Tóm tắt
Một trong những đặc điểm của tiểu thuyết lịch sử nhìn từ phương pháp sáng tác là sự kết hợp giữa
tính chân thực khách quan của lịch sử với khả năng hư cấu, tưởng tượng để mỗi câu chuyện, nhân vật
hiện lên trong tác phẩm như một chỉnh thể nghệ thuật sống động, không chỉ là hình ảnh thuộc về quá
khứ mà còn là “tấm gương” phản chiếu những vấn đề hiện tồn của con người và đời sống xã hội.
Là một anh hùng dân tộc, sự nghiệp chính trị gắn liền với triều đại Tây Sơn và giai đoạn bão táp
của lịch sử những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, Quang Trung - Nguyễn Huệ trở thành nhân vật
trong một số tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ trung đại đến hiện đại, trong đó đáng kể nhất là hai tác
phẩm: Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác và Gió lửa của Nam Dao. Phân tích mối tương quan
giữa yếu tố thuộc về “sự thật lịch sử” và tưởng tượng, hư cấu trong cách nhìn, cách miêu tả về nhân vật
này, bài viết khẳng định sự vận động tư duy tiểu thuyết lịch sử cũng như sự đa dạng của phong cách cá
nhân trong sáng tác văn học Việt Nam sau 1975.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 212 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự thật và hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử nhìn từ hình tượng nhân vật hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ trong hai tác phẩm: Sông côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác) và Gió Lửa (Nam Dao), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
73Số 30 (Tháng 12 - 2019)
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
SỰ THẬT VÀ HƯ CẤU TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ
NHÌN TỪ HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG
- NGUYỄN HUỆ TRONG HAI TÁC PHẨM: SÔNG CÔN MÙA LŨ
(NGUYỄN MỘNG GIÁC) VÀ GIÓ LỬA (NAM DAO)
ĐỖ THỊ THU THỦY
Tóm tắt
Một trong những đặc điểm của tiểu thuyết lịch sử nhìn từ phương pháp sáng tác là sự kết hợp giữa
tính chân thực khách quan của lịch sử với khả năng hư cấu, tưởng tượng để mỗi câu chuyện, nhân vật
hiện lên trong tác phẩm như một chỉnh thể nghệ thuật sống động, không chỉ là hình ảnh thuộc về quá
khứ mà còn là “tấm gương” phản chiếu những vấn đề hiện tồn của con người và đời sống xã hội.
Là một anh hùng dân tộc, sự nghiệp chính trị gắn liền với triều đại Tây Sơn và giai đoạn bão táp
của lịch sử những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, Quang Trung - Nguyễn Huệ trở thành nhân vật
trong một số tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ trung đại đến hiện đại, trong đó đáng kể nhất là hai tác
phẩm: Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác và Gió lửa của Nam Dao. Phân tích mối tương quan
giữa yếu tố thuộc về “sự thật lịch sử” và tưởng tượng, hư cấu trong cách nhìn, cách miêu tả về nhân vật
này, bài viết khẳng định sự vận động tư duy tiểu thuyết lịch sử cũng như sự đa dạng của phong cách cá
nhân trong sáng tác văn học Việt Nam sau 1975.
Từ khóa: Sự thật, hư cấu, tiểu thuyết lịch sử, Quang Trung - Nguyễn Huệ, Sông Côn mùa lũ, Gió lửa
Abstract
One of the characteristics of historical fiction seen from the creation method is the combination of
the objective truthfulness of history and the possibility of fiction and imagination so that each story
and character appears in the work as a perfect whole of living art , not only an image of the past but
also a “mirror” reflecting existing problems of human and social activities.
As a national hero, the political career associated with the Tay Son dynasty and the stormy period of
the history of the late eighteenth and early nineteenth centuries, Quang Trung - Nguyen Hue became a
character in several Vietnamese historical novels from the medieval to the modern, the most significant
of which are two works: Con River in flood season by Nguyen Mong Giac and Fire Wind of Nam Dao.
Analyzing the correlation between the element of “historical truth” and imagination, fiction in the view,
the way of description of this character, the article affirms the movement of historical novel thinking as
well as the diversity of individual styles in Vietnamese literary creation after 1975.
Keywords: Truth, fiction, historical fiction, Quang Trung - Nguyen Hue, Con river in flood season
(Sông Côn mùa lũ), Fire Wind (Gió Lửa)
1. Sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong
tiểu thuyết lịch sử Việt Nam qua các giai
đoạn, thời kỳ
1.1. “Tiểu thuyết lịch sử là thuật ngữ chỉ
một loại hình tiểu thuyết hoặc tác phẩm tự sự
hư cấu lấy đề tài lịch sử làm nội dung chính”
[11, tr.1725]. Đảm bảo tính chân thật, khách
quan của lịch sử, vì thế, trở thành nguyên tắc
“ràng buộc” đối với nhà văn. Điều này cũng
đồng nghĩa với việc: nhà văn không thể viết
tiểu thuyết lịch sử nếu thiếu những nghiên
cứu công phu, những hiểu biết sâu sắc về nhân
Số 30 (Tháng 12 - 2019)74
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
vật, giai đoạn mà mình quan tâm. Tuy nhiên,
là một loại của tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử
cũng mang đặc trưng riêng của tác phẩm văn
học được khu biệt bởi tính chất hư cấu, tưởng
tượng. Đặc tính này không chỉ xác lập ranh giới
giữa tiểu thuyết lịch sử và sử ký mà còn cho
thấy sự rộng mở, phong phú trong những tìm
kiếm, khái quát về con người, đời sống do biên
độ của hư cấu, tưởng tượng nghệ thuật mang
lại. Một là, khả năng tái hiện nhân vật trong
sự toàn vẹn, có tính cách, số phận riêng trong
tương quan với các nhân vật, các mối quan
hệ khác mà sử liệu ít hoặc không đề cập tới.
Chính vì vậy, hư cấu thường gắn liền với chủ
ý nhà văn: đem đến một cách diễn giải/diễn
ngôn khác về lịch sử, nhiều khi xa lạ với mặc
định truyền thống. Nhà văn Nam Dao gọi đó
là cách “truy lùng sự sống tàng ẩn trong lịch
sử”, khiến lịch sử có một diện mạo, chỉnh thể
đủ đầy, bao gồm cả vấn đề “nhân quần xã hội
và thân phận con người”. Hai là, khai thác câu
chuyện lịch sử cũng là một cách để tư duy về
những vấn đề của hiện tại, của “thời ta sống”
chứ không phải chỉ là chuyện đã qua. Ở đây,
nhân vật và sự kiện lịch sử chỉ là cái cớ, là lựa
chọn nghệ thuật. Bằng khả năng tưởng tượng,
óc phán đoán, trải nghiệm cá nhân, nhà văn
cảm nhận từ quá khứ những vấn đề hiện tồn
của con người và xã hội. Trong trường hợp này
tác giả không câu nệ bất cứ điều gì, kể cả đôi
khi “cưỡng bức lịch sử” để thai nghén ra tiểu
thuyết.
1.2. Nhìn trong tiến trình văn học Việt Nam,
những tác phẩm tự sự lịch sử xuất hiện đầu
tiên dưới hình thức sử ký, phản ánh tính chất
văn - sử bất phân trong tư duy nghệ thuật
trung đại như: Đại Việt sử ký (Lê Văn Hưu, thế kỷ
XIV), Đại Việt sử ký toàn thư (Ngô Sĩ Liên, thế kỷ
XV), các bộ cương mục, thực lục, ở các thế kỷ
sau. Tuy quy mô, thể thức có ít nhiều khác biệt
song về căn bản dạng tác phẩm này đều tuân
thủ nguyên tắc của sử ký: ghi chép lại sự kiện,
câu chuyện “người thật, việc thật” của quá khứ
theo lối biên niên. Đến thế kỷ XVIII bắt đầu
xuất hiện một số tiểu thuyết lịch sử chương
hồi chữ Hán như: Nam triều công nghiệp diễn
chí (1719, Nguyễn Khoa Chiêm), Hoàng Việt
long hưng chí (1899, Ngô Giáp Đậu), điển hình
hơn cả là Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia
văn phái. Tuy vẫn còn ảnh hưởng bút pháp
sử ký song tiểu thuyết chương hồi đánh dấu
bước phát triển trong tư duy nghệ thuật thể
loại xét ở nhiều phương diện: tổ chức kết cấu,
xây dựng nhân vật, giọng điệu Tuy nhiên,
phải sang đầu thế kỷ XX, cùng với tác động của
bối cảnh lịch sử và công cuộc hiện đại hóa văn
học, tiểu thuyết lịch sử mới nở rộ và phát triển
thành dòng riêng với đặc trưng khu biệt về
loại thể. Ngoài một số tác phẩm viết theo lối cũ
(chữ Hán, kết cấu chương hồi) ảnh hưởng văn
học Trung Hoa như Trùng Quang tâm sử (Phan
Bội Châu), đáng chú ý là sự xuất hiện loạt tiểu
thuyết văn xuôi quốc ngữ ảnh hưởng lối viết
phương Tây như: Giọt máu chung tình, Gia
Long phục quốc (Tân Dân Tử); Tiếng Sấm đêm
đông, Trần Nguyên chiến kỷ, Việt Thanh chiến sử
(Nguyễn Tử Siêu); Vua Hàm Nghi, Hồi chuông
Thiên Mụ (Phan Trần Chúc); Chiếc ngai vàng,
Đỉnh non thần, Trong cơn binh lửa (Lan Khai); Bà
chúa Chè, Loạn kiêu binh (Nguyễn Triệu Luật);
Tiêu Sơn tráng sĩ (Khái Hưng); Lê Thái Tổ, Thoát
cung vua Mạc, bà quận Mỹ (Chu Thiên); Vũ Như
Tô, Đêm hội Long Trì, An Tư công chúa (Nguyễn
Huy Tưởng) [11, tr.1728]... Ở những sáng tác
này, việc lựa chọn và khai thác đề tài lịch sử ít
nhiều có sự phân hóa theo các xu hướng, trào
lưu văn học đương thời nên trong nhiều tác
phẩm chất tiểu thuyết nổi trội hơn yếu tố lịch
sử.
Bối cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam từ 1945 về
sau với nhiều biến động mang tính bước ngoặt
gắn liền với vận mệnh dân tộc là tiền đề để
tiểu thuyết lịch sử tiếp tục phát triển và có sự
vận động trong tư duy nghệ thuật ở từng giai
đoạn, thời kỳ. Các sáng tác từ 1945 - 1975 như:
Bóng nước Hồ Gươm (Chu Thiên), Người Thăng
75Số 30 (Tháng 12 - 2019)
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Long (Hà Ân), Núi rừng Yên Thế (Nguyên Hồng),
Cờ nghĩa Ba Đình (Thái Vũ), thường mang
cảm hứng ngợi ca, tự hào về truyền thống
yêu nước, tinh thần quật khởi chống xâm lược
của cha ông qua việc xây dựng hình tượng
những anh hùng dân tộc xả thân vì nghĩa lớn.
