Mọi chính sách và biện pháp phát triển kinh tếcủa nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đều nhằm phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động. Cả hai bản hiến pháp văm 1980 và năm 1992 đều khẳng định chính sách phát triển kinh tế của nước ta là: làm cho dân giàu nước mạnh đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân (điều 15 hiến pháp năm 1985; điều 16 hiến pháp năm 1992)
25 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 8561 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu So sánh hai bản hiến pháp năm 1980 và năm 1992, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Điểm giống nhau trong chính sách phát triển kinh tế của hai bản hiến pháp năm 1980 và năm 1992.
Thứ nhất: Về mục đích và phương hướng phát triển kinh tế.
- Mọi chính sách và biện pháp phát triển kinh tếcủa nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đều nhằm phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động. Cả hai bản hiến pháp văm 1980 và năm 1992 đều khẳng định chính sách phát triển kinh tế của nước ta là: làm cho dân giàu nước mạnh đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân (điều 15 hiến pháp năm 1985; điều 16 hiến pháp năm 1992)
Sở dĩ có sự giống nhau trong mục tiêu phát triển kinh tế ở hai bản hiến pháp này là vì xúât phát từ bản chất của nhà nước ta.
- Phương hướng và nhiệm vụ trong chính sách phát triển kinh tế thể hiện qua hai bản hiến pháp năm 1980 và 1992 đều thống nhất ở chỗ phải thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên do xuất phát từ điều kiện hoàn cảnh lịch sử và nhận thức về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của mỗi giai đoạn có khác nhau nên cách thức thực hiện cũng không giống nhau. Nhưng phương hướng và nhiệm vụ chiến lược thì vấn thống nhất.
Thứ hai: Các hình thức sở hữu chủ yếu ở nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ điều kiện hoàn cảnh lịch sử và nhận thức về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ có khác nhau, nhưng điểm giống nhau của hai bản hiến pháp năm 1980 và năm 1992 trong việc xác định hình thức sở hữu chủ yếu ở nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là: cả hai bản hiến pháp đều có hai hình thức sở hữu đó là hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể đều khẳng định cả hai hình thức sở hữu này là nền tảng của nền kinh tế. Tuy nhiên tại hiến pháp năm 1992 có ghi nhận thêm hình thức sở hữu khác là sở hữu tư nhân nhưng vẫn nhất quán khẳng định sở hữu tòan dân và sở hữu tập thể là nền tảng dẫn dắt nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba: Về thành phần kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội được ghi nhận ở hai bản hiến pháp có sự giống nhau là đều ghi nhận sự tồn tại của hai thành phần kinh tế là thành phần kinh tế quốc doanh và thành phần kinh tế tập thể, đều ghi nhận thành phần kinh tế quốc doanh chiếm vị trí then chốt và giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Thứ tư: Sự giống nhau về nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế được ghi nhận trong hai bản híên pháp năm 1980 và năm 1992 là đều xác định nhà nước thông nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. Đều có sự kết hợp lợi ích của nhà nước, của tập thể, của người lao động. Những nội dung này được ghi rõ trong các điều 26 hiến pháp năm 1992 và điều 34 hiến pháp năm 1980. Tuy nhiên mức độ ưu tiên cho lợi ích đối với từng thành phần kinh tế có khác nhau.
Bên cạnh những điểm giống nhau trong chính sách phát triển kinh của nhà nước ta qua hai bản hiến pháp năm 1980 và năm 1992 như đã trình bày ở trên thì con có những điêm rất khác biệt về chính sách phát triển kinh tế được ghi nhận tại hai bản hiến pháp này thể hiện ở một số điểm sau: (Phần chuyển tiếp)
Thứ nhất: Điểm khác nhau giữa mục đích và phương hướng chính sách kinh tế của 2 bản hiến pháp.
a, Mục đích:
Mục đích của chính sách phát triển kinh tế năm 1980 được đề ra trong điều 15 của bản Hiến pháp:
Mục đích chính sách kinh tế của nước Cộng Hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng tăng của xã hội bằng cách không ngừng phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, trên cơ sở chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa và nền khoa học, kỹ thuật hiện đại.
Mục đích của chính sách kinh tế Hiến pháp năm 1992 được đề ra trong điều 16 của bản Hiến pháp:
Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới.
Như vậy, qua hai bản Hiến pháp ta thấy mục đích chung của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phục vụ lợi ích tối đa của nhân dân lao động. Song trong mỗi thời kỳ thì tính chất và mức độ có sự khác nhau.
Trong Hiến pháp năm 1980 mục đích của chính sách kinh tế là làm “ thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng tăng của xã hội”, còn Hiến pháp năm 1992 đã đặt ra mục đích mới cùng một nội dung nhưng phải khẳng định là nó mang tính chất cao hơn: “làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân”. Trong bản Hiến pháp năm 1992 mục đích của Nhà nước ta không chỉ dừng lại là đáp ứng được các nhu cầu căn bản của nhân dân nữa mà là đáp ứng tốt hơn những nhu cầu cao hơn, điều đó được thể hiện trong việc “làm cho dân giàu”.
Trong bản Hiến pháp năm 1980 đề cập đến việc đạt được mục đích phát triển kinh tế dựa hoàn toàn bằng nội lực. Trong Hiến pháp năm 1992, việc đạt được mục đích phát triển kinh tế dựa vào nội lực vẫn là chủ yếu nhưng vẫn tận dụng các yếu tố ngoại lực.
b, Phương hướng
Phương hướng phát triển kinh tế được đề cập trong Điều 18 Hiến pháp năm 1980 và điều 15 Hiến pháp năm 1992
Điều 18 Hiến pháp năm 1980 : Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
Điều 15 Hiến pháp năm 1992 : Nhà nước phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa đạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân,trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng
Điểm khác nhau căn bản trong chính sách kinh tế của hai bản Hiến pháp này chính là cơ chế quản lý đề ra:
Hiến pháp năm 1980 đề ra cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế tự cung tự cấp, với hai thành phần kinh tế là quốc doanh và tập thể. Triệt tiêu hoàn toàn những thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa như tiểu chủ, tư nhân…Điều đó dẫn đến tất yếu nền kinh tế chỉ có một chế độ sở hữu là chế độ công hữu duy nhất về tư liệu sản xuất. Sự phát triển kinh tế dựa vào sự chỉ huy nền kinh tế theo một kế hoạch tập trung với những chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống của Nhà nước, nó tuyệt đối hoá vai trò của kế hoạch và phủ nhận vai trò của thị trường. Như vậy sự nền kinh tế phi hàng hoá, tự cung tự cấp, không có tính cạnh tranh không có yếu tố thúc đẩy phát triển.
Hiến pháp năm 1992 đề ra phương hướng phát triển kinh tế hàng hoá cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với nhiều thành phần kinh tế, giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với sự chuyên môn hoá, phân công lao động hợp lý để mỗi thành phần kinh tế phát huy được sức mạnh của mình trong sản xuất, phân phối, tiêu thụ sản phẩm làm cho khối lượng sản phẩm xã hội ngày càng tăng, giải quyết việc làm cho người lao động, tăng cường khả năng hợp tác, ứng dụng khoa học kỹ thuật của các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần khác nhau…Như vậy Nhà nước ta từ chỗ quan niệm đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư bản chủ nghĩa đã đi đến quan niệm coi sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành quả phát triển qua nhiều phương thức sản xuất. Chấp nhận cơ chế thị trường đồng nghĩa với việc chúng ta chấp nhận quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh và sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đồng thời ta cũng chấp nhận những mặt tiêu cực mà kinh tế thị trường đem lại như : phân hoá giàu nghèo, bóc lột sưc lao động, làm hàng giả,buôn lậu... Nhưng đó không phải là sự chấp nhận một cách thụ động mà có sự định hướng xã hội chủ nghĩa với những phương thức khác nhau như pháp luật, kế hoạch, chính sách để nhằm hạn chế những mặt tiêu cực đó. Bên cạnh đó để đảm bảo lợi ích của nhân dân lao động lên hàng đầu phải không ngừng nâng cao năng suất lao động trên cơ sở sử dụng hợp lý sức lao động, tài nguyên của đất nước cũng như áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể.
Nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau đó là:
_ Do trình độ phát triển kinh tế ở mỗi thời kỳ là khác nhau.
Năm 1980, do nước ta mới giành được độc lập, các cơ sở kinh tế bị tàn phá, nền kinh tế ở trong tình trạng kém phát triển, nhân dân tuy đã được độc lập, tự do nhưng còn thiếu thốn trăm bề, ngay cả cơm không đủ ăn, những nhu cầu thiết yếu không được đáp ứng. Chính vì thế mục tiêu hàng đầu và cấp bách của Nhà nước đặt ra cho nền kinh tế lúc bây giờ là phải đáp ứng được căn bản những nhu cầu đó của nhân dân.
Năm 1999, sau thời kỳ khủng hoảng do chế độ tập trung bao cấp mang lại, Nhà nước ta đã nhận ra sai lầm và thực hiện cải cách vào năm 1986. Năm 1999 là giai đoạn nước ta đạt được những thành tựu bước đầu trên mọi lĩnh vực, đặc biệt kinh tế, thể hiện sự đúng đắn của đường lối cải cách. Nhân dân ta đã được đáp ứng đầy đủ những nhu cầu thiết yếu như ăn mặc…Tất yếu nhu cầu văn hoá, vật chất của người dân sẽ ngày càng cao hơn, chính vì thế mục đích của chính sách kinh tế cũng phải có tính chất cao hơn. Từ chỗ làm cho nhân dân “ăn no mặc ấm” trở thành “ăn ngon, mặc đẹp”.
_ Do cơ chế quản lý kinh tế
Năm 1980, nước ta thực hiện chế độ tập trung quan liêu bao cấp, đóng kín cửa với thế giới chỉ nhận sự trợ cấp, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em như : Liên Xô, Trung Quốc…
Năm 1992, nước ta thực hiện phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chính vì vậy việc mở cửa nền kinh tế và xu hướng toàn cầu hoá là tất yếu.
_ Do tâm lý chính trị
Năm 1980, như đã nói ở trên nước ta vừa thực hiện thành công công cuộc giữ nước, đánh đuổi được đế quốc Mỹ, giành độc lập tự do cho nước nhà. Trong không khí hân hoan đó xuất hiện những tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí từ những người lãnh đạo Nhà nước: nước ta sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng. Nhưng thực chất cơ sở hạ tầng của nước ta lúc bấy giờ đang rất yếu kém, nước ta đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ mà thôi. Chính tư tưởng kiến trúc thượng tầng phát triển có thể thúc đẩy hạ tầng phát triển theo nên Nhà nước ta đã đốt cháy giai đoạn, đề ra những phương hướng phát triển kinh tế trái với quy luật phát triển tự nhiên như quy định tại bản Hiến pháp năm 1980.
Năm 1992, với sự sụp đổ của nhà nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô cùng với các nước Đông Âu, nhận thấy rõ sai lầm của mình Nhà nước ta đã thực hiện cải cách và đạt được những thành công đáng kể bước đầu. Nhà nước ta nhận ra sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là thành quả phát triển qua nhiều phương thức và đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế tư bản phát triển đến mức điển hình. Chính vì thế, phát triển kinh tế hàng hoá nhưng hạn chế những tiêu cực của nó bằng việc định hướng xã hội chủ nghĩa rõ ràng sẽ vẫn đưa được nền kinh tế đi lên mà không đi chệch với con đường đã chọn – tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Đánh giá:
Hai bản Hiến pháp có sự khác nhau cơ bản về mục đích đặc biệt là phương hướng phát triển kinh tế. Sự chuyển hướng từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự định hướng có sự quản lý của Nhà nước là bước ngoặt trong đời sống kinh tế của xã hội, đánh dấu sự đổi mới nhận thức với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ hoá trong đời sống kinh tế của xã hội, đem lại những thành tựu không thể phủ nhận trong sự phát triển kinh tế ở những năm gần đây. Đưa nền kinh tế nước ta trở thành một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nóng, dần xoá tên Việt Nam trong danh sách những nước nghèo của thế giới.
Thứ hai: về thành phần kinh tế được xác định trong hai bản hiến pháp năm 1980 và năm 1992.
Khi so sánh về các thành phần kinh tế được nêu trong hai bản Hiến pháp 1980 và 1992, ta dựa trên các tiêu chí sau:
Tên gọi và số lượng thành phần kinh tế.
Vị trí chủ đạo của thành phần kinh tế được quy định tại mỗi bản Hiến pháp.
Mục đích sản xuất kinh doanh của mỗi thành phần kinh tế qua từng thời kì.
Vai trò, sự tác động qua lại giữa các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế quốc dân được xác định trong hai bản Hiến pháp và qua đó rút ra tính phù hợp của hai bản Hiến pháp.
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Thành phần kinh tế tồn tại ở những hình thức tổ chức kinh tế nhất định, trong đó căn cứ vào quan hệ sản xuất ( mà hạt nhân là quan hệ sở hữu ) nào thống trị để xác định từng thành phần kinh tế. So sánh về thành phần kinh tế, tức là ta đi so sánh về những hình thức tổ chức kinh tế, những phương thức quản lí của Nhà nước phù hợp với trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất. Và chính từ sự so sánh này, chúng ta mới nhận thức rõ hơn sự phù hợp hay không của chính sách phát triển các thành phần kinh tế ở trong hai bản Hiến pháp.
Trước hết, ta đi so sánh về tên gọi và số lượng các thành phần kinh tế. Tại bản Hiến pháp năm 1980, Nhà nước ta chỉ chủ trương “thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động” ( Điều 18, Hiến pháp Việt Nam 1980). Nhưng cho đến Hiến pháp năm 1992, Nhà nước chủ trương phát triển một nền “kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa…”(Điều 15). Lần đầu tiên Nhà nước ta thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế cũng như tác dụng tích cực của kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế (Điều 22). Nền kinh tế nhiều thành phần được nói đến trong bản Hiến pháp năm 1992 bao gồm: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, chúng ta có thể dễ nhận thấy ngay sự khác biệt chỉ qua số lượng các thành phần kinh tế được Nhà nước quy định. Có sự khác biệt về số lượng các thành phần cũng chứng tỏ sự thay đổi trong cả chính sách kinh tế và quản lí nền kinh tế của Nhà nước. Sự thay đổi này được đánh giá là một sự thay đổi đi lên, vì nó phù hợp với thực tiễn, hoàn cảnh đất nước trong thời kì đổi mới. Nền kinh tế nhiều thành phần được Nhà nước thừa nhận làm phong phú và đa dạng hóa các chủ thể kinh tế, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa, tạo điều kiện đẩy mạnh cạnh tranh, khắc phục tình trạng độc quyền đã từng xảy ra trong thời kì trước đó, khi mà trong Hiến pháp 1980 Nhà nước chỉ cho thừa nhận sự tồn tại của hai thành phần chủ yếu, các thành phần kinh tế khác ít có cơ hội để phát triển. (xuống hàng)
Về tên gọi, thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta được hình thành từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trước đây gọi là kinh tế quốc doanh, nhưng sau đó chúng ta đã nhận thức lại và gọi là kinh tế nhà nước. Thành phần kinh tế tập thể trước đây được gọi là thành phần kinh tế hợp tác xã (Hiến pháp 1980) nhưng sau cũng được đổi lại cách gọi cho chuẩn xác hơn.
Thứ hai, so sánh về vị trí chủ đạo trong nền kinh tế. Ở đây có xuất hiện nét tương đồng bởi ở cả hai bản Hiến pháp đều quy định thành phần kinh tế nhà nước (kinh tế quốc doanh) giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản lí vĩ mô nền kinh tế theo định hướng XHCN. Còn nền kinh tế tập thể(kinh tế hợp tác xã) vẫn được “ Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả”(Điều 20 Hiến pháp năm 1992). Tuy nhiên, cũng trong bản Hiến pháp năm 1992 do có sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế hơn, nên vị trí của kinh tế tập thể không còn có chỗ đứng vững chắc như trong thời kì trước. Bên cạnh đó, các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân; thành phần kinh tế tư bản nhà nước và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà nước khuyến khích và tạo mọi điều kiện để phát triển. Và trên thực tế, các thành phần này đang là những thành phần kinh tế có tốc độ phát triển nhanh nhất, vị trí ngày càng được nâng cao trong toàn nền kinh tế đất nước và tạo ra một nền kinh tế thị trường sôi động tại Việt Nam.
Thứ ba,về mục đích sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế, hay nói đúng hơn là những chính sách mà Nhà nước định hướng cho việc hoạt động của các thành phần kinh tế, qua hai bản Hiến pháp có sự khác biệt rõ nét. Lí do là vì, trong bản Hiến pháp 1992 có sự thay đổi cơ bản về nội dung của chế độ kinh tế, dẫn đến sự khác biệt trong chính sách phát triển. Tại các điều 22, 23, 24 Hiến pháp 1980 quy định chính sách kinh tế đối với hai thành phần kinh tế chính, theo đó “Các cơ sở kinh tế quốc doanh…thực hiện chế độ hạch toán, chế độ thủ trưởng và chế độ trách nhiệm cá nhân…”.Điều này vô hình chung đã tạo điều kiện cho sự tồn tại kéo dài của chế độ quan liêu, bao cấp, cửa quyền, kéo chậm sự phát triển của nền kinh tế. Cũng do chỉ thừa nhận sự tồn tại của hai thành phần kinh tế nên không thể tránh khỏi việc xảy ra chế độ độc quyền trong hoạt động kinh doanh, thương mại. Nhưng tại Hiến pháp năm 1992, lỗ hổng này được khắc phục về cơ bản khi Nhà nước chủ trương chấn chỉnh và tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu vực kinh tế nhà nước. Đối với những xí nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ phải chuyển hóa hình thức sở hữu để sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất như chuyển thành xí nghệp cổ phần để đấu thầu, cho thuê. Nhà nước cũng chủ trương để các cơ sở kinh tế quốc doanh được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh để phát huy tính năng động hiệu quả của các đơn vị kinh tế. Đây là bước phát triển mới trong việc quy định mục đích, nhiệm vụ và hướng hoạt động cho thành phần kinh tế nhà nước để xóa bỏ những hạn chế của bản Hiến pháp 1980. Các thành phần kinh tế như kinh tế tư nhân ( cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đều được Nhà nước giúp đỡ phát triển theo hướng tích cực, trong đó “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Có thể nhận thấy, sự thay đổi rõ nét về cách nhìn nhận vấn đề phát triển kinh tế qua hai bản Hiến pháp, từ đó Đảng và Nhà nước đã đưa ra những định hướng đúng hơn cho những bước tiến của nền kinh tế đất nước, góp phần thay đổi bộ mặt và vị thế của đất nước.
Cuối cùng, khi so sánh về vai trò, sự tác động qua lại giữa các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, ta nhận thấy: Bản Hiến pháp năm 1980 chỉ có hai thành phần kinh tế tồn tại, nên trong hoạt động kinh tế có xuất hiện tình trạng độc quyền, độc quyền nhà nước hay độc quyền hợp tác xã, các thành phần khác không có nhiều cơ hội để cạnh tranh và phát triển, hoặc cạnh tranh không bình đẳng. Hơn nữa, “Nhà nước độc quyền về ngoại thương trong mọi quan hệ kinh tế khác vơi nước ngoài” nên trong thực tế, có thời kì nền kinh tế nước ta bị coi là nền kinh tế đóng kín. Nhưng Hiến pháp 1992 lại là sự thay đổi cơ bản, có nhiều thành phần kinh tế hơn, Nhà nước hầu như không tham gia trực tiếp mà chỉ đóng vai trò điều tiết, tao ra một sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế. Sự tác động qua lại của các thành phần có nhịp nhàng, uyển chuyển hơn, thoát khỏi sự cứng nhắc và máy móc. Sự mở cửa của nền kinh tế với sự xuất hiện của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài buộc các thành phần kinh tế nội địa phải gắn kết với nhau hơn nếu không muốn bị tụt hậu về các khâu sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ hay phân phối. Mặt khác, cũng do sự tất yếu của cơ chế mở cửa mà nguồn