Đây là một bài viết dài dòng và tẻnhạt, nhưng đó chính là chủ định. Tài liệu này
không đưa ra cách lý giải gì mới vềkinh nghiệm của các nước Đông Á nhằm hấp dẫn nhà sử
học, chẳng suy ra ý nghĩa lý thuyết gì mới vềcác lực lượng đằng sau quá trình tăng trưởng
của Đông Á nhằm thúc dục nhà lý thuyết, và cũng không rút ra được ý nghĩa chính sách mới
nào từsựcan thiệp tinh tếcủa các chính phủ Đông Á nhằm gây háo hức cho các nhà hoạt
động chính sách. Thay vào đó, tài liệu này tập trung phân tích kỹlưỡng vềcác mẫu hình lịch
sửcủa quá trình tăng trưởng sản lượng, tích lũy nhân tốsản xuất và tăng trưởng năng suất tại
các nước mới công nghiệp hoá (NIC) ở Đông Á, tức là Hồng Kông, Singapore, Hàn quốc và
Đài Loan.
Bảng I, bảng II và Hình I trình bày một vài thông tin cơbản vềtăng trưởng tại các
nước NIC, lấy từcác nguồn điều tra và tài khoản hạch toán quốc dân.
1
Nhưtrong bảng I,
tăng trưởng sản lượng theo đầu người bền vững và nhanh chóng một cách khác thường ởcả
bốn nền kinh tếnày, bình quân khoảng 6% đến 7%/năm trong hai thập niên rưỡi. Đây là điều
thực sự đáng nể. Chính kỷlục tăng trưởng này, gắn liền với tăng trưởng nhanh vềxuất khẩu
hàng công nghiệp chếbiến, đã khiến cho nhiều nhà kinh tếhọc tin rằng tăng trưởng năng suất
tại các nền kinh tếnày chắc hẳn phải vô cùng cao, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp chế biến. Tuy nhiên, quan điểm này đã bỏqua một kỷlục không kém phần quan trọng vềtích
lũy nhân tốsản xuất.
35 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2070 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự chuyên chế của số liệu: đối diện với thống kê thực tế về kinh nghiệm tăng trưởng tại các nước Đông Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế phát triển Sự chuyên chế của số liệu:
Niên khoá 2006-2007 Bài đọc Đối diện với thống kê thực
tế về kinh nghiệm tăng trưởng
tại các nước Đông Á
Alwyn Young 1 Biên dịch: Nguyên Vũ/Kim Chi
Hiệu.Đính: Xuân Thành
SỰ CHUYÊN CHẾ CỦA SỐ LIỆU:
ĐỐI DIỆN VỚI THỐNG KÊ THỰC TẾ
VỀ KINH NGHIỆM TĂNG TRƯỞNG TẠI CÁC NƯỚC ĐÔNG Á*
Bài viết này cung cấp tư liệu về vai trò cơ bản của việc tích lũy nhân tố sản xuất khi giải thích sự
tăng trưởng phi thường thời hậu chiến của Hồng Kông, Singapore, Hàn quốc và Đài Loan. Tỷ lệ tham gia
lao động, trình độ giáo dục và tỷ lệ đầu tư (ngoại trừ trường hợp Hồng Kông) đã gia tăng nhanh chóng tại
bốn nền kinh tế này. Hơn nữa, trong hầu hết các trường hợp, đã xảy ra chuyển dịch lao động liên khu vực
vào ngành công nghiệp chế biến và việc chuyển dịch đó đã tiếp thêm động lực thúc đẩy trưởng khu vực
này. Một khi kể đến sự gia tăng ngoạn mục của các nhân tố sản xuất, người ta lại đi đến ước tính mức
tăng trưởng tổng năng suất nhân tố sản xuất; mức tăng trưởng ước tính này xấp xỉ gần bằng với thành quả
lịch sử của nhiều nước OECD và các nền kinh tế châu Mỹ La tinh. Trong khi tăng trưởng sản lượng và
xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến tại các nước mới công nghiệp hoá ở Đông Á là thực sự chưa từng có,
thì sự tăng trưởng tổng năng suất nhân tố của các nền kinh tế này là chuyện đã từng xảy ra.