Đây cũng là cảm thức chung của văn học giai
đoạn này gắn với mục tiêu “phục vụ chính trị,
cổ vũ chiến đấu”. Vì vậy, tác giả luôn coi trọng
tư liệu và tính chân thật lịch sử, xem đây là yếu
tố quan trọng hàng đầu. Các chi tiết hư cấu
nếu có, cũng chỉ là sự “thêm thắt”, bổ trợ góp
phần tạo dựng không khí sử thi lãng mạn cho
các câu chuyện, nhân vật. Từ 1975 đến nay,
đặc biệt là sáng tác sau 1986 của các tác giả:
Hoàng Quốc Hải (Tám triều vua Lý, Bão táp triều
Trần), Võ Thị Hảo (Giàn thiêu), Nguyễn Xuân
Khánh (Hồ Quý Ly), Nguyễn Quang Thân (Hội
thề), Nguyễn Mộng Giác (Sông Côn mùa lũ),
Nam Dao (Đất trời, Gió lửa, Bể dâu), Nguyễn Thế
Quang (Nguyễn Du, Khúc hát những dòng sông,
Thông reo ngàn Hống), Ngô Văn Phú (Cờ lau
dựng nước, Tuyên phi Đặng Thị Huệ), Vũ Ngọc
Tiến (Quỷ vương, Kẻ sĩ thời loạn), Bùi Việt Sỹ
(Chim ưng và chàng đan sọt), Phùng Văn Khai
(Phùng vương, Ngô Vương), Lưu Sơn Minh (Trần
Khánh Dư, Trần Quốc Toản), Uông Triều (Sương
mù tháng Giêng), Trần Thanh Cảnh (Đức thánh
Trần), Trần Thùy Mai (Từ Dụ thái hậu), lịch sử
được sống lại theo một cách khác thông qua
sự hư cấu và mang đậm dấu ấn cá nhân, cá
tính của nhà văn. “Ngoài dòng chính sử, còn có
phần lịch sử hình thành qua khả năng tưởng
tượng, óc phán đoán, và sự cảm nhận từ quá
khứ những vấn đề của con người và xã hội hiện
vẫn còn tồn tại. Ở đây, biến cố lịch sử trở thành
đối tượng đem soi dưới lăng kính chủ quan,
nhào nặn lại để rồi, qua ngòi bút người viết,
thành tiểu thuyết Lịch sử đó là lịch sử sống”
[3, tr.9]. Sự xuất hiện của một đội ngũ tác giả
đông đảo, nhiều thế hệ, trong đó có cả những
người viết trẻ: Trường An (Thiên hạ chi vương,
Vũ tịch, Hồ Dương), Phạm Thúy Quỳnh (Trăng
trong cõi) và những cây bút không chuyên:
Thâm Giang Trần Gia Ninh (Kim thiếp vũ môn),
Đan Thành (Đất Việt trời Nam), khiến việc
phản ánh và “xử lý” những vấn đề của lịch sử
trở nên đa dạng hơn bao giờ hết. Đó là chưa
kể khá nhiều truyện ngắn của những cây bút
giàu kinh nghiệm nghệ thuật như Nguyễn Huy
Thiệp (Phẩm tiết, Vàng lửa, Kiếm sắc), Sương
Nguyệt Minh (Dị hương), Trần Vũ (Mùa mưa
gai sắc, Gia phả) Các tác giả huy động nhiều
nguồn tư liệu từ chính sử tới dã sử, từ truyền
thuyết tới nghiên cứu, khảo sát thực tế, rồi
bằng hư cấu, tưởng tượng phục dựng lại quá
khứ trong hình thế đủ đầy, toàn vẹn hoặc thiết
kế, tân tạo lại lịch sử theo cách nhìn nhận riêng
của mình để đối thoại, phản biện, hiểu sâu sắc
hơn các vấn đề cũng như nhìn nhận chân xác
bản thân và cuộc sống. Trong xu hướng đổi
mới của toàn bộ nền văn học sau 1975, biên độ
của hư cấu, tưởng tượng trong những sáng tác
về đề tài lịch sử cũng được nới rộng tới mức tối
đa. Lịch sử trong tiểu thuyết đôi khi là một “tùy
tiện ý thức” với những ứng xử táo bạo thách
thức tư duy nghệ thuật truyền thống, song
nhờ thế, lại mang một dáng vẻ sống động,
gần gũi, đặt ra và lý giải nhiều vấn đề hiện tồn
mang tính phổ quát của con người và đời sống
đương đại.
