Từ những năm 20 của thế kỷ XX, văn học và lý luận văn nghệ Liên Xô, đã bắt 
đầu xuất hiện trên văn đàn Trung Quốc, nhưng mãi đến những năm 50 của thế kỷ XX, 
Trung Quốc mới tiếp nhận toàn diện lý luận văn nghệ Liên Xô. Mao Trạch Đông từng 
nói: “Đảng cộng sản Liên Xô là người thầy tốt nhất của chúng ta, chúng ta cần phải học 
tập họ” (Mao Trạch Đông tuyển tập, T.4, 1991, tr.148). Chu Dương
(1)
cũng nói: “Đi theo 
con đường của người Nga, chính trị và cả văn học nghệ thuật cũng thế” (Nhân dân nhật 
báo. 11-11-1953).
Học tập toàn diện lý luận của Liên Xô, người Trung Quốc đã học được ở văn học 
Xô Viết nhiều thứ: Quan điểm văn học phải “phục vụ nhân sinh”, “Văn học là nhân 
học”, quan điểm coi trọng việc dùng phản ánh luận của Lênin để giải thích các hiện 
tượng văn học, v.v. Những điều đó giúp cho lý luận văn học Trung Quốc được xây 
dựng trên cơ sở duy vật biện chứng. Đó là ảnh hưởng tích cực, còn ảnh hưởng tiêu cực 
cũng có nhiều. Những lý luận văn nghệ xã hội dung tục và tả khuynh, đặc biệt là chủ 
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa (viết tắt là CNHTXHCN) đã làm cho văn học Trung 
Quốc có thời kỳ ngừng trệ, kém phát triển
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1673 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Số phận của "Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa" ở Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số phận của "Chủ nghĩa hiện thực 
xã hội chủ nghĩa" ở Trung Quốc 
 Từ những năm 20 của thế kỷ XX, văn học và lý luận văn nghệ Liên Xô, đã bắt 
đầu xuất hiện trên văn đàn Trung Quốc, nhưng mãi đến những năm 50 của thế kỷ XX, 
Trung Quốc mới tiếp nhận toàn diện lý luận văn nghệ Liên Xô. Mao Trạch Đông từng 
nói: “Đảng cộng sản Liên Xô là người thầy tốt nhất của chúng ta, chúng ta cần phải học 
tập họ” (Mao Trạch Đông tuyển tập, T.4, 1991, tr.148). Chu Dương(1) cũng nói: “Đi theo 
con đường của người Nga, chính trị và cả văn học nghệ thuật cũng thế” (Nhân dân nhật 
báo. 11-11-1953). 
Học tập toàn diện lý luận của Liên Xô, người Trung Quốc đã học được ở văn học 
Xô Viết nhiều thứ: Quan điểm văn học phải “phục vụ nhân sinh”, “Văn học là nhân 
học”, quan điểm coi trọng việc dùng phản ánh luận của Lênin để giải thích các hiện 
tượng văn học, v.v... Những điều đó giúp cho lý luận văn học Trung Quốc được xây 
dựng trên cơ sở duy vật biện chứng. Đó là ảnh hưởng tích cực, còn ảnh hưởng tiêu cực 
cũng có nhiều. Những lý luận văn nghệ xã hội dung tục và tả khuynh, đặc biệt là chủ 
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa (viết tắt là CNHTXHCN) đã làm cho văn học Trung 
Quốc có thời kỳ ngừng trệ, kém phát triển . 
Như chúng ta đã biết, CNHTXHCN là do Stalin nêu ra. Ngày 16-10-1932 trong 
một cuộc toạ đàm văn học ở Mátxcơva, khi trả lời một nhà thơ, Stalin đã nói: “Nhà nghệ 
thuật cần phải miêu tả chân thực cuộc sống. Nếu như anh ta miêu tả cuộc sống chân thực 
thì anh ta không thể không chú ý và không thể không phản ánh cuộc sống đang hướng 
về chủ nghĩa xã hội. Đó chính là CNHTXHCN (Tạp chí Vấn đề văn học. 5-1991) và thế 
là Đại hội đại biểu các nhà văn Liên Xô lần thứ nhất họp vào tháng 8/1934, chính thức 
tuyên bố CNHTXHCN là phương pháp cơ bản của sáng tác văn nghệ Liên Xô. 
Tin đó được báo chí Trung Quốc giới thiệu ngay. Tờ Văn học nguyệt báo của 
Trung Quốc ra ngày 15-12-1932 đã kịp thời đưa tin về cuộc họp nói trên của Hiệp hội 
nhà văn Liên Xô. Và đến năm 1933, trên tờ tuần san Nghệ thuật tân văn bắt đầu giới 
thiệu về phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa của Liên Xô. Tháng 9-1933 trên 
tờ Văn học số 3, quyển 1, Chu Dương viết bài phê phán “phương pháp sáng tác duy vật 
biện chứng” do RAPP đưa ra và ca ngợi CNHTXHCN của Stalin (Chu Dương văn tập. 
T.1, P99). Tuy vậy lúc bấy giờ, một số nhà văn đứng ngoài tổ chức “Liên minh các nhà 
văn cánh tả” (gọi tắt là “Tả liên”) vẫn còn nghi ngờ, chưa ủng hộ phương pháp sáng tác 
đó. Nhà văn Mục Thời Anh thuộc phái “Cảm giác mới” gọi CNHTXHCN là “chủ nghĩa 
hiện thực giả tạo”. Năm 1936, Cảnh Tề Chi – dịch giả văn học Nga nổi tiếng, qua 
nghiên cứu tình hình văn học Liên Xô từ năm 1935, ông thấy CNHTXHCN làm cho văn 
học Liên Xô “đề tài trở nên quá hẹp”, các tác phẩm thì “nghìn thiên như một” trở nên 
“khô cứng” (Tạp chí Văn học số 2, quyển 6, 1936). Như vậy nhà dịch thuật này có con 
mắt quan sát sắc sảo, nhìn xa trông rộng hơn một số nhà lý luận đương thời. 
Đến thập niên 40 thế kỷ XX, giới văn học Trung Quốc bắt đầu dịch một số trước 
tác lý luận đề cao CNHTXHCN của Nhật Bản và Liên Xô. Ví dụ, tháng 4-1940, NXB 
Quang Minh, Thượng Hải xuất bản cuốn sách Con đường mới của văn học, gồm có 29 
bài báo và phát biểu của các học giả trong Đại hội các nhà văn Liên Xô lần thứ nhất về 
CNHTXHCN. Tháng 10 cùng năm, NXB Hy Vọng cho ra cuốn Bàn về chủ nghĩa hiện 
thực xã hội chủ nghĩa của học giả Nhật Bản Sâm Sơn Khải. Từ 1949 trở đi một số trước 
tác của học giả Liên Xô cũng được dịch, ví dụ cuốn Đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực 
xã hội chủ nghĩa của Vaxinhiép, Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học 
Liên Xô của Têrasenkôp, v.v... Các cuốn sách trên còn trích đăng “Điều lệ” của Hội Nhà 
văn Liên Xô và một số bài viết của Phadiev bàn về CNHTXHCN. 
Tuy vậy, thời kỳ này, người Trung Quốc vẫn chưa coi CNHTXHCN là khẩu hiệu 
và lá cờ của mình. Tháng 5-1939, trong buổi kỷ niệm một năm thành lập Học viện nghệ 
thuật Lỗ Tấn, Mao Trạch Đông còn đề xuất “Chủ nghĩa hiện thực kháng Nhật, chủ nghĩa 
lãng mạn cách mạng”. Lúc bấy giờ, giới văn học Trung Quốc còn có nhiều cách giải 
thích khác nhau về CNHTXHCN. Nhà văn Ba Nhân cho rằng con đường và xu thế phát 
triển văn nghệ Trung Quốc, tức là từ “chủ nghĩa hiện thực kháng Nhật” đến “chủ nghĩa 
lãng mạn” rồi đến “CNHTXHCN” (Trận địa văn nghệ kỳ 7, quyển 4 tháng 2-1940). 
Theo ông thì CNTHXHCN là phương hướng phát triển của văn học Trung Quốc. Lâm 
Hoán Bình thì cho rằng, “chủ nghĩa hiện thực kháng Nhật, chủ nghĩa lãng mạn cách 
mạng”, thực chất là “CNHTXHCN” (Văn học nguyệt báo 9-1940). Các giải thích này 
đương thời chưa được mọi người thừa nhận. Ví dụ, nhân kỷ niệm một năm bài Bàn về 
chủ nghĩa dân chủ mới của Mao Trạch Đông, Chu Dương căn cứ vào ý kiến của Mao 
Trạch Đông bàn về tính chất và nhiệm vụ lịch sử của xã hội Trung Quốc, mô phỏng 
cách đề xuất của Liên Xô về CNHTXHCN mà nêu ra khái niệm “chủ nghĩa hiện thực 
dân chủ mới” (Chu Dương Văn tập. T.1, P324). Trong “Bài nói chuyện ở toạ đàm văn 
nghệ Diên An” (1942) của Mao Trạch Đông nói về phương pháp sáng tác như sau: 
“chúng ta chủ trương chủ nghĩa hiện thực của giai cấp vô sản”. Sau này Chu Dương 
trong một số bài viết cũng như bài nói chuyện, ông dùng những khái niệm như “chủ 
nghĩa hiện thực cách mạng” “chủ nghĩa hiện thực cách mạng mới”, v.v... 
Mãi đến sau năm 1949, giới văn học Trung Quốc mới bắt đầu coi CNHTXHCN là 
tiêu chí cao nhất của sáng tác và phê bình văn học nghệ thuật. Tháng 5-1951 trong một 
lần nói chuyện ở Sở nghiên cứu văn học trung ương, Chu Dương nhấn mạnh: “Chúng ta 
cần phải học tập nước ngoài, đặc biệt là học tập Liên Xô. Văn học nghệ thuật của 
CNHTXHCN là món ăn tinh thần có ích nhất cho nhân dân và quảng đại thanh niên 
Trung Quốc. Chúng ta từ nay trở đi phải tăng cường công tác dịch thuật và giới thiệu” 
(Chu Dương văn tập. T.2, P61). Tháng 5 năm sau, Chu Dương nói rõ hơn: “Phương 
pháp mới của nghệ thuật cách mạng – CNHTXHCN nên trở thành thước đo cao nhất của 
phương pháp sáng tác của chúng ta” (Chu Dương văn tập. T.2, P145). Như vậy là Chu 
Dương không còn chủ trương phương pháp “duy vật biện chứng” như thời 1933 nữa, giờ 
đây ông dứt khoát nêu ra “CNHTXHCN” là phương pháp cơ bản trong sáng tác văn học 
Trung Quốc. Tháng 12-1952, trong một bài báo viết cho báo Ngọn cờ của Liên Xô, Chu 
Dương thông báo cho giới văn học Liên Xô biết rằng: “Sau khi theo đuổi văn học Liên 
Xô, văn học của chúng tôi đã bắt đầu đi lên con đường “CNHTXHCN”, chúng tôi sẽ 
tiếp tục tiến lên trên con đường này” (Chu Dương văn tập. T.2, P191). 
Chủ trương này của Chu Dương không phải là ý kiến cá nhân của ông mà là đại 
biểu cho giới lãnh đạo văn nghệ của Trung Quốc lúc bấy giờ. Tháng 3-1953, trong 
“Phương án công tác cải tổ Hiệp hội văn học toàn quốc và tăng cường lãnh đạo sáng 
tác văn học” của Hội nghị mở rộng lần thứ 6 của Uỷ ban chấp hành Hiệp hội nhà văn 
toàn quốc thông qua, đã quyết định kết hợp với việc học tập phương pháp sáng tác 
“CNHTXHCN” là thảo luận các vấn đề tư tưởng sáng tác văn học. Thế là, các tổ chức 
văn học từ Trung ương đến địa phương đều tiến hành học tập phương pháp sáng tác 
mới này. 
Tháng 9-1953, trong Đại hội đại biểu lần thứ 2 của những người làm công tác văn 
học nghệ thuật Trung Quốc, Chu Dương chính thức tuyên bố “Chúng ta coi phương 
pháp sáng tác HTXHCN là chuẩn tắc cao nhất của sáng tác và phê bình văn học nghệ 
thuật của chúng ta”. Và lần đầu tiên ông khẳng định: “Sau Bài nói chuyện ở toạ đàm văn 
nghệ Diên An trở đi, văn học nghệ thuật của chúng ta là “văn học nghệ thuật của 
CNHTXHCN” và trong hoạt động sáng tác của Lỗ Tấn ở thời kỳ sau, ông “đã trở thành 
người đi đầu, người đại biểu của CNHTXHCN” (Chu Dương văn tập. T.2, P249, 247) 
(Sự thực thì, trong bài báo viết cho Ngọn cờ nói ở trên, Chu Dương đã từng nói: Cũng 
giống như cách mạng dân chủ mới của Trung Quốc là một bộ phận tổ thành của cách 
mạng thế giới xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản, văn học của nhân dân Trung Quốc 
cũng là bộ phận tổ thành của văn học HTXHCN của thế giới. Như vậy, Chu Dương lấy 
văn học mới của Trung Quốc từ Ngũ tứ làm cái mốc để đánh giá phương pháp sáng tác 
và địa vị của Lỗ Tấn trong lịch sử văn học là căn cứ vào cái khung lý luận CNHTXHCN 
để điều chỉnh). 