I. GIỚI THIỆU
Đây là một bài viết dài dòng và tẻ nhạt, nhưng đó chính là chủ định. Tài liệu này
không đưa ra cách lý giải gì mới về kinh nghiệm của các nước Đông Á nhằm hấp dẫn nhà sử
học, chẳng suy ra ý nghĩa lý thuyết gì mới về các lực lượng đằng sau quá trình tăng trưởng
của Đông Á nhằm thúc dục nhà lý thuyết, và cũng không rút ra được ý nghĩa chính sách mới
nào từ sự can thiệp tinh tế của các chính phủ Đông Á nhằm gây háo hức cho các nhà hoạt
động chính sách. Thay vào đó, tài liệu này tập trung phân tích kỹ lưỡng về các mẫu hình lịch
sử của quá trình tăng trưởng sản lượng, tích lũy nhân tố sản xuất và tăng trưởng năng suất tại
các nước mới công nghiệp hoá (NIC) ở Đông Á, tức là Hồng Kông, Singapore, Hàn quốc và
Đài Loan.
Bảng I, bảng II và Hình I trình bày một vài thông tin cơ bản về tăng trưởng tại các
nước NIC, lấy từ các nguồn điều tra và tài khoản hạch toán quốc dân.1 Như trong bảng I,
tăng trưởng sản lượng theo đầu người bền vững và nhanh chóng một cách khác thường ở cả
bốn nền kinh tế này, bình quân khoảng 6% đến 7%/năm trong hai thập niên rưỡi. Đây là điều
thực sự đáng nể. Chính kỷ lục tăng trưởng này, gắn liền với tăng trưởng nhanh về xuất khẩu
hàng công nghiệp chế biến, đã khiến cho nhiều nhà kinh tế học tin rằng tăng trưởng năng suất
tại các nền kinh tế này chắc hẳn phải vô cùng cao, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp chế
* Tài liệu này đã được Hiệp ước Hợp tác MIT-KTU và Hội ái hữu NBER Olin tài trợ. Tôi mang ơn Christina
Paxson đã cung cấp dữ liệu về Đài Loan, Chan Wing-Kwong, Chao Bi-Tsyr, Ho Kun-Lon, Peter Kisler, John
Sharon và Woo Hyun-Sook đã giúp thu thập và nhập dữ liệu, và đặc biệt nhất, là Ho Veng-Si và Yang Shin-
Kyu đã trợ giúp nghiên cứu hết lòng. Cảm ơn chính phủ Hồng Kông, Singapore, Hàn quốc, và Đài Loan đã
cung cấp các dữ liệu không xuất bản và giải đáp thắc mắc.
1 Phần Phụ lục sẽ nêu chi tiết các nguồn tư liệu tham khảo. Toàn bộ các tỷ lệ tăng trưởng trong bản tài liệu
này được báo cáo dưới dạng logarit thay vì dạng số học. Lực lượng lao động ước tính cho Hàn Quốc và Đài
Loan không tính đến lực lượng quân đội đông đảo của họ (chủ yếu là nghĩa vụ quân sự); sản lượng tính được
của họ (dưới hình thức tiền lương) là tương đối nhỏ. Phần VI sẽ xác định độ nhạy cảm của các kết quả báo cáo
trong tập tài liệu này khi có kể đến hay không kể đến lực lượng nhân sự trong quân đội.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế phát triển Sự chuyên chế của số liệu:
Bài đọc Đối diện với thống kê thực
tế về kinh nghiệm tăng trưởng
tại các nước Đông Á
Alwyn Young 2 Biên dịch: Nguyên Vũ/Kim Chi
Hiệu.Đính: Xuân Thành
biến. Tuy nhiên, quan điểm này đã bỏ qua một kỷ lục không kém phần quan trọng về tích
lũy nhân tố sản xuất.
