Tóm tắt
Trước khi đến với chủ nghĩa xã hội khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh đã từng biết đến tư tưởng xã hội chủ nghĩa sơ khai ở phương Đông qua
thuyết đại đồng với các mệnh đề thiên hạ vi công, dân vi quý, của Nho giáo.
Trong quá trình tiếp thu Nho giáo, Người đã cải biến nhiều khái niệm của Nho
giáo, làm cho những khái niệm ấy chứa đựng một nội dung mới trong hình thức
cũ. Vì thế, tư tưởng Mácxít - Lêninnít của Người có sắc thái độc đáo, tư tưởng đó
được xây dựng và phát triển trên cơ sở những truyền thống tốt đẹp nhất của dân
tộc Việt Nam, mà trong đó, Nho giáo chiếm vị trí không nhỏ. Do đó, trong phong
cách và tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều yếu tố của Nho giáo, mà chính những yếu
tố Nho giáo ấy dung hòa nhuần nhuyễn với những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc đã tạo nên con người Mácxít - Lêninnít vĩ đại được cả thế giới ngưỡng mộ. Bài
viết phân tích, chỉ ra sự ảnh hưởng của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng đối với
tư tưởng Hồ Chí Minh ở các khía cạnh như mô hình xã hội lý tưởng, những phẩm
chất đạo đức của người cầm quyền.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 246 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự ảnh hưởng của Nho giáo sơ kỳ đối với tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội lý tưởng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|248
SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO SƠ KỲ ĐỐI VỚI TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ XÃ HỘI LÝ TƯỞNG
TS. Nguyễn Thị Lan
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
- Đại học Quốc gia Hà Nội
Tóm tắt
Trước khi đến với chủ nghĩa xã hội khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh đã từng biết đến tư tưởng xã hội chủ nghĩa sơ khai ở phương Đông qua
thuyết đại đồng với các mệnh đề thiên hạ vi công, dân vi quý, của Nho giáo.
Trong quá trình tiếp thu Nho giáo, Người đã cải biến nhiều khái niệm của Nho
giáo, làm cho những khái niệm ấy chứa đựng một nội dung mới trong hình thức
cũ. Vì thế, tư tưởng Mácxít - Lêninnít của Người có sắc thái độc đáo, tư tưởng đó
được xây dựng và phát triển trên cơ sở những truyền thống tốt đẹp nhất của dân
tộc Việt Nam, mà trong đó, Nho giáo chiếm vị trí không nhỏ. Do đó, trong phong
cách và tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều yếu tố của Nho giáo, mà chính những yếu
tố Nho giáo ấy dung hòa nhuần nhuyễn với những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc đã tạo nên con người Mácxít - Lêninnít vĩ đại được cả thế giới ngưỡng mộ. Bài
viết phân tích, chỉ ra sự ảnh hưởng của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng đối với
tư tưởng Hồ Chí Minh ở các khía cạnh như mô hình xã hội lý tưởng, những phẩm
chất đạo đức của người cầm quyền.
Từ khóa: Nho giáo sơ kỳ, tư tưởng Hồ Chí Minh, xã hội lý tưởng.
I. MỞ ĐẦU
Xuất thân từ gia đình có truyền thống Nho học đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh nhiều lần nói đến
những giá trị của Nho giáo với một thái độ trân trọng. Trong các trƣớc tác của mình,
Ngƣời đã hàng trăm lần sử dụng những câu chữ có liên quan đến những khái niệm và
những mệnh đề của Nho giáo. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh đã cải tạo những từ ngữ ấy, đã
đem lại cho chúng nội dung và ý nghĩa mới. Thái độ của chủ tịch Hồ Chí Minh với
Nho giáo luôn nhất quán, luôn có quan điểm lịch sử cụ thể khi đánh giá Nho giáo, đồng
thời khẳng định đúng mức những giá trị chân chính của Nho giáo. Mặt khác, Ngƣời
cũng triệt để phê phán, bác bỏ những quan điểm của Nho giáo với tƣ cách là thành tố ý
thức hệ của chế độ phong kiến. Ngƣời cũng vừa tiếp nhận, vừa cải tạo, nâng cao, khai
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
249|
thác các “hạt nhân hợp lý” trong tƣ tƣởng của ngƣời xƣa. Thái độ của chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với việc khai thác những nhân tố hợp lý của Nho giáo rất đáng để chúng ta
học tập.
