chỉ mới tụt dốc 23%? Lịch sử đã đánh lừa nhiều người.
"Việc này chưa hề có tiền lệ" là lời biện hộ phổ biến của các chuyên gia quản lý
rủi ro, đặc biệt là những người làm việc trong ngành tài chính. Họ cho rằng nếu nỗ
lực đến một mức nào đó, họ có thể tìm thấy tiền lệ của bất cứ thứ gì và có thể dự
đoán bất kỳ điều gì. Tuy nhiên, các biến cố Thiên Nga Đen không hề có tiền lệ.
Hơn nữa, thế giới ngày nay đã khác xưa rất nhiều; tính tương thuộc và phi tuyến
tính cũng đã gia tăng. Nhiều chính sách trước nay vô hại nhưng giờ lại gây phản
ứng ngược.
Người ta không quan tâm đến các dạng ngẫu nhiên cố hữu của nhiều biến số kinh
tế. Thật ra có hai dạng, trong đó ngẫu nhiên kinh tế xã hội ít mang tính cơ cấu và
dễ theo dõi hơn so với ngẫu nhiên mà bạn gặp trong các giáo trình thống kê hay tại
các sòng bạc. Nó tạo ra hiện tượng "người thắng lấy hết" vốn để lại nhiều hậu quả
nghiêm trọng.
Chưa đến 0,25% số công ty trên toàn thế giới chiếm hết phân nửa giá trị vốn hóa
thị trường, chưa đến 0,2% tổng số đầu sách chiếm một nửa doanh số bán hàng,
chưa đến 0,1% các loại thuốc tạo ra hơn một nửa doanh số của ngành công nghiệp
dược phẩm, và chưa đến 0,1% tổng các biến cố nguy hiểm là nguyên nhân của ít
nhất là một nửa các trường hợp thua lỗ.
Nhờ ngẫu nhiên kinh tế xã hội, không có thứ gì đại loại như thất bại "điển hình"
hay thành công "điển hình". Có chiều cao và cân nặng điển hình nhưng không có
thứ gì giống như chiến thắng "điển hình" hay thảm họa "điển hình". Chúng ta phải
dự đoán cả biến cố lẫn tầm ảnh hưởng của nó, một việc làm hết sức khó khăn bởi
không thể có tác động điển hình trong các hệ thống ngày càng phức tạp như hiện
nay.
Ví dụ như khi nghiên cứu về ngành công nghiệp dược phẩm, chúng tôi nhận thấy
hầu hết các dự báo doanh số không hề phản ánh đúng doanh số thực tế của các sản
phẩm mới. Thậm chí khi các công ty này dự đoán đúng thì nhiều trường hợp,
doanh số dự báo thấp hơn thực tế đến 22 lần! Do đó, dự đoán được những biến
động lớn gần như là không thể.
- Bài viết của các tác giả Nassim N. Taleb, Daniel G. Goldstein và Mark W.
Spitznagel trên Harvard Business Review -
1 Thiên Nga Đen: là một thuật ngữ được khai sinh bởi Giáo sư Nassim N. Taleb,
một học giả uyên bác nổi tiếng với nhiều nghiên cứu về tính ngẫu nhiên và tri thức
của con người, về môn khoa học thống kê, về những quyển sách bán chạy nhất thế
giới của ông và về những cảnh báo trước khủng hoảng mà về sau đều ứng nghiệm.
Trước khi người ta tìm ra nước Úc, cư dân ở Lục Địa Già đều tin rằng tất cả thiên
nga đều có màu trắng. Nhưng vào đầu thập niên 1790, phát hiện của một nhà tự
nhiên học người Anh, John Latham, về loài thiên nga đen ở vùng Tây Nam nước
Úc đã khiến cả thế giới kinh ngạc. Do đó, theo cách diễn giải của Giáo sư Taleb,
"những sự kiện mà ai cũng tin rằng hầu như không thể nào xảy ra nhưng lại tác
động rất lớn được xem là Thiên Nga Đen"và "khả năng xảy ra của những sự kiện
tưởng chừng như không thể cũng tương đương với khả năng không xảy ra của
những sự kiện tưởng chừng như vô cùng chắc chắn".
2 "Ngày thứ Hai đen tối" của Mỹ
Để thay đổi cách tư duy của chúng ta về rủi ro, chúng ta nên tránh mắc phải
sáu sai lầm sau.
3. Không chịu nghe lời khuyên về những gì không nên làm
Lời khuyên dạng "không nên" thường thiết thực hơn rất nhiều so với dạng "nên".
Ví dụ, lời khuyên không nên hút thuốc mà bạn dành cho người khác sẽ có tác dụng
hơn những lời khuyên chung chung liên quan đến sức khỏe. Nhà nghiên cứu di
truyền học Druin Burch có lần phát biểu trên tạp chí Taking the Medicine rằng:
"Tác hại của việc hút thuốc tương đương với tổng lợi ích của các biện pháp can
thiệp y khoa được phát triển từ sau Thế Chiến II đến nay. Từ bỏ thói quen hút
thuốc sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn việc có thể chữa khỏi bất kỳ loại ung thư nào
cho con người".
Tương tự như thế, nếu như các ngân hàng ở Mỹ chịu lắng nghe các lời khuyên và
không tự làm mình ngày càng gặp nhiều hiểm nguy trước các biến cố xác suất
thấp, ảnh hưởng lớn thì dù cho lợi nhuận thu được có thể thấp hơn nhưng họ sẽ
không rơi vào cảnh gần như phá sản như hiện nay.
Các nhà tâm lý học xem xét hành động "bỏ sót một công việc" và "thực hiện sai
một công việc" là hai vấn đề khác nhau. Mặc dù ảnh hưởng của nó xét trên
phương diện kinh tế là như nhau - không mất đi một đôla tức là có thêm một đôla -
nhưng các nhà quản lý rủi ro thì không nghĩ như thế. Họ quan tâm đến việc tạo ra
lợi nhuận hơn việc tránh thua lỗ. Tuy nhiên, trên thực tế, một công ty có thể thành
công khi không để thua lỗ trong khi đối thủ của nó đều phá sản và nhờ đó, công ty
này có thể giành lấy thị phần từ tay đối thủ.
Trong thi đấu cờ vua, các đại kiện tướng tập trung làm sao không mắc sai lầm
trong khi những "tân binh" thì chỉ cố gắng làm sao chiến thắng. Cũng tương tự,
các nhà quản lý rủi ro không thích dòng tiền nằm yên mà không được mang đi đầu
tư, và nhờ đó có thể bảo toàn giá trị của nó. Tuy nhiên, hãy nghĩ mà xem bạn sẽ
như thế nào khi danh mục đầu tư của mình vẫn được giữ nguyên vẹn suốt hai năm
qua thay vì giảm mất 40% như nhiều nhà đầu tư khác. Không thua lỗ gần một nửa
kế hoạch về hưu của mình chính là một thành công không cần bàn cãi.
Lời khuyên mà chỉ nói những điều tích cực là thứ gì đó bịp bợm. Khu vực sách
kinh doanh trong các hiệu sách thì đầy ắp các câu chuyện thành công trong khi có
quá ít đầu sách nói về thất bại. Chính thái độ xem nhẹ lời khuyên cảnh báo những
tiêu cực như thế khiến các công ty xem nhiệm vụ quản trị rủi ro là một phần việc
hoàn toàn tách biệt với tìm kiếm lợi nhuận và dần xa rời bản chất vốn có của nó
khi chỉ được thể hiện qua việc truy hồi về quá khứ và giải thích cho những hiện
tượng đã xảy ra.
Thay vì làm như vậy, các công ty hãy tích hợp các hoạt động quản trị rủi ro vào
trung tâm sinh lợi [1] và xem đây là một trong những hoạt động tạo ra doanh thu,
nhất là khi các công ty dễ bị tác động bởi các biến cố Thiên Nga Đen.
4. Cho rằng có thể giới hạn được rủi ro bằng độ lệch chuẩn
Độ lệch chuẩn - một khái niệm được sử dụng trong tài chính như một công cụ
kiểm soát rủi ro trong hoạt động đầu tư - không nên được áp dụng trong quản trị
rủi ro. Độ lệch chuẩn được tính bằng căn bậc hai của các phương sai bình phương
trung bình, chứ không phải phương sai trung bình. Việc sử dụng bình phương và
căn bậc hai khiến phương pháp tính toán trở nên phức tạp. Nó chỉ có ý nghĩa trong
môi trường mà sự ngẫu nhiên đã "được thuần hóa", trong đó hai phần ba các thay
đổi đều rơi vào một số giới hạn nhất định (độ lệch chuẩn -1 và +1) và không thể có
phương sai vượt quá 7 độ lệch chuẩn.