BẢNG I
TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG (PHẦN TRĂM)
Hồng Kông (1966-1991) Singapore (1966-1990)
Tử số Mẫu số Tử-mẫu Tử số Mẫu số Tử-mẫu
GDP theo đầu người 7,3 1,6 5,7 8,7 1,9 6,8
GDP theo công nhân 7,3 2,6 4,7 8,7 4,5 4,2
Không kể nông nghiệp NA 2,8 NA 8,8 4,6 4,2
Công nghiệp chế biến NA 1,3 NA 10,2 6,2 4,0
∆ mức tham gia lao động 0,38 → 0,49 0,27 → 0,51
Hàn quốc (1966-1990) Đài Loan (1966-1990)
Tử số Mẫu số Tử-mẫu Tử số Mẫu số Tử-mẫu
GDP theo đầu người 8,5 1,7 6,8 8,5 1,8 6,7
GDP theo công nhân 8,5 2,8 5,6 8,5 3,1 5,4
không kể nông nghiệp 10,3 5,4 4,9 9,4 4,6 4,8
công nghiệp chế biến 14,1 6,3 7,8 10,8 5,9 4,9
∆ mức tham gia lao động 0,27 → 0,36 0,28 → 0,37
N: tử số; D: mẫu số. NA: không có sẵn số liệu, chính phủ Hồng Kông chưa triển khai các ước lượng GDP theo
giá cố định theo khu vực. Tuy vậy, GDP được xác định theo giá thị trường, không tính thuế nhập khẩu. Các
cột có thể không cộng khớp do lấy số tròn.
BẢNG II
TRÌNH ĐỘ GIÁO DỤC CỦA DÂN SỐ THAM GIA LAO ĐỘNG (%)
Hồng Kông Singapore Hàn quốc Đài Loan
1966 1991 1966 1990 1966 1990 1966 1990
Không có gì 19,2 5,6 55,1 ⇓ 31,1 6,4 17,0 4,5
Tiểu học 53,6 22,9 28,2 33,7 42,4 18,5 57,2 28,0
Trung học 27,2 71,4 15,8 66,3 26,5 75,0 25,8 67,6
Tự học được kể như tiểu học. Các dữ liệu của Hồng Kông, Hàn Quốc và Đài Loan dựa với mức cao nhất vào
giáo dục “có theo học” hơn là hoàn tất. Tất cả các số liệu phần trăm được tính toán không kể các số liệu được
báo cáo là “không biết”.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế phát triển Sự chuyên chế của số liệu:
Bài đọc Đối diện với thống kê thực
tế về kinh nghiệm tăng trưởng
tại các nước Đông Á
Alwyn Young 3 Biên dịch: Nguyên Vũ/Kim Chi
Hiệu.Đính: Xuân Thành
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế phát triển Sự chuyên chế của số liệu:
Bài đọc Đối diện với thống kê thực
tế về kinh nghiệm tăng trưởng
tại các nước Đông Á
Alwyn Young 4 Biên dịch: Nguyên Vũ/Kim Chi
Hiệu.Đính: Xuân Thành
Theo bảng I, nhập lượng lao động là một yếu tố quan trọng của quá trình tích lũy nhân tố sản xuất. Tỷ lệ sinh
thời hậu chiến giảm nhanh (tỷ lệ dân số phụ thuộc thay đổi) và tỷ lệ nữ tham gia lao động tăng lên đã dẫn đến
gia tăng đáng kể tỷ lệ tham gia lao động chung tại các nước NIC.2 Khi chuyển sang đo lường sản lượng theo
lao động, tỷ lệ tham gia lao động gia tăng làm tốc độ tăng trưởng theo đầu người của Hồng Kông giảm đi bình
quân 1%/năm, Hàn Quốc - 1,2%, Đài Loan - 1,3%/năm và một mức kinh ngạc là 2,6%/năm (trong 24 năm!) từ
tốc độ tăng trưởng của Singapore. Chuyển dịch lao động liên khu vực cũng quan trọng. Như vậy, loại bỏ nông
nghiệp ra khỏi các phân tích làm giảm mức tăng trưởng sản lượng theo công nhân ở Đài Loan và Hàn quốc lần
lượt là 0,6% và 0,7% một năm; điều đó phản ánh tỷ phần của công việc nông nghiệp đang giảm nhanh trong
tổng công ăn việc làm tại cả hai nền kinh tế.3 Mặc dù sản lượng công nghiệp chế biến tăng nhanh một cách
khác thường trong các nền kinh tế này, nhưng việc làm cũng tăng nhanh như thế. Một khi xét đến chuyển dịch
lao động vào khu vực công nghiệp chế biến, ta ngạc nhiên thấy rằng, về vấn đề tăng trưởng năng suất lao động,
khu vực công nghiệp chế biến ở cả Singapore và Đài Loan thực sự có thành quả kém hơn nền toàn kinh tế.
Nhập lượng vốn tại các nước NIC cũng tăng nhanh chóng. Như trong hình I, cho dù
tỷ lệ đầu tư trên GDP ở Hồng Kông hầu như không đổi, nhưng tại các nước NIC khác, tỷ lệ
này gia tăng đáng kể theo thời gian. Ở Singapore, tỷ lệ đầu tư trên GDP theo giá cố định là
10% vào năm 1960 đã đạt đến 39% vào năm 1980 và mức phi thường 47% năm 1984, sau đó
sụt giảm đáng kể và chỉ bắt đầu tăng trở lại vào cuối thập niên 1980. Ở Hàn quốc, mức đầu
tư khoảng 5% (theo giá cố định) vào đầu thập niên 1950, bùng nổ lên đến 20% vào cuối thập
niên 1960, đạt tới 30% vào cuối thập niên 1970 và tiến gần đến 40% năm 1991. Cuối cùng,
tỷ lệ đầu tư trên GDP theo giá cố định ở Đài Loan vào khoảng 10% vào đầu thập niên 1950,
tăng đều đặn lên đến mức đỉnh 27% vào năm 1975, sau đó dao động quanh giá trị khoảng
22%.
Tích lũy vốn con người ở các nước NIC Đông Á cũng đã tăng khá nhanh. Như trong
bảng II nêu trên, trong hai thập niên rưỡi vừa qua ở các nền kinh tế này, tỷ lệ dân số lao động
có trình độ trung học hoặc cao hơn hầu như đã tăng gấp ba, hoặc thậm chí như trường hợp
Singapore, đã tăng gấp bốn lần. Đến 1990/91, khoảng 18% đến 20% dân số lao động tại mỗi
nước NIC có trình độ đại học.4 Khi tính trọng số cho nhập lượng lao động theo giới tính, tuổi
tác và trình độ học vấn (được thảo luận kỹ hơn dưới đây), tôi đã nhận thấy rằng trình độ giáo
dục của lực lượng lao động được nâng cao sẽ đóng góp mỗi năm khoảng 1% tăng trưởng bổ
sung vào nhập lượng lao động tại các nền kinh tế này.
Toàn bộ các ảnh hưởng nói trên - tăng tỷ lệ tham gia lao động, chuyển dịch lao động
liên khu vực, nâng cao trình độ giáo dục và mở rộng mức đầu tư – đã làm giảm đi thành quả
năng suất của các nước NIC ở Đông Á, kéo chúng từ đỉnh Olympus xuống đồng bằng
Thessally. Trong một viết liên quan[Young 1994], tôi đã sử dụng các phép tính đơn giản và
các dữ liệu quốc tế tổng quát để chứng minh rằng, về vấn đề tăng trưởng năng suất trong nền
2 Thay đổi về tỷ lệ tham gia lao động của nam theo độ tuổi là rất nhỏ tại cả bốn nền kinh tế, trong khi , với
ngoại lệ của Hồng Kông và Đài Loan (ở đó tỷ lệ này đã giảm từ từ), số giờ lao động phi nông nghiệp theo báo
cáo vẫn gần như không đổi. Điều đó cho thấy rằng việc tham gia lao động tăng lên là có thực, và các số liệu
thống kê cũng phù hợp với điều này.
3 Việc chuyển giao lao động liên khu vực lớn nhất là ở Đài Loan trong suốt thập niên 1970, khi sự chênh lệch
về tăng trưởng sản lượng theo công nhân là 2,1% (5,6% so với 3,5%) và ở Hàn Quốc trong thập niên 1980, khi
sự chênh lệch về tốc độ tăng trưởng là 1,7% (6,7% so với 5,0%).
4 Được định nghĩa là năm áp cuối ở đại học trở lên ở Hàn Quốc và Đài Loan, còn ở Hồng Kông và Singapore
thì đó là năm tuyển vào/ trình độ A trở lên.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế phát triển Sự chuyên chế của số liệu:
Bài đọc Đối diện với thống kê thực
tế về kinh nghiệm tăng trưởng
tại các nước Đông Á
Alwyn Young 5 Biên dịch: Nguyên Vũ/Kim Chi
Hiệu.Đính: Xuân Thành
kinh tế nói chung và trong công nghiệp chế biến nói riêng, các nước NIC không thể được
xem là những đột phá mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới thời hậu chiến. Bài viết này tập
trung phân tích kỹ lưỡng hơn về bốn nền kinh tế Đông Á, sử dụng các số liệu thống kê trong
tài khoản hạch toán quốc dân, điều tra dân số và các điều tra lao động, tiền lương và điều tra
ngành.