II. NỘI DUNG
Xã hội Đại đồng mà các nhà nho mơ ƣớc là xã hội mà trong đó thiên hạ là của
chung, những ngƣời hiền tài đƣợc trọng dụng, trai lớn có vợ, gái lớn gả chồng, những
ngƣời quan, quả, cô, độc đƣợc quan tâm chăm sóc, ngƣời già có thịt để ăn, có lụa để mặc,
đƣợc yên hƣởng tuổi già, trẻ em đƣợc nuôi dƣỡng, giáo dục, xã hội không có trộm cắp,
cƣớp đoạt, không có chiến tranh. Khổng Tử từng nói về ƣớc nguyện của mình: “Ta mong
sao những ngƣời già cả đều đƣợc an vui, bạn bè tin cậy ta, và trẻ thơ đều đƣợc thƣơng
yêu, dạy dỗ”1. Hồ Chí Minh cũng từng nói Ngƣời có một ham muốn, ham muốn tột bậc
là làm sao cho nƣớc ta đƣợc hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng đƣợc học hành. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội, Ngƣời đã từng nói: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ
mặc, ngày càng sung sƣớng, ai nấy đƣợc đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động
đƣợc thì nghỉ”2. Giữa Hồ Chí Minh và Nho giáo sơ kỳ tuy có những điểm tƣơng đồng
trong mong muốn về xã hội lý tƣởng, nhƣng các nhà nho lại muốn quay về xã hội tốt đẹp
thời quá khứ là xã hội thời Nghiêu, Thuấn và duy trì một trật tự xã hội có đẳng cấp, còn
Hồ Chí Minh lại đứng trên lập trƣờng mácxít, nguyện suốt đời nỗ lực đấu tranh để thực
hiện một xã hội tiến bộ hơn các xã hội trƣớc, đó là “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày
càng tăng, tinh thần ngày càng tốt”3. Theo Hồ Chí Minh, trong xã hội đó “mọi ngƣời đều
có đạo đức; đối với mọi việc, ai cũng xung phong. Sản xuất thứ gì cũng phong phú. Cho
nên, ai cần gì có nấy”4, và điều quan trọng hơn cả là trong xã hội đó nhân dân lao động
thực sự đƣợc làm chủ và thực sự có tự do.
Trong xã hội lý tƣởng của mình, các nhà sáng lập Nho giáo sơ kỳ hƣớng tới sự
phân phối của cải sao cho không có sự phân biệt giàu nghèo thái quá, bởi đó là nguồn
gốc của bất ổn xã hội. Khổng Tử nói, “Khâu này từng nghe rằng, những bậc vua chƣ
hầu hoặc quan đại phu chẳng lo chuyện tài sản ít ỏi, mà lo chia không đều, chẳng lo
1
Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú, Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà
Nội, tr.312.
2
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.591.
3
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.591.
4
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.245.
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|250
dân nghèo mà lo dân không đƣợc yên ổn. Của cải chia đều thì dân không nghèo, dân
hòa hợp thì của không ít, dân yên ổn thì nƣớc không nghiêng đổ”5. Trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nhắc nhở việc phân phối, lƣu thông phải luôn
luôn nhớ hai điều: Một là, không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; hai là, không sợ
nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên. Tuy nhiên, Ngƣời cũng lƣu ý, công bằng không phải
là cào bằng một cách máy móc, giỏi kém nhƣ nhau, làm triệt tiêu mất động lực phát
triển kinh tế xã hội, mà Ngƣời cho rằng phải hƣớng tới phân phối theo lao động, làm
nhiều hƣởng nhiều, làm ít hƣởng ít, không làm không hƣởng, trừ những ngƣời già,
ngƣời ốm đau và các em nhỏ, những ngƣời cần sự bảo trợ của xã hội.