2. Nhân vật Quang Trung - Nguyễn Huệ:
ràng buộc lịch sử và biên độ của tưởng tượng
2.1. Xét về bản chất, hư cấu là nguyên
tắc của sáng tạo nghệ thuật. Tuy nhiên, khác
với tác phẩm văn học thông thường, hư cấu
trong tiểu thuyết lịch sử luôn chịu sự “ràng
buộc” nhất định liên quan tới nguồn sử liệu
hoặc truyền thuyết như một ký ức mặc định
của cộng đồng, đặc biệt với các nhân vật anh
hùng dân tộc: Phùng Hưng, Ngô Quyền, Trần
Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ
Tuy nhiên, nét khác thường từ con người, cuộc
đời, tính cách, số phận của các nhân vật này
cũng là một “hấp lực” với nhà văn bởi khả năng
“tiểu thuyết hóa”. Điển hình cho những sáng
Số 30 (Tháng 12 - 2019)76
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
tạo này là các tiểu thuyết về Quang Trung -
Nguyễn Huệ và cuộc khởi nghĩa Tây Sơn trong
bối cảnh diễn ra nhiều biến động dồn dập,
bão táp của lịch sử dân tộc những năm cuối
thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. “So với các nhân
vật anh hùng trong lịch sử Việt Nam, có lẽ ít
ai mà cuộc đời và sự nghiệp nhiều chất “hư
cấu” như Nguyễn Huệ: “những biến cố xảy ra
trong vòng mấy chục năm dính dáng tới ông
đều đầy kịch tính, tương đối dễ cho ngòi bút
trong việc tưởng tượng sáng tạo. Chúng, tự
bản thân đã nhuốm vẻ tiểu thuyết” [8]. Có thể
thấy sự “quyến rũ” nghệ thuật của nguyên mẫu
lịch sử này ngay từ sáng tác đương thời như
Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái)
cho tới sau này với những khám phá ngày
càng mới lạ, sống động trong các sáng tác của
Nguyễn Huy Thiệp (Phẩm tiết), Lê Đình Danh
(Tây Sơn bi hùng truyện), Trần Vũ (Mùa mưa gai
sắc), đặc biệt là hai tiểu thuyết: Sông Côn mùa
lũ (Nguyễn Mộng Giác) và Gió lửa (Nam Dao).
Ngoài sự bề thế của thể loại tiểu thuyết so với
các truyện ngắn về cùng đề tài, điểm đáng lưu
ý ở hai tác phẩm này chính là bởi mối quan
tâm và cách tác giả của chúng tư duy về lịch sử,
nhờ thế không chỉ đem đến chân dung nhân
vật độc đáo, khác biệt ở từng tác phẩm mà còn
qua đó gửi đi những thông điệp về con người,
đời sống và sáng tạo nghệ thuật, góp phần
vào vận động cũng như thành tựu của nền văn
xuôi Việt Nam giai đoạn sau 1975.
2.2. Viết Sông Côn mùa lũ trong những năm
tháng gian nan nhất của cuộc đời mình (1978
- 1981), cùng với kinh nghiệm sáng tạo phong
phú trước đó, Nguyễn Mộng Giác từng chia
sẻ quan điểm của ông về cuốn tiểu thuyết và
nhân vật mình theo đuổi: “Tôi nghĩ một cuốn
tiểu thuyết lịch sử đúng nghĩa luôn luôn phải
là một cuốn lịch sử thế sự. Bản chất của tiểu
thuyết là thế sự. Tiểu thuyết lịch sử mà thiếu
thế sự, thì hoặc là một thứ sử thi giả dùng
làm tài liệu tuyên truyền, hoặc chỉ là một mớ
tài liệu sử vô giá trị... Thế sự là da thịt của tiểu
thuyết lịch sử, cũng như lịch sử là xương cốt
của tiểu thuyết lịch sử” [4, Tập 3, tr.606-607]. Với
quan điểm và chủ đích rõ ràng như vậy, Sông
Côn mùa lũ đã tái hiện một giai đoạn đầy biến
động, bão táp của lịch sử dân tộc những năm
cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX qua vương
nghiệp đầy thăng trầm của ba anh em đất
Tây Sơn và những sóng gió, ly hợp trong gia
đình ông giáo Hiến - thày dạy của hai anh em
Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ, cũng từng là quân
sư cho Nguyễn Nhạc ở những ngày đầu khởi
dựng sự nghiệp. Biến cố thời cuộc đan xen với
bi kịch cá nhân mà trung tâm là mối tình đau
khổ, tuyệt vọng giữa An - con gái ông giáo
Hiến và Nguyễn Huệ - người học trò xuất sắc,
