Tóm tắt. Bài viết luận giải về sự thống nhất trong đa dạng của công tác xã hội thể hiện
qua các phương pháp tác nghiệp cơ bản là công tác xã hội cá nhân, công tác xã hội nhóm,
tổ chức và phát triển cộng đồng. Sự thống nhất trong đa dạng của công tác xã hội thể hiện
trên các phương diện: thống nhất trong đa dạng về mục đích tác nghiệp trợ giúp đối tượng;
thống nhất trong đa dạng về nguyên tắc tác nghiệp trợ giúp đối tượng; thống nhất trong đa
dạng về tiến trình trợ giúp đối tượng và thống nhất trong đa dạng về kĩ năng tác nghiệp trợ
giúp đối tượng. Trên cơ sở luận giải về tính thống nhất trong đa dạng của công tác xã hội sẽ
giúp cho các nhà nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo và hoạt động thực tế có định hướng đúng
đắn, cách tiếp cận linh hoạt, đa chiều và phù hợp đối với công tác chuyên môn, hoạch định
chính sách cũng như tác nghiệp trợ giúp đối tượng.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 28 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự thống nhất trong đa dạng của công tác xã hội qua các phương pháp tác nghiệp cơ bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0027
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 2A, pp. 21-28
This paper is available online at
SỰ THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI
QUA CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁC NGHIỆP CƠ BẢN
Nguyễn Duy Nhiên
Khoa Công tác Xã hội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Bài viết luận giải về sự thống nhất trong đa dạng của công tác xã hội thể hiện
qua các phương pháp tác nghiệp cơ bản là công tác xã hội cá nhân, công tác xã hội nhóm,
tổ chức và phát triển cộng đồng. Sự thống nhất trong đa dạng của công tác xã hội thể hiện
trên các phương diện: thống nhất trong đa dạng về mục đích tác nghiệp trợ giúp đối tượng;
thống nhất trong đa dạng về nguyên tắc tác nghiệp trợ giúp đối tượng; thống nhất trong đa
dạng về tiến trình trợ giúp đối tượng và thống nhất trong đa dạng về kĩ năng tác nghiệp trợ
giúp đối tượng. Trên cơ sở luận giải về tính thống nhất trong đa dạng của công tác xã hội sẽ
giúp cho các nhà nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo và hoạt động thực tế có định hướng đúng
đắn, cách tiếp cận linh hoạt, đa chiều và phù hợp đối với công tác chuyên môn, hoạch định
chính sách cũng như tác nghiệp trợ giúp đối tượng.
Từ khóa: Công tác xã hội, thống nhất trong đa dạng, các phương pháp tác nghiệp cơ
bản, mục đích của công tác xã hội, nguyên tắc tác nghiệp, tiến trình tác nghiệp, kĩ năng
tác nghiệp.
1. Mở đầu
Công tác xã hội (CTXH) là một ngành khoa học, đồng thời là một nghề nghiệp chuyên
môn được chính thức xác định, khẳng định và phát triển từ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, nhưng
những tiền đề của nó đã có gốc rễ từ rất lâu đời, thể hiện qua các hành động từ thiện, nghĩa cử cao
đẹp, nhân ái, nhân văn. Hơn một thế kỉ qua, CTXH đã không ngừng vận động, bổ sung, hoàn thiện
trên cả phương diện lí luận và thực tiễn, lí thuyết và thực hành, hình thành nên ba phương pháp tác
nghiệp cơ bản: CTXH cá nhân, CTXH nhóm, Tổ chức và phát triển cộng đồng. Hiện nay, CTXH
đã phổ biến ở hầu khắp các quốc gia, lãnh thổ trên thế giới và ngày càng chứng tỏ sự cần thiết, vai
trò, giá trị của CTXH trong xã hội hiện đại.
Tùy thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, dựa trên những đặc điểm về kinh tế, chính trị và văn
hóa - xã hội, CTXH được nghiên cứu, ứng dụng với những mức độ và có tính đặc thù nhất định.
Là khoa học và nghề chuyên môn, CTXH có hệ thống lí thuyết, cơ sở lí luận vừa mang tính độc
lập, vừa đa dạng, liên ngành rất rộng lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực và tác nghiệp trợ giúp với
nhiều đối tượng khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu, ứng dụng thực hành CTXH cần phải được tiếp cận
dựa trên luận điểm khoa học và trong bối cảnh là sự thống nhất trong đa dạng thể hiện qua mục
đích, nguyên tắc, tiến trình và kĩ năng tác nghiệp của các phương pháp CTXH cơ bản.
Ngày nhận bài: 15/1/2016. Ngày nhận đăng: 10/5/2016.
Tác giả liên lạc: Nguyễn Duy Nhiên, địa chỉ e-mail: nguyenduynhien2005@yahoo.com
21
Nguyễn Duy Nhiên
Sự đa dạng của về mục đích, nguyên tắc, tiến trình và kĩ năng tác nghiệp được thể hiện
ở các phương pháp tác nghiệp cơ bản của CTXH và được trình bày trong nhiều tài liệu trong và
ngoài nước. Có thể nêu một số tài liệu: Social Work A Profession of Many Faces của nhóm tác giả
Armando T. Morales, Braddford W. Sheafor [1]; Generalist Social Work Practice An Empowering
Approach do Karla Krogsrud Miley, Michael O’Melia và Brenda DuBois biên soạn [2]; Giáo trình
Nhập môn Công tác xã hội của Bùi Thị Xuân Mai [3], Giáo trình Nhập môn công tác xã hội của
Nguyễn An Lịch [4], Giáo trình Nhập môn Công tác xã hội của Mai Thị Kim Thanh [5], Giáo trình
Công tác xã hội Nhóm do Nguyễn Thị Thái Lan chủ biên [6], Tài liệu tập huấn Nghề công tác xã
hội nền tảng triết lí và kiến thức của các tác giả Gina A. Yap, Joel C. Cam, Bùi Thị Xuân Mai [7]
và các cuốn Giáo trình Công tác xã hội Nhóm [8], Nhập môn Công tác xã hội [9] của Nguyễn Duy
Nhiên. . . