Hiện nay nước ta đang đứng trước nguy cơ thiếu hụt năng lượng nghiêm trong. Qua 
nhiều hội thảo, hội nghị về năng lượng, qua trao đổi với nhiều nhà khoa học, cho thấy: 
Còn vài thập niên nữa, năng lượng hóa thạch: than đá, dầu mỏ, khí đốt sẽ bị cạn kiệt, loài 
người sẽ lâm vào tình trạng khủng hoảng năng lượng trầm trọng. Việt Nam không thể 
tránh khỏi nguy cơ do thiếu hụt năng lượng sắp đến gần.
Thực tế hiện nay ta rất thiếu điện, năm nào cũng nhập khẩu nước ngoài. Dự đoán khi ta 
trở thành nước công nghiệp, năm 2020, công suất sản xuất điện tăng gấp 4 lần so với năm 
2006
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                
5 trang | 
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1462 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự cần thiết phải khai thác nguồn năng lượng gió, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sự cần thiết phải khai thác nguồn 
năng lượng gió 
Hiện nay nước ta đang đứng trước nguy cơ thiếu hụt năng lượng nghiêm trong. Qua 
nhiều hội thảo, hội nghị về năng lượng, qua trao đổi với nhiều nhà khoa học, cho thấy: 
Còn vài thập niên nữa, năng lượng hóa thạch: than đá, dầu mỏ, khí đốt sẽ bị cạn kiệt, loài 
người sẽ lâm vào tình trạng khủng hoảng năng lượng trầm trọng. Việt Nam không thể 
tránh khỏi nguy cơ do thiếu hụt năng lượng sắp đến gần. 
Thực tế hiện nay ta rất thiếu điện, năm nào cũng nhập khẩu nước ngoài. Dự đoán khi ta 
trở thành nước công nghiệp, năm 2020, công suất sản xuất điện tăng gấp 4 lần so với năm 
2006 
Vì sao phải khai thác nguồn năng lượng gió? 
1- Thực tế lũ lụt vừa qua bộc lộ nhiều bất cập về 
thủy điện. Năng lượng thủy điện ta đã khai thác tối 
đa. Hơn 2.000 trạm thủy điện lớn, nhỏ chiếm lòng 
hồ rộng lớn hàng chục vạn ha, phá hủy rừng, cây cối, 
gây ô nhiễm môi trường sinh thái chưa ai tính được 
hết, đặc biệt không ngăn được lũ lụt, mà còn xả nước 
cùng với lũ lụt gây bao nhiêu thảm họa sinh mạng, 
hủy hoại nhà cửa, ruộng vườn, hoa màu, cây cối... 
tổn thất hàng ngàn tỷ đồng/năm, nên vài trạm thủy 
điện đang xây dựng dở dang phải bị đình chỉ. Đó là 
điều rất bức xúc đến nỗi có địa phương trong cơn 
khốn khó đã kiện tập đoàn điện lực Việt Nam 
Ưu điểm của thủy điện là không phải mua nhiên liệu, đầu tư 2.000 USD/kw, nếu tính 
diện tich về lòng hồ, di dân có thể hơn 3.000USD/kw 
Có điều nghịch lý không sao khắc phục được là đến mùa khô hạn rất cần điện, thì lại 
thiếu nước, thiếu điện, có lúc mưa lũ, ngập lụt ở miền Trung, thì các trạm thủy điện Trị 
An, Dầu Tiếng ở miền Nam, Nhà máy thủy điện Hòa Bình, Thác Bà ở miền Bắc không 
đủ nước để hoạt động và ngược lại, làm tăng nguy cơ thiếu điện cho các nhà máy, xí 
nghiệp, sinh hoạt xã hội. Như thế cái lợi và cái hại lâu dài cần được tính toán cụ thể. 
2- Năng lượng nhiệt điện, than đá: đầu tư 1.000USD/kw, nhưng phải mua than số lượng 
lớn. Hiện nay ta khai thác được 22 triệu tấn than/năm, xuất khẩu nhiều triệu tấn. Tuy 
nhiên năm 2020, khi trở thành nước công nghiệp, ta phải nhập 40 triệu tấn than/năm cho 
hàng loạt nhà máy nhiệt điện ra đời, không biết mua đâu ? Chúng ta đã cử đoàn đi khắp 
thế giới: Brazin, Achentina, Ấn Độ, Trung Quốc, nhưng chỉ Indonexia hứa bán cho ta 
3,5 triệu tấn than/năm. Số than còn lại giải quyết thế nào ? 
Mỏ than ở Đồng bằng sông Hồng trữ lượng 200 tỷ tấn. Nhưng ở độ sâu 4.000 m, nhiệt 
độ ở đó 1.500, không có công nghệ hiện đại làm thế nào khai thác được? Giá thành khai 
thác sẽ bao nhiêu chưa ai biết? Ai tính toán được sự sụp lún và hậu quả về sau? 