Nho giáo sơ kỳ cho rằng, muốn xây dựng xã hội lý tƣởng phải xây dựng mẫu
ngƣời lý tƣởng, đó là ngƣời quân tử với những phẩm chất đạo đức nhƣ Nhân, Nghĩa,
Lễ, Trí. Trong quá trình đào tạo, sử dụng ngƣời cầm quyền, Nho giáo sơ kỳ yêu cầu
ngƣời cầm quyền phải tu thân, phải không ngừng học tập, phải ngay thẳng, gƣơng mẫu,
yêu thƣơng và lo lắng cho cuộc sống của dân, giúp đỡ dân, “phải làm trƣớc dân, chịu
khó giúp dân” (Tiên chi, lao chi) mà không bao giờ biết mệt mỏi (Vô quyện)6. Hồ Chí
Minh cho rằng, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trƣớc hết cần có những con ngƣời
xã hội chủ nghĩa”7. Mẫu ngƣời lý tƣởng mà Hồ Chí Minh muốn xây dựng là mẫu ngƣời
vừa có đức, vừa có tài (vừa hồng vừa chuyên). Khổng Tử và các nhà sáng lập Nho giáo
sơ kỳ lấy mẫu hình lý tƣởng ngƣời xƣa, các ông luôn khen Nghiêu, Thuấn, phục Chu
Công, coi đó là những khuôn mẫu cho mọi ngƣời noi theo. Nhƣng đó là những mẫu
ngƣời quá lý tƣởng, khó ai có thể với tới đƣợc và không phù hợp với hiện thực xã hội
đƣơng thời. Hồ Chí Minh xây dựng mẫu ngƣời vừa hồng, vừa chuyên trên cơ sở của
hiện thực xã hội, xuất phát từ nhiệm vụ cụ thể của cách mạng, phù hợp với tính tất yếu
lịch sử của nhân loại trên con đƣờng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cũng giống nhƣ các
nhà sáng lập Nho giáo sơ kỳ, Hồ Chí Minh cũng cho rằng, đạo đức giữ vai trò nền tảng
trong xây dựng mẫu ngƣời lý tƣởng, đạo đức là gốc của con ngƣời, nhất là ngƣời cách
mạng, ngƣời cán bộ. Một mặt, ngƣời khẳng định: “Ngƣời cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo đƣợc nhân dân”8. “Có tài mà
5
Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú, Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà
Nội, tr.592.
6
Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú, Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà
Nội, tr.496.
7
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.310.
8
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.253.
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
251|
không có đức là hỏng” và “Đức phải có trƣớc tài”9. Mặt khác, Ngƣời cũng nhấn mạnh
vai trò quan trọng của trí tuệ, năng lực để thực thi công việc có hiệu quả. Ngƣời cho
rằng có đức mà không có tài nhƣ ông bụt ngồi trong chùa, không giúp gì đƣợc cho ai.
Trong bài Xây dựng những con người của chủ nghĩa xã hội, Ngƣời nhấn mạnh rằng,
con ngƣời xã hội chủ nghĩa là ngƣời có ý thức làm chủ nhà nƣớc, có tinh thần tập thể
xã hội chủ nghĩa và tƣ tƣởng “mình vì mọi ngƣời, mọi ngƣời vì mình”, phải thật thà,
ngay thẳng, phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, phải “chí công vô tư” và có tinh thần
“lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”10, có tinh thần kỷ luật tự giác và ý thức tổ chức
nghiêm chỉnh, phải nên gƣơng “cần kiệm liêm chính”11.