cũng là tâm giao tri kỷ của ông. Trên nền bức
tranh lịch sử ấy, hình ảnh người anh hùng đất
Tây Sơn đã được tác giả tái hiện một cách toàn
vẹn: vừa là nhân vật lịch sử, vừa là con người thế
sự. Hơn thế, yếu tố lịch sử và yếu tố thế sự hòa
quyện vào nhau tạo nên sự “thống nhất trong
đa dạng” giữa tài năng xuất chúng và những
giới hạn, sự dũng mãnh và yếu đuối, danh
vọng quyền lực và nỗi cô độc, lý tưởng cao cả
và khát vọng đời thường
Là người anh hùng mang tầm vóc lịch sử,
Nguyễn Huệ trong Sông Côn mùa lũ không chỉ
là một dũng tướng tài ba - linh hồn của khởi
nghĩa Tây Sơn với kỳ tích chiến trận lẫy lừng
khắp trong Nam ngoài Bắc: đánh bại thế lực
chúa Trịnh ở Bắc Hà, tàn quân chúa Nguyễn ở
Nam Hà, chiến thắng hai đạo quân xâm lược
hùng mạnh ở phía Nam lẫn phía Bắc, mà còn
là một nhà chính trị “thông tuệ” khác thường,
có tư chất thông minh sắc sảo, khả năng quan
sát nhận định thực tế, lòng tự tin và khát vọng
mãnh liệt “giong cương cho lịch sử đưa xa về
phía trước”. Con người mà ngay từ thời trai trẻ
đã toát lên vẻ “điềm tĩnh và cao ngạo” ấy cũng
không phải chỉ là biểu tượng cho sức mạnh,
khát vọng của tầng lớp “chân đất áo vải” vì
những truy bức và lẽ sinh tồn nên phải phất
cờ khởi nghĩa mà còn là mẫu nhân vật văn hóa
77Số 30 (Tháng 12 - 2019)
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
hội tụ đặc điểm văn hóa Việt Nam, vừa gần gũi
bình dị vừa hấp dẫn cao siêu. “Thành công lớn
của Nguyễn Mộng Giác là đã trình bày thuyết
phục và nhuần nhuyễn sức hấp dẫn văn hóa
của người anh hùng nông dân Nguyễn Huệ,
thách thức những định kiến lịch sử” [10]. Cốt
cách văn hóa và bản chất trí thức của con
người này đã hiển lộ ngay từ khi còn là cậu
học trò ở đất An Thái, từ ánh mắt sáng mừng
rỡ, cách lắng nghe trân trọng, niềm hân hoan
say mê trong từng buổi học. Chàng thanh niên
Nguyễn Huệ ngay từ ngày đó, cũng đã chứng
tỏ nội lực văn hóa mạnh mẽ và riêng khác của
mình trong “khoái cảm phạm thượng”, không
ngại ngần chất vấn, phủ nhận những giáo điều
sách vở đã trở nên cổ hủ, lỗi thời trước chuyển
biến mới mẻ và dữ dội của lịch sử. Sau này,
trên bước đường tạo dựng sự nghiệp chính
trị, ở mỗi giai đoạn, mỗi biến cố, chất văn hóa
ấy luôn lan tỏa và “can dự” vào ứng xử, hành
động, lựa chọn của ông, mà tinh thần chung
là sự dung hòa, cộng sinh giữa tri thức sách vở
và tính năng động thực tiễn, coi trọng giá trị
truyền thống và sự hào hứng trước cái mới lạ,
ý thức tuân thủ trật tự và sự dũng cảm phá bỏ,
thay thế Đặt trong tương quan với các nhân
vật trí thức Nho sĩ đương thời như Nguyễn
Thiếp, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Trần Văn
Kỷ, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ không
có được sự uyên bác, thâm sâu của chữ nghĩa,
học vấn nhưng lại là người có tầm nhìn xa
trông rộng, bén nhạy với những chuyển biến
thời cuộc. Trước những khúc quanh và ngã rẽ
phức tạp của lịch sử, ông cũng như nhiều trí
thức đương thời đều phải đứng trước những
lựa chọn, đôi khi không tránh khỏi sự tranh
đấu, giằng xé. Tuy nhiên, trong lúc nhiều nhà
Nho cựu thần Lê Trịnh còn đang “bồn chồn, tư
lự” giữa trùng vi của những giáo điều thi thư,
của nỗi băn khoăn giữa “chính thống” và “ngụy
triều”, “xuất” hay “xử”, ở lại Bắc phò Lê hay vào
Nam theo Nguyễn Ánh, thì Nguyễn Huệ đã
dũng cảm táo bạo gánh vác trách nhiệm điều
khiển cỗ xe của lịch sử thẳng tiến về phía trước,
“làm lay đổ đến tận gốc những nền móng cố
cựu, dựng nên một trật tự mới” [4, Tập 3, tr.484].