Phần còn lại của bài viết này được bố trí như sau: Phần II trình bày tóm tắt về
phương pháp luận. Phần III-VI phân tích lần lượt từng quốc gia về tăng trưởng tổng năng
suất nhân tố sản xuất tính chung và tính theo khu vực. Phần VII so sánh nghiên cứu này với
các công trình trước đây về tăng trưởng năng suất tại các nước NIC. Phần VIII tóm tắt và kết
luận. Phần Phụ lục mô tả các nguồn số liệu và một vài vấn đề gặp phải khi liên kết các chuỗi
số liệu khác nhau.
II. PHƯƠNG PHÁP LUẬN
A. Chỉ số tăng trưởng tổng năng suất nhân tố (TFP) chuyển đổi thành logarit
Hãy xem hàm sản xuất trị giá gia tăng chuyển đổi sang logarit như sau:5
(1) Q = exp [αo + αKlnK + αLlnL + αtt + 12 BKK(lnK)
2
+ BKL(lnK)(lnL) + BKtlnK ⋅ t
+ 1
2
BLL(lnL)2 + BLtlnL ⋅ t + 12 Bttt
2],
trong đó, K, L, và t là ký hiệu nhập lượng vốn, lao động và thời gian. Với giả định suất sinh
lợi không đổi theo quy mô, các thông số αi và Bjk thoả mãn điều kiện sau:
(2) αK + αL = 1, BKK + BKL = BLL + BKL = BKt + BLt = 0.
Tính sai phân logarit lần thứ nhất của hàm sản xuất, ta được một thước đo các nguồn gốc
tăng trưởng theo các khoảng thời gian rời rạc:
(3) ln ( )
( )
ln ( )
( )
Q T
Q T
K T
K TK−
⎛
⎝⎜
⎞
⎠⎟ = −
⎛
⎝⎜
⎞
⎠⎟1 1Θ + ,)1(
)(ln ,1 TTL TFPTL
TL
−+⎟⎟⎠
⎞
⎜⎜⎝
⎛
−Θ
trong đó
Θ Θ Θi i iT T= + −[ ( ) ( )] /1 2
với Θi là ký hiệu độ co giãn của sản lượng theo từng nhập lượng. Với giả định cạnh tranh
hoàn hảo, thì Θi là tỷ trọng của mỗi nhập lượng trong tổng thu nhập chi trả cho tất cả các
5 Đã được Christensen Jorgenson và Lau [1971,1973], Griliches và Ringstad [1971], và Sagan[1971] phát triển
một cách độc lập; và trong những năm gần đây được áp dụng trong nghiên cứu về năng suất bởi các tác giả như
Jorgenson, Gollop và Frumeni [1987].
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế phát triển Sự chuyên chế của số liệu:
Bài đọc Đối diện với thống kê thực
tế về kinh nghiệm tăng trưởng
tại các nước Đông Á
Alwyn Young 6 Biên dịch: Nguyên Vũ/Kim Chi
Hiệu.Đính: Xuân Thành
nhân tố sản xuất. Chỉ số tăng trưởng TFP chuyển đổi thành logarit cho ta một thước đo về
gia tăng sản lượng do kết quả của việc dịch chuyển hàm sản xuất theo thời gian. Về bản
chất, hàm sản xuất chuyển sang logarit cho ta một cơ sở lý thuyết để sử dụng tỷ trọng nhân tố
sản xuất bình quân và logarit của sai phân, từ đó áp dụng phân tích Divisia theo chuỗi thời
gian liên tục về tăng trưởng năng suất cho số liệu dựa trên các khoảng thời gian rời rạc.