Tuy nhiên, kiến thức nói trên không thể áp dụng được trong thực tế khi mà các
biến động có thể vượt quá 10, 20 hay thỉnh thoảng lên đến 30 độ lệch chuẩn. Các
nhà quản lý rủi ro cần tránh sử dụng những phương pháp và cách tính toán liên
quan đến độ lệch chuẩn như mô hình hồi quy, R-square và beta.
Người ta hiểu rất ít về độ lệch chuẩn. Ngay cả những chuyên gia phân tích định
lượng cũng chưa hẳn hiểu thấu khái niệm này. Chúng tôi thực hiện nhiều thử
nghiệm vào năm 2007, chúng tôi cho một nhóm các chuyên gia phân tích định
lượng thông tin về dao động tuyện đối trung bình (độ lệch tuyệt đối trung bình)
của một loại cổ phiếu, và khi chúng tôi yêu cầu họ thực hiện các phép tính, ngay
lập tức họ nhầm lẫn nó với độ lệch chuẩn.
Khi mà các chuyên gia còn nhầm lẫn thì liệu rằng những người khác có thể tính
toán đúng không? Trong bất kỳ trường hợp nào, nếu như ai đó hy vọng rằng rủi ro
có thể được thể hiện qua một con số đơn thuần thì quả thật đó là một thảm họa.
5. Không hiểu rằng những gì tương đương về mặt toán học thì không tương
đương về mặt tâm lý học
Năm 1965, nhà vật lý học Richard Feynman đã viết trong tác phẩm The Character
of Physical Law rằng hai công thức tương đương nhau về mặt toán học có thể
không tương đương nhau ở cách thể hiện của chúng trước bộ não con người.
Tương tự, nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy cách thức trình bày một rủi ro
sẽ ảnh hưởng đến cách hiểu của chúng ta về nó. Nếu bạn nói với các nhà đầu tư
rằng trung bình phải mất 30 năm thì họ sẽ mất hết tài sản một lần thì họ sẽ sẵn
sàng rót vốn hơn khi bạn nói khả năng họ thua lỗ hết tiền là 3,3% mỗi năm.
Điều này cũng lặp lại với thí nghiệm về di chuyển bằng máy bay. Chúng tôi hỏi
những người tham gia vào thí nghiệm rằng: "Bạn đang đi nghỉ ở nước ngoài và
cân nhắc liệu có nên thử di chuyển bằng một hãng hàng không ở nước ấy để ngắm
hòn đảo đặc biệt ấy không. Các thống kê về an toàn cho thấy trong 1.000 năm thì
hãng hàng không này mới để xảy ra 1 vụ tai nạn. Mà có lẽ sau này bạn không có
dịp quay lại đất nước này nữa. Bạn có muốn chọn hãng hàng không địa phương
đó không?". Tất cả người tham gia thí nghiệm đều trả lời "Có".
Sau đó, chúng tôi thay đổi câu thứ 2 như sau: "Các thống kê về an toàn cho thấy
cứ 1.000 chuyến bay thì có 1 chuyến gặp tai nạn". Chỉ 70% số người tham dự nói
rằng họ sẽ chọn chuyến bay đó. Trong cả hai trường hợp, khả năng xảy ra tai nạn
đều là 1 phần 1.000; nhưng cách tính sau nghe có vẻ rủi ro hơn rất nhiều.
Một viễn cảnh có vẻ càng lý tưởng thì thường tiềm ẩn rủi ro càng cao. Lúc nào bạn
cũng nên tìm kiếm nhiều phương pháp thể hiện khác nhau của rủi ro để chắc chắn
rằng bạn không bị hình thức hoặc toán học đánh lừa.
6. Không có chỗ cho tình trạng dư thừa nếu muốn đạt được hiệu quả và tối đa
hóa giá trị của cổ đông
Hầu hết các nhà quản lý không nhận thấy việc tối ưu hóa hoạt động có thể khiến
công ty dễ gặp khó khăn trước những thay đổi của môi trường. Các hệ thống phân
loại sinh học cũng biết cách ứng phó với thay đổi và Mẹ Thiên Nhiên là một nhà
quản trị rủi ro hàng đầu. Điều đó một phần là do bà yêu thích tình trạng dư thừa.
Quá trình tiến hóa đã cho loài người chúng ta thêm nhiều bộ phận dự phòng -
chẳng hạn như chúng ta có 2 lá phổi và 2 quả thận - và nhờ đó mà chúng ta tồn tại.
Trong doanh nghiệp, tình trạng dư thừa rõ ràng là biểu hiện của sự không hiệu
quả: các năng lực bị "treo", các thiết bị không được sử dụng, và tiền bạc nhàn rỗi.