Khổng Tử và Hồ Chí Minh đều nêu cao vai trò đạo đức của ngƣời cầm quyền,
đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của đạo đức và tu dƣỡng đạo đức. Khổng Tử cho
rằng, từ thiên tử cho đến thứ dân, ai cũng phải lấy tu thân làm gốc. Hồ Chí Minh cũng
cho rằng “cũng nhƣ sông có nguồn mới có nƣớc, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Ngƣời cách mạng phải có đạo đức, không có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo đƣợc nhân dân. Vì muốn giải phóng
cho dân tộc, giải phóng cho loài ngƣời là một công việc to tát, mà tự mình không có
đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”12. Hồ
Chí Minh coi đức là gốc, “ngƣời cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng,
mới hoàn thành đƣợc nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”13.
Trên nền tảng một xã hội chịu ảnh hƣởng lâu dài của Nho giáo và trong hoàn
cảnh lịch sử mới, Hồ Chí Minh đã “tái cấu trúc” đạo đức Nho giáo, tức là đƣa vào đó
những nội dung mới cho phù hợp với mục tiêu xây dựng xã hội mới. Khổng Tử cho
rằng, những phẩm chất đạo đức cần có của mẫu ngƣời lý tƣởng là Nhân, Trí, Dũng.
Đến Mạnh Tử, ông đã kế thừa “Tam đức” của Khổng Tử và phát triển thành “Tứ đức”:
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển thêm tƣ tƣởng đó khi cho
rằng, những phẩm chất đạo đức cách mạng cần có của ngƣời cách mạng là: “Nhân,
nghĩa, trí, dũng, liêm”14. Nhƣng trong các phẩm chất đạo đức ấy, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh phẩm chất Dũng và Liêm mà ít đề cập đến Lễ của Nho giáo. Có thể nói, lễ giáo
của Nho giáo rất nặng nề và thậm chí mang tính cổ hủ, lỗi thời, song tác dụng của Lễ
9
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.492.
10
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.311.
11
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.309.
12
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.252-253.
13
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.283.
14
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.251.
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|252
về phƣơng diện ứng xử văn hóa vẫn đƣợc Ngƣời quan tâm. Cụ thể là, trong thƣ gửi
đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Sở Công an khu 12, vào tháng 3/1948, Ngƣời nói về tƣ
cách ngƣời công an cách mạng là:
“Đối với tự mình phải cần, kiệm, liêm, chính
Đối với đồng sự phải thân ái, giúp đỡ
Đối với nhân dân phải kính trọng, lễ phép
Đối với công việc phải tận tụy
Đối với địch phải cƣơng quyết, khôn khéo”.
(Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân)
Nhân trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ là lòng yêu thƣơng con ngƣời (ái
nhân), là khắc kỷ phục lễ, là trung thứ, điều gì mình không muốn thì đừng đem áp dụng
cho ngƣời khác, mình muốn lập thân thì cũng giúp ngƣời khác lập thân, mình muốn
thành đạt thì cũng giúp cho ngƣời khác thành đạt. Tuy vậy, mặt hạn chế trong tƣ tƣởng
của Khổng Tử và các môn đệ của ông về Nhân xuất phát từ lập trƣờng giai cấp của các
ông, tuy nêu quan điểm yêu thƣơng con ngƣời, nhƣng lại không đem đến sự giải phóng
cho con ngƣời. Trên thực tế, các nhà sáng lập Nho giáo sơ kỳ vẫn muốn duy trì một xã
hội có sự phân biệt đẳng cấp, trong đó đa số quần chúng lao động vẫn bị áp bức, bóc
lột. Nhân trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh mang nội dung mới, cụ thể, thiết thực hơn, đó là
lòng yêu thƣơng vô hạn với Tổ quốc, với đồng bào, nhân dân lao động, lòng tận trung
vô hạn đối với sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động. Nhân trong tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh có ý nghĩa chủ động hơn, thể hiện ở tinh thần kiên quyết đấu tranh chống lại
những cái có hại cho ngƣời khác, cho nhân dân. Nhân ở Hồ Chí Minh là một chủ nghĩa
nhân văn hoàn chỉnh thể hiện không chỉ ở tấm lòng yêu quý nhân dân mà còn ở niềm
tin vô hạn đối với sức mạnh của quần chúng khi quần chúng tự giác đứng lên để tự giải
phóng chính mình.
Nghĩa, trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ có quan hệ mật thiết với Nhân. Nếu
Nhân thể hiện tình cảm sâu sắc nhất của con ngƣời thì Nghĩa là trách nhiệm để thực
hiện tình cảm đó, cho nên tình vua tôi, cha con, chồng vợ chƣa đủ mà còn phải có
nghĩa vụ nữa, đó là nghĩa vua tôi, nghĩa cho con, nghĩa chồng vợ. Nho giáo nhấn mạnh
vai trò của Nghĩa. Mạnh Tử nói: “Sống là điều ta ham muốn, nghĩa cũng là điều ta ham
muốn; hai điều đó không thể giữ lại cả hai, thì ta bỏ mạng sống để giữ điều nghĩa
vậy”15. Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, Nghĩa là tinh thần vì dân, vì nƣớc, vì sự nghiệp
giải phóng nhân dân lao động. “Nghĩa là ngay thẳng, không có tƣ tâm, không làm việc
15
Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú, Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà
Nội, tr.1221.
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
253|
bậy, không có việc gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng
phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận”16.
Trí trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ là năng lực tƣ duy và ứng xử, đặc biệt
nhấn mạnh hiểu biết Lễ và thực hành Lễ nhằm duy trì trật tự xã hội mà Nho giáo sơ kỳ
cho là lý tƣởng. Hồ Chí Minh quan niệm rằng, Trí trong đạo đức cách mạng là không
ngừng học tập, trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, nhận
thức đúng quy luật vận động phát triển tất yếu của lịch sử, tiền đồ của Tổ quốc và
nhiệm vụ của cá nhân. Trí là có tinh thần mƣu trí sáng tạo, giải quyết đƣợc mọi công
việc khó khăn, sáng suốt vƣợt qua đƣợc mọi thử thách, biết thiên biến vạn hóa, biết
biến nguy thành yên. Trong quan niệm về Trí của Hồ Chí Minh và Nho giáo sơ kỳ có
nét tƣơng đồng. Nho giáo sơ kỳ cho rằng Trí là biết ngƣời, để yêu ngƣời và ghét ngƣời
một cách chính đáng, để sử dụng con ngƣời, sắp xếp công việc phù hợp với trình độ và
năng lực của họ. Trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ, Trí là biết cất nhắc ngƣời ngay
thẳng, loại bỏ kẻ gian tà nhằm đem lại lợi ích cho dân. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh,
Trí là “Biết xem ngƣời. Biết xét việc. Vì vậy mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại
cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc ngƣời tốt, đề phòng ngƣời gian”17.
Dũng trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ là lòng can đảm, không sợ sệt, dám
đấu tranh bảo vệ lẽ phải, thực thi đạo nghĩa. Dũng trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là thể
hiện ý chí cách mạng, không ngại gian khổ hy sinh, nêu cao ý chí cách mạng, quyết
tâm thực hiện lý tƣởng độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vƣợt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Ngƣời nhấn mạnh:
“Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc khó có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa
chữa. Có gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý không chính đáng. Nếu cần, thì có
gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát”18.
Liêm trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là ra sức giữ gìn phẩm chất đạo đức cách
mạng, nêu cao tinh thần cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, chống tham ô lãng phí,
sống trong sạch, khiêm tốn, giản dị. Ngƣời nói: “Liêm là không tham địa vị, không
tham tiền tài. Không tham sung sƣớng. Không tham ngƣời tâng bốc mình. Vì vậy mà
quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa”19.
Trong Tam cương, Nho giáo đặt lên hàng đầu quan hệ vua tôi và cha con. Do đó,
tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của con ngƣời là Trung với vua và Hiếu với cha mẹ.
16
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.252.
17, 18, 19
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.252.