Ngoài ra cần tính toán đến các nhà máy nhiệt điện gây ô nhiểm môi trường sinh thái, gây 
hiệu ứng nhà kính, cây cối bám đầy bụi bặm, mưa axit, con người không tồn tại gần 
được, vì có nguy cơ của nhiều bệnh. Mặt khác hay bị sự cố xỉ than, sụp lò khó giải quyết. 
3- Về dầu mỏ: đầu tư ra điện 4.000 Đô la/kw, phải mua nhiên liệu đắt 85 Đô la/thùng. Có 
năm chúng ta khai thác được 19-22 triệu tấn dầu thô. Tưởng rằng chúng ta nhanh chóng 
đạt 30-40 triệu tấn/năm, nhưng nay (chưa có số liệu cụ thể), dự đoán ta chỉ khai thác 16 
triệu tấn/năm, vì mỏ Bạch Hổ và vài mỏ khác đã bắt đầu cạn kiệt. Theo một sự tính toán 
về trữ lượng 2,7 tỷ thùng ta chỉ khai thác được 20 năm về dầu mỏ. 
Khí đốt đầu tư ra điện 4.000 Đô la/kw. Trước đây ta khai thác 11 tỷ m3/năm. Nay ta chưa 
có số liệu cụ thể về trữ lượng, sản lượng, nhưng chắc trong vài thập niên tới sẽ bị cạn 
kiệt. Indonexia là nước xuất khẩu dầu mỏ, nay trở thành nước nhập khẩu, nên rút ra khỏi 
tổ chức OPEC, vì dầu mỏ cạn kiệt. 
4- Năng lượng hạt nhân: đầu tư 4.000 Đô la/kw. Bất lợi là chúng ta phải dùng ngoại tệ 
nhập khẩu toàn bộ 100% về thiết bị, kỹ thuật, nhiên liệu uranium, thuê chuyên gia, ở 
trong nước chưa chế tạo được nhiên liệu hạt nhân, mua nhiên liệu rất đắt, không chủ động 
được, lại thêm dễ gây sự cố, ô nhiễ m môi trường sinh thái, mất an toàn từ khâu khai thác, 
chế biến đến cất dấu chất thải hạt nhân, nên nhân dân nhiều nước phản đối. (ở Đức chôn 
cất chất thải hạt nhân sâu 1 km rất tốn kém, nhân dân Pháp và Đức biểu tình phản đối 
chuyên chở chất thải hạt nhân trên lãnh thổ, nhân dân Canada phản đối cất dấu 56 tấn 
chất thải hạt nhân, nhân dân Đài Loan phản đối buộc nhà cầm quyền hủy xây dựng nhà 
máy điện hạt nhân 4.000MW) 
5- Năng lượng địa nhiệt, nước biển, sinh học, sinh khối ta chưa có thể khai thác, phát 
điện được. Nhà nước chưa có phương hướng thăm dò trữ lượng, tiềm năng, chưa ai thử 
nghiệm, thiết kế, dự trù trang thiết bị, công nghệ khai thác, địa điểm, hạch toán kinh tế. 
Nước ngoài đã đầu tư khai thác nhiều, nhưng ta không bắt chước được. Chúng ta cũng 
không thể kêu gọi nước ngoài đầu tư trong các lĩnh vực này. 
6- Năng lượng mặt trời: đầu tư ra điện rất đắt 7.000-10.000USD/kw. Ta phải nhập 100% 
các tế bào quang điện, các phụ tùng thiết bị, tích trữ năng lượng, bộ đổi điện inverter rất 
phức tạp, ta không tự chế tạo được. Nước ta có lợi thế vì ngày nắng nhiều, nhất là ở miền 
Nam, miền Trung. Mùa hè, mùa thu ngày nắng nhiều hơn ngày mưa. Số giờ nắng thường 
chiếm 1/3 của ngày. Các nước Bắc Âu nắng rất ít người ta vẫn sử dụng. Nhưng khó khăn 
là năng lượng này quá đắt không hợp với túi tiền của nhân dân ta. (Ở nước ngoài lương 
cao 5 đến10.000 Đô la/tháng, nếu nhịn ăn tiêu một tháng đã lắp đặt được trạm năng lượng 
mặt trời 1 kw, nên nhiều gia đình sở hữu một trạm điện mặt trời là bình thường, nhưng ở 
ta muốn có số tiền như vậy, những người lương thấp tiết kiệm nhiều năm cũng không đạt 
được) 
Qua sơ bộ số liệu trên, chứng tỏ chúng ta chưa bảo đảm an ninh năng lượng, có nguy cơ 
thiếu hụt năng lượng trầm trọng. Nếu cứ duy trì sản xuất điện như hiện nay, chúng ta 
không thể đạt mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, năm 2020 nước ta không 
thể trở thành nước công nghiệp được. Khi thiếu điện thì công, nông, ngư nghiệp, chế 
biến, khai tác sẽ bị tụt hậu, đời sống vật chất và tinh thần sút kém sẽ gây bất ổn định đời 
sống, xã hội. 
Bởi vậy, ngay từ bây giờ ta phải có bước đột phá đầu tư khai thác năng lượng gió tiềm 
tàng vô tận, bền vững tương lai cho đến 4 tỷ năm nữa khi mặt trời nguội lạnh. Theo dự 
đoán tiềm năng này có thể đến 10 triệu tỷ Kw. Nếu khai thác 10% năng lượng này cũng 
đủ dùng cho toàn thế giới. Khai thác năng lượng gió, năng lượng mặt trời là bước đi tất 
yếu của loài người thay thế nguồn năng lượng hóa thạch sắp cạn kiệt. 
TẦM NHÌN CHIẾN LƯỢC CHO ĐẦU Tư NĂNG LƯỢNG GIÓ TẠI VIỆT NAM 
Hiện nay gió là nguồn năng lượng phát triển nhanh nhất trên thế giới, mức độ tăng trưởng 
đạt 29% trong thập kỷ niên qua, trong lúc đó than chỉ tăng 2,5%, năng lượng hạt nhân 
tăng 1,8%, khí tự nhiên tăng 2,5% và dầu tăng 1,7%/năm. 
Hiện nay nhiều nước nỗ lực khai thác năng lượng gió, đi đầu là Đức, Mỹ, Tây Ban Nha, 
Trung Quốc. Cơ quan năng lượng Đức đề ra mục tiêu đến năm 2015 sản lượng điện từ 
các năng lượng tái tạo chiếm 20% tổng sản lượng điện quốc gia, trong đó 35.000 Mw 
điện được sản xuất từ gió. 
Khu vực Đông Nam Á có nhiều đảo lớn nhỏ nằm ở phía Tây Thái Bình Dương, phía 
đông Ấn Độ Dương chịu ảnh hưởng của hai làn gió mùa rất mạnh là gió Đông Bắc và 
Tây Nam. Philipin có 7.107 hòn đảo, phía tây Indonexia có 17.000 hòn đảo, Việt Nam 
hơn 3.000 hòn đảo đều có gió mạnh thường xuyên. Theo khảo sát của ngân hàng thế giới 
“The World Bank Asia Alternatic Energy Program” đã cho điều tra bản đồ gió với sự 
thực hiện của AWS True Wind- một tổ chức nghiên cứu có 20 năm kinh nghiệm trong 
lĩnh vực năng lượng tái tạo, đo dạc và mô hình hóa khí quyển, trong đó có 4 nước Việt 
Nam, Lào, Campuchia, Trung và Tây Bắc Thái Lan cho thấy về diện tích, 28.000 km2 
của Việt nam có gió rất tốt. Trong khi đó Campuchia 345 km2, Lào 6.676 km2, Thái Lan 
là 761km2. 
Ưu thế của Việt Nam là có bờ biển dài trên 3.000 km, nhiều hải đảo, núi cao từ 400 đến 
1.500 m ở Đông và Tây dãy Trường Sơn có tốc độ gió từ 7 đến 9m/s là thường xuyên, có 
lúc 15-17m/s, đặc biệt là ở mền Trung và Tây Nguyên đến nay chưa được khai thác. 
Đáng tiếc ở ta chưa đủ khả năng để chế tạo các turbin gió cở lớn công nghệ cao, chưa tận 
dụng được tiềm năng trí tuệ, nội lực trong nước, nên phải nhập 100% thiết bị, máy móc, 
vật liệu, công nghệ lắp đặt của nước ngoài, bị lệ thuộc, không chủ động được kỹ thuật 
công nghệ năng lượng gió. 
Gần đây, do năng lượng hóa thạch: than đá, dầu mỏ, khí đốt sắp bị cạn kiệt, trước nguy 
cơ khủng hoảng năng lượng đang đến gần, nhiều nước thi đua nhau khai thác năng lượng 
gió, ta mới bắt đầu thấy giá trị của năng lượng này, đã mở nhiều hội nghị, hội thảo về 
năng lượng tái tạo mà quan trọng nhất là năng lượng gió, nhưng cũng chỉ là những bài 
tham luận chung chung công bố chính sách, kêu gọi nước ngoài đầu tư, không có tham 
luận dự án sáng chế cụ thể về năng lượng gió, nên bị dẫm chân tại chỗ. Qua một số vấn 
đề nêu trên, trước nguy cơ khủng hoảng năng lượng sắp đến gần, để bảo đảm an ninh 
năng lượng trước mắt và lâu dài cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nước ta cần có tầm 
nhìn chiến lược tất yếu, cần có bước đột phá khai thác năng lượng gió sạch, bền vững cho 
tương lai Việt Nam. Muốn đạt mục tiêu to lớn trên, nhà nước phải đầu tư kinh phí, kỹ 
thuật thích đáng, tự mình làm chủ kỹ thuật, không lệ thuộc nước ngoài.