Cũng ở đại hội trên, Mao Thuẫn cũng coi nguyên tắc CNHTXHCN “là yêu cầu cơ 
bản đối với nhà văn Trung Quốc”, và chỉ ra “một nhà văn hiện thực chủ nghĩa phải đòi 
hỏi mình giỏi quan sát phương hướng phát triển của cuộc sống, mầm mống của sự vật 
mới, giỏi biểu hiện cuộc sống từ trong sự phát triển cách mạng. Một chức trách của nhà 
văn hiện thực xã hội chủ nghĩa chính là cần phải biểu hiện sự vật ngày nay xem ra chưa 
phải là tồn tại phổ biến, nhưng ngày mai nó sẽ trở thành phổ biến”. 
Cần chú ý rằng, câu “chúng ta chủ trương chủ nghĩa hiện thực của giai cấp vô 
sản” ở trong Bài nói chuyện ở toạ đàm văn nghệ Diên An in lần đầu thì đến năm 1954 
được in lại trong Mao Trạch Đông tuyển tập. T.3 đã sửa lại là: “Chúng ta chủ trương 
chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Từ đấy trở đi, các ấn phẩm sau này của Mao 
Trạch Đông, hễ có bài đó, thì đều đổi thành như thế. 
Trong khi giới văn học Trung Quốc đang ra sức tuyên truyền và quán triệt 
CNHTXHCN thì giới văn học Liên Xô đã có người không tán thành khẩu hiệu này. 
Tháng 12-1954, trong Đại hội đại biểu các nhà văn Liên Xô lần thứ 2 họp ở Matxcova, 
nhà thơ Ximônov có đọc một bản báo cáo bổ sung, trong đó ông chủ trương xoá bỏ đoạn 
định nghĩa về CNHTXHCN trongĐiều lệ Hiệp hội các nhà văn Liên Xô. Đoạn đó là: 
“Đồng thời với việc miêu tả chân thực, lịch sử, cụ thể, cần phải kết hợp với nhiệm vụ 
dùng tinh thần XHCN để cải tạo và giáo dục nhân dân lao động về mặt tư tưởng”. 
Ximonov cho rằng câu đó là một trong những nguyên nhân gây nên “sự tô hồng hiện 
thực” trong văn học Liên Xô, bởi vì “trong tác phẩm của một số nhà văn, nhà phê bình 
sau thời kỳ chiến tranh đã từng mượn cớ biểu hiện hiện thực theo khuynh hướng phát 
triển, để ra sức “cải thiện hiện thực”(2). Kết quả là “Điêu lệ” mới được thông qua ở Đại 
hội đại biểu các nhà văn Liên Xô lần thứ 2 đã tiếp thụ ý kiến của Ximônov. 
Báo chí Trung Quốc lúc bấy giờ có giới thiệu động thái mới này của giới lý luận 
văn học Liên Xô, nhưng họ vẫn không thay đổi xu hướng kiên trì CNHTXHCN. Bằng 
chứng là người ta lấy lý thuyết về CNHTXHCN để phê phán Hồ Phong. Lâm Mạc Hàm 
nói, một trong những sai lầm của Hồ Phong là “không thấy được sự khác nhau giữa chủ 
nghĩa hiện thực và CNHTXHCN, không hiểu được ai theo “CNHTXHCN” đầu tiên là 
phải có “lập trường giai cấp công nhân và thế giới quan cộng sản chủ nghĩa” (Văn nghệ 
báo số 2-1953). Chu Dương cũng chỉ ra: “Công thức của CNHTXHCN là quan điểm cơ 
bản, là cống hiến lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin đối với phương pháp của văn học 
nghệ thuật... Chủ nghĩa hiện thực nên bao quát ở trong chủ nghĩa Mác, chỉ có chủ nghĩa 
Mác mới có thể lý giải đầy đủ nhất chủ nghĩa hiện thực”. 