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|254
Nguyên tắc ứng xử vua tôi là: “quân xử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung”. Hồ Chí Minh
đặt lên hàng đầu mối quan hệ giữa con ngƣời với Tổ quốc và nhân dân. Do đó, trong tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh, Trung là trung với nƣớc và Hiếu với dân. Trung không phải để
phục vụ vua chúa mà phục vụ cho Tổ quốc. Theo Hồ Chí Minh, Trung là trung thành
tuyệt đối với tổ quốc, với nhân dân, với cách mạng, với Đảng, đặt lợi ích của Đảng, của
nhân dân lên trên hết. Ngƣời nói: “Đạo đức ngày trƣớc chỉ trung với vua, hiếu với cha
mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nƣớc. Phải hiếu với
toàn dân, với đồng bào”20. Hồ Chí Minh cho rằng, ngƣời làm cách mạng phải hiểu chữ
Hiếu một cách rộng rãi, không bó hẹp trong phạm vi chỉ Hiếu với cha mẹ của mình mà
còn Hiếu với cha mẹ của đồng bào mình. Nhƣ vậy, họ cũng là những ngƣời chí Hiếu
nhất, bởi họ không chỉ biết thƣơng cha mẹ của mình mà còn thƣơng cha mẹ ngƣời và
làm cho mọi ngƣời đều biết thƣơng cha mẹ, cuộc cách mạng do họ tiến hành mang lại
độc lập, tự do, hạnh phúc, no ấm cho toàn dân tộc, đó là biểu hiện của chữ Hiếu triệt để
nhất, rộng rãi và nhân văn nhất.
Kế thừa những giá trị tích cực của Nho giáo, Hồ Chí Minh đã đƣa vào những
phạm trù đạo đức Nho giáo những ý nghĩa mới, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới của
thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong cấu trúc
đạo đức mới, lợi phải gắn liền với nghĩa, nhà phải gắn liền với nƣớc, quyền lợi cá nhân
gắn liền với sự giầu mạnh của Tổ quốc.
Để xây dựng đƣợc xã hội lý tƣởng, Nho giáo sơ kỳ cho rằng, phải có vua sáng, tôi
hiền. Các nhà sáng lập Nho giáo đặt vấn đề tu dƣỡng đạo đức lên hàng đầu, từ thiên tử
đến thứ dân, ai cũng phải lấy tu thân làm gốc. Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc vai trò
của đạo đức trong việc kiến tạo một xã hội mới ở một xã hội mang đậm tính chất
phƣơng Đông và ảnh hƣởng đậm nét của Nho giáo nhƣ Việt Nam. Ngay từ những ngày
đầu của cách mạng Việt Nam, Ngƣời đã nêu ý nghĩa quan trọng của việc tu dƣỡng đạo
đức ở những ngƣời chiến sĩ cộng sản: “Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ
có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không”21. Hồ Chí Minh cho rằng, trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đạo đức là gốc, đã là ngƣời cách mạng phải có bản
lĩnh đạo đức: “Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo Ngƣời cách mạng phải có
đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo đƣợc nhân
dân”22. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân Việt Nam kháng chiến cứu nƣớc và xây dựng
20
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.149.
21
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.480.
22
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.467.
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
255|
chủ nghĩa xã hội, cho đến cuối đời, Ngƣời luôn nhắc nhở mọi ngƣời khắc phục chủ nghĩa
cá nhân, trau dồi đạo đức cách mạng và chính Ngƣời đã nêu lên một tấm gƣơng sáng về
việc tu dƣỡng đạo đức ngƣời chiến sĩ cộng sản cho Đảng và nhân dân ta.
Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, cùng là việc đề cao vai trò của đạo đức của
ngƣời cầm quyền, nhƣng giữa Hồ Chí Minh và các nhà Nho sơ kỳ lại có khác biệt về
bản chất. Hồ Chí Minh nói: “Có ngƣời cho đạo đức cũ và đạo đức mới không có gì
khác nhau. Nói nhƣ vậy là lầm to. Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo
đức cũ nhƣ ngƣời đầu ngƣợc xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới nhƣ ngƣời
hai chân đứng vững đƣợc dƣới đất, đầu ngửng lên trời”23.