Sự trẻ trung quyết đoán, tính năng động thực
tiễn, tinh thần dân chủ và khát vọng cải cách
xã hội, đã tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ
của con người chính trị - con người văn hóa
Nguyễn Huệ, khiến ông từ một kẻ “áo vải chân
đất” sinh trưởng nơi “xó núi” có thể thu phục
những trí thức Bắc Hà ở tầm cao của trí tuệ,
làm chủ một dải giang sơn rộng lớn và giàu
truyền thống văn hiến từ Thuận Hóa tới Thăng
Long. Từ cảm quan lịch sử, tác giả đã khắc họa
hình tượng Quang Trung - Nguyễn Huệ như là
sự hội tụ của hình mẫu lý tưởng nhà chính trị
- nhà văn hóa mang đặc tính dân tộc và thời
đại với một thiện cảm không giấu giếm. Ở
một khía cạnh khác, trải nghiệm đời sống và
kinh nghiệm nghệ thuật cũng đã giúp Nguyễn
Mộng Giác không bị trượt theo xu hướng sử
thi lãng mạn trước hào quang tỏa rạng của
người anh hùng đã trở thành niềm tự hào, kiêu
hãnh của người dân Bình Định quê hương
ông. Bằng cảm quan thế sự, Nguyễn Mộng
Giác cũng đồng thời đem đến một tìm kiếm
khác không kém phần thú vị về Quang Trung
- Nguyễn Huệ trong những bình dị đời thường,
với đủ “thất tình lục dục”, hờn giận yêu ghét
như biết bao con người bình thường khác. Đó
là một Nguyễn Huệ suốt đời yếu đuối, thất bại
trong mối tình đầu đời với An, từ những si mê
đến lúng túng ngây dại khi lần đầu bắt gặp vẻ
đẹp dịu dàng, thánh thiện của người bạn gái;
những e dè, xấu hổ đến khổ sở mỗi khi gặp An
mà không biết làm sao để giãi bày đến những
ghen tuông đố kỵ và nỗi tiếc nuối, đau đớn
khôn cùng khi đối diện với đôi mắt căm hận và
thái độ bất cần của An trong ngày hợp hôn với
Lợi. Ngay cả sau này khi đã trở thành vị tướng
dũng mãnh dạn dày chinh chiến hay là một
hoàng đế “cửu ngũ chí tôn”, Nguyễn Huệ vẫn
không sao tránh được sự bối rối cố hữu và nỗi
sợ hãi vu vơ mỗi lần giáp mặt người bạn gái
Số 30 (Tháng 12 - 2019)78
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
thuở nào, nỗi sợ hãi như mang theo cả ám ảnh
đầy mặc cảm về giới hạn không thể vượt qua
của bản thân. Trong quan hệ với Nguyễn Nhạc,
sự cả nể, kiêng dè vì áp lực của tình thân cũng
khiến Nguyễn Huệ đầy bị động trong những
toan tính, sắp đặt chính trị, để vuột mất hạnh
phúc quý giá của đời mình, cuối cùng cũng
không tránh khỏi vòng luẩn quẩn của bi kịch
“huynh đệ tương tàn” mà chính bản thân cũng
là người can dự. Khắc họa cái đời thường mềm
yếu trong con người Nguyễn Huệ, tác giả đồng
thời khai thác tiếng nói nội tâm sâu thẳm và
chân thật