Nhưng, trước và sau năm 1956, tình hình chính trị và văn học xã hội Liên Xô có 
biến động, tư tưởng chống “tô hồng hiện thực” và đề xướng “can dự cuộc sống” của 
giới lý luận văn học Liên Xô ảnh hưởng đến văn đàn Trung Quốc. Chu Dương - người 
đầu tiên giới thiệu CNHTXHCN ở Trung Quốc – tháng 8-1956 trong một lần nói 
chuyện ở cuộc họp Hội nhà văn Trung Quốc, ông đưa ra ý kiến mới. Một mặt ông vẫn 
tiếp tục nhấn mạnh “khẩu hiệu CNHTXHCN này không nên bỏ, nó là phương hướng 
phát triển nghệ thuật nhân dân, tại sao chúng ta lại phản đối phương hướng đó”. Mặt 
khác, ông lại cho rằng: “Việc học tập CNHTXHCN, quyết không nên sa vào vũng bùn 
giáo điều chủ nghĩa”. Ông chỉ ra, những nhà văn bài xích dòng văn học phi XHCN, và 
có quan hệ không bình thường với những dòng văn học khác ngoài CNHTXHCN là 
biểu hiện giáo điều và công thức. Chu Dương nhắc nhở mọi người: “Chúng ta nên coi 
CNHTXHCN là một phương hướng mới, chứ không được coi nó là giáo điều hoặc giả 
coi là một công thức trong sáng tác. Nếu không, sẽ có nguy hiểm lớn” (Chu Dương văn 
tập. T.2, P408-409). 
Nếu như trong lý luận của Chu Dương còn mơ hồ, mâu thuẫn, thì một số nhà lý 
luận khác của Trung Quốc đã bộc bạch sự hoài nghi đối với định nghĩa của 
CNHTXHCN. Tháng 6-1956 Tần Triệu Dương có bài Chủ nghĩa hiện thực - con đường 
rộng mở, Chu Bột có bài Bàn về chủ nghĩa hiện thực và sự phát triển của nó ở thời kỳ xã 
hội chủ nghĩa, Lưu Thiệu Đường có bài Sự phát triển của chủ nghĩa hiện thực trong thời 
đại xã hội chủ nghĩa, v.v... Nội dung của những bài báo trên nêu ra ba vấn đề: Một là, 
định nghĩa nhấn mạnh “việc nghệ thuật miêu tả chân thực, lịch sử cụ thể, cần phải kết 
hợp với nhiệm vụ dùng tinh thần xã hội chủ nghĩa để cải tạo giáo dục nhân dân lao động 
về mặt tư tưởng”, như vậy là cho tinh thần xã hội chủ nghĩa tồn tại ngoài sáng tác văn 
nghệ, nó chỉ là một khái niệm chính trị trừu tượng ở trong đầu óc nhà văn, chứ không 
phải là tồn tại một cách hữu cơ trong cuộc sống, không phải là tồn tại một cách hữu cơ 
trong tính chân thực và tính lịch sử cụ thể của miêu tả nghệ thuật, mà là sự “kết hợp” giả 
tạo từ bên ngoài. Chính vì vậy, về mặt lý luận đã dẫn đến những luận điểm sai lầm như 
dùng quan điểm chính trị thay thế thế giới quan, dùng quan điểm chính trị thay thế 
phương pháp sáng tác, dùng tính chính trị thay thế tính chân thực, dùng phân tích chính 
trị thay thế phân tích nghệ thuật. Hai là, định nghĩa trên không xuất phát từ nghệ thuật, 
coi nhẹ địa vị then chốt của vấn đề điển hình hoá ở trong văn học hiện thực chủ nghĩa. 
Trong các luận thuyết về chủ nghĩa hiện thực ở trong lá thư của Mác gửi Hecơnex lại coi 
việc điển hình hoá là trung tâm. Chính vì vậy, trong phê bình văn học đã xuất hiện hiện 
tượng mượn cớ tăng cường chức năng tuyên truyền chính trị mà phủ định đặc trưng 
nhân học của văn học, coi con người chỉ là cái loa tuyên truyền chính trị. Ba là, có người 
nói “CNHTXHCN” là “chủ nghĩa hiện thực khẳng định” để phân biệt với chủ nghĩa hiện 
thực phê phán của giai cấp tư sản chuyên chú trọng phê phán, như vậy là trong sáng tác 
và phê bình của văn học hiện thực XHCN không thừa nhận nhiệm vụ bộc lộ và phê phán 
những hiện tượng xấu xa tội ác, từ đó dẫn đến “lý luận không xung đột”, “tô hồng cuộc 
sống”.