Ở khía cạnh ngược lại, chúng ta được dạy rằng tác dụng đòn bẩy (nợ) là một điều
tốt đẹp. Nhưng không; nợ nần khiến cho công ty, và cả cấu trúc kinh tế, không còn
vững chãi. Nếu bạn lệ thuộc quá nhiều vào vay nợ, công ty bạn có thể sụp đổ nếu
như không thể đạt được doanh số dự báo, nếu như lãi suất biến động hay nếu như
các rủi ro khác cùng ập đến. Nếu trong sổ cái kế toán của bạn sạch nợ, bạn sẽ đối
phó với thay đổi tốt hơn.
Chuyên môn hóa cao độ cũng cản trở sự tăng trưởng của công ty. Theo lý thuyết
về lợi thế so sánh của David Ricardo, để tối ưu hóa hiệu quả, một nước nên
chuyên sản xuất rượu vang còn nước kia thì chuyên sản xuất quần áo,... Nhưng lập
luận này đã bỏ qua yếu tố: những thay đổi đột ngột. Điều gì sẽ xảy ra khi giá rượu
vang giảm mạnh? Vào thập niên 1800, nhiều nền văn hóa ở Arizona và New
Mexico đã biến mất vì họ lệ thuộc hoàn toàn vào một vài loại cây lương thực nên
kết quả là họ không thể sống sót khi thời tiết có biến động mạnh.
Một trong những câu chuyện thần thoại về chủ nghĩa tư bản là động cơ thúc đẩy
làm việc... và cả bãi công nữa. Cuộc đời của mỗi người đều phải có những lúc
thăng trầm. Tuy nhiên, bản chất của tiền phúc lợi chính là một trong những yếu tố
làm tăng mức độ rủi ro. Nếu bạn trao cho ai đó một khoản tiền thưởng mà không
kèm theo điều khoản thu hồi, người ấy sẽ có động lực để che giấu rủi ro bằng cách
tham gia vào những giao dịch có nhiều khả năng tạo ra các khoản lợi nhuận nhỏ và
ít khả năng đổ vỡ. Các nhà quản lý cứ theo đó mà nhận thưởng đều đặn mỗi năm.
Nếu sau cùng đổ vỡ cũng xảy ra thì họ sẽ xin lỗi nhưng không bị buộc phải hoàn
trả các khoản thưởng.
Điều này cũng đang thực sự diễn ra tại nhiều tập đoàn. Đó là lý do vì sao nhiều
CEO trở nên giàu có trong khi các cổ đông thì vẫn nghèo. Xã hội và các cổ đông
cần phải có quyền lực pháp lý để thu hồi các khoản thưởng đối với những ai không
đáp ứng được yêu cầu. Điều đó sẽ giúp thế giới này tốt đẹp hơn.
Hơn nữa, chúng ta không nên trao các khoản tiền thưởng cho những người quản lý
các tập đoàn lớn như nhà máy hạt nhân hay ngân hàng. Nhiều khả năng họ sẽ tham
của rẻ tiền để tối đa hóa lợi nhuận. Xã hội chúng ta đang giao trọng trách quản trị
rủi ro lớn nhất cho quân đội nhưng quân nhân thường không được nhận thưởng.
Xin hãy nhớ rằng rủi ro lớn nhất nằm trong chính bản thân chúng ta: Chúng ta
đánh giá cao khả năng của mình nhưng đánh giá thấp nguy cơ dẫn đến thất bại.
Thần thoại Hy Lạp cũng có không ít minh họa cho cái giá phải trả của thói ngạo
mạn: Achilles và Agamemnon chết vì tính ngạo mạn; Xerces thất bại khi tấn công
Hy Lạp vì thói tự phụ; và nhiều thống soái xuyên suốt lịch sử đã phải bỏ mạng vì
không nhận ra giới hạn của bản thân. Bất kỳ tập đoàn này không nhận ra "Gót
chân Achilles" của mình sẽ thất bại.
- Bài viết của các tác giả Nassim N. Taleb, Daniel G. Goldstein và Mark W.
Spitznagel trên Harvard Business Review -
1 Trung tâm sinh lợi: từ gốc là profit center, khái niệm này được hiểu như một chi
nhánh hay phòng ban của một công ty có khả năng tự mình độc lập mang về lợi
nhuận. Doanh thu và chi phí của trung tâm sinh lợi này sẽ được hạch toán độc lập
đề nhờ đó tính toán được hiệu quả sinh lợi của nó.