Để xem xét các nhập lượng được chia nhỏ hơn nữa, ta có thể giả định rằng tổng nhập
lượng lao động và vốn lần lượt là các chỉ số chuyển đổi sang log của các tiểu nhập lượng có
suất sinh lợi không đổi theo quy mô:6
(4) K = exp [αK1 lnK1 + αK2 lnK2 + . . . + aKn lnKn
+ 1
2
BK11 (lnK1)2 + BK12 (lnK1)(lnK2) + . . . +
1
2
BKnm (lnKn)2],
L = exp [αL1 lnL1 + αL2 lnL2 + . . . + aLm lnLm
+ 1
2
BL11 (lnL1)2 + BL12 (lnL1)(lnL2) + . . . +
1
2
BLmm (lnLm)2],
Tính sai phân logarit lần thứ nhất của các chỉ số chuyển đổi sang log này cho ta một số thước
mức tăng trưởng tổng nhập lượng vốn và lao động theo bình quân có trọng số của mức tăng
trưởng các tiểu nhập lượng của chúng:
(5)
ln ( )
( )
ln
( )
( )
ln ( )
( )
ln
( )
( )
,
K T
K T
K T
K T
L T
L T
L T
L T
K
i
ii
L
j
j
i
j
−
⎛
⎝⎜
⎞
⎠⎟ = −
⎛
⎝⎜
⎞
⎠⎟
−
⎛
⎝⎜
⎞
⎠⎟ = −
⎛
⎝⎜⎜
⎞
⎠⎟⎟
∑
∑
1 1
1 1
θ
θ
trong đó:
θ θ θi i iT T= + −[ ( ) ( )] /1 2
với θi là ký hiệu độ co giãn của mỗi tổng nhập lượng theo các tiểu nhập lượng của nó. Cũng
với giả định cạnh tranh hoàn hảo, thì θi là tỷ phần của mỗi tiểu nhập lượng này trong tổng thu
nhập chi trả cho toàn bộ các nhân tố sản xuất. Tương tự với phân tích Divisia có thời gian
liên tục, các chỉ số này điều chỉnh để cải thiện “chất lượng” của tổng nhập lượng vốn và lao
động bằng cách, đối với phép tính xấp xỉ bậc 1, đặt trọng số cho mức tăng trưởng của mỗi
tiểu nhập lượng theo sản lượng biên tế trung bình.
Đại lượng thích hợp để đo nhập lượng vốn và lao động là dòng dịch vụ hình thành từ
các nhập lượng này. Đối với lao động, người ta có thể giả định một cách hợp lý rằng dòng
dịch vụ tỷ lệ với tổng số giờ lao động; tức là Lj(T) = λLj Hj(T), với
6 Với các ràng buộc tương tự cho các giá trị của thông số.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế phát triển Sự chuyên chế của số liệu:
Bài đọc Đối diện với thống kê thực
tế về kinh nghiệm tăng trưởng
tại các nước Đông Á
Alwyn Young 7 Biên dịch: Nguyên Vũ/Kim Chi
Hiệu.Đính: Xuân Thành
(6) ln ( )
( )
ln
( )
( )
.L T
L T
H T
H TL
j
j
j−
⎛
⎝⎜
⎞
⎠⎟ = −
⎛
⎝⎜⎜
⎞
⎠⎟⎟∑1 1θ
Bởi vì hiếm có số liệu về việc sử dụng vốn, nên thông thường người ta giả định rằng dòng
dịch vụ vốn tỷ lệ với trữ lượng vốn (ký hiệu là Ci(T), với Ki(T) = λKi Ci(T) và
(7) ln ( )
( )
ln
( )
( )
.K T
K T
C T
C TK
i
i
i−
⎛
⎝⎜
⎞
⎠⎟ = −
⎛
⎝⎜
⎞
⎠⎟∑1 1θ
Trước khi tiếp tục, cũng cần xem liệu những sai lệch so với các giả định hạn chế của mô hình
phác thảo như trên có gây ra thiên lệch làm giảm ước lượng tăng trưởng tổng năng suất nhân
tố hay không, và do vậy mà tạo ra các giá trị ước lượng thấp trong bài viết này. Với hàm sản
xuất có suất sinh lợi không đổi theo quy mô, thiếu cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn đến tính toán
sai lạc về độ co giãn của sản lượng theo từng nhập lượng, khi tỷ phần các nhân tố sản xuất
không còn phản ánh độ co giãn của sản lượng nữa. Nói một cách cụ thể, khi lợi nhuận độc
quyền được thể hiện qua thu nhập từ vốn, tỷ phần thu nhập của vốn sẽ có xu hướng phóng
đại độ co giãn của sản lượng theo vốn. Độc giả có thể dễ dàng điều chỉnh lại yếu tố này bằng
cách điều chỉnh tổng tỷ phần của vốn và lao động trong bảng trình bày dưới đây. Tuy nhiên,
tích lũy vốn vật chất chỉ là một phần nhỏ trong câu chuyện của các nước NIC. Nhân tố này
cùng với tỷ lệ tham gia lao động, trình độ giáo dục tăng lên và chuyển dịch lao động liên khu
vực, toàn bộ đều đóng vai trò quan trọng như nhau.7 Do vậy, với các ràng buộc hợp lý, những
điều chỉnh theo chiều hướng này không thể dẫn đến những ước lượng năng suất ngoạn mục
đối với các nước NIC.8
Từ bỏ giả định về suất sinh lợi không đổi theo quy mô có thể làm tăng hoặc làm giảm
các ước lượng về năng suất. Nếu hàm sản xuất tổng hợp đúng là có đặc tính về suất sinh lợi
tăng dần theo quy mô, mà có lẽ là do ngoại tác giữa các nhân tố sản xuất, thì phần dư của
tăng trưởng ước lượng sẽ phóng đại mức tăng năng suất thực tế, bởi vì nó tính tới cả sự gia
tăng của ngoại tác sản xuất do gia tăng các nhân tố sản xuất mang lại. Ngược lại, nếu sản
xuất thực sự có đặc tính về suất sinh lợi giảm dần theo quy mô, thì phần dư của tăng trưởng
ước lượng lại làm giảm mức tăng trưởng năng suất.
Sau cùng, cần phải nêu lên ở đây một ngộ nhận phổ biến liên quan đến các điều chỉnh
tính toán tăng trưởng đối với “chất lượng” của nhập lượng vốn và lao động; tức là, các điều
chỉnh này ngầm phối hợp mọi biểu hiện của thay đổi công nghệ vào những nhập lượng đó.
7 Bảng XV tóm tắt đóng góp định lượng của mỗi nhân tố theo chiều hướng làm giảm giá trị ước
lượng tăng trưởng năng suất.
8 Ngoại trừ Singapore, tỷ trọng lao động của các nước NIC vào khoảng hai phần ba, tức là phù hợp
với tiêu chuẩn về độ co giãn của sản lượng theo lao động. Tuy nhiên, tỷ trọng của Singapore thấp
hơn rõ rệt. Ví dụ, tăng tỷ phần của Singapore đến mức như của Hồng Kông sẽ làm tăng giá trị ước
lượng mức tăng trưởng tổng năng suất nhân tố bình quân từ 0,2% đến 0,8%/năm. Điều này đáng nể
hơn, nhưng không có gì là xuất sắc. Về điểm này, tôi lưu ý rằng, để làm thiên lệch các ước tính của
mình đối với Singapore tôi sử dụng tỷ phần thu nhập lao động trong các bảng nhập lượng-xuất lượng
của Singapore; tỷ phần này lớn hơn nhiều so với tỷ phần theo các dữ liệu không công bố về thu nhập
lao động do Chính phủ Singapore cung cấp cho tôi.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế phát triển Sự chuyên chế của số liệu:
Bài đọc Đối diện với thống kê thực
tế về kinh nghiệm tăng trưởng
tại các nước Đông Á
Alwyn Young 8 Biên dịch: Nguyên Vũ/Kim Chi
Hiệu.Đính: Xuân Thành
Về cơ bản, quy trình tính toán tăng trưởng giả định rằng nhập lượng i hôm nay cũng giống
như hôm qua; tức là, một nữ công nhân 25 tuổi có trình độ phổ thông trung học ngày hôm
nay cũng tương tự như một nữ công nhân 25 tuổi trình độ trung học ngày hôm qua. Nếu làm
thế, quy trình này sẽ đưa mọi gia tăng năng suất của nhập lượng đó (dù có biểu hiện hay
không) vào trong phần dư. Việc đặt trọng số của nhập lượng vốn và lao động trong phương
trình (5) chẳng qua chỉ là việc triển khai phân tích mô hình hai nhân tố tiêu chuẩn (vốn/lao
động), trong đó mỗi nhân tố được đặt trọng số bằng tỷ phần thu nhập của nó. Từ đó, ta có
một mô hình với nhiều nhập lượng hơn; để phân tích thuận tiện, mô hình này được phân tách
thành các danh sách nhập lượng “vốn” (gồm nhiều tiểu nhân tố vốn) và “lao động” (gồm
nhiều tiểu nhân tố lao động).9
B. Đo lường mức cung nhân tố sản xuất
Phân tích của tôi tập trung vào hai nhập lượng tổng hợp, vốn và lao động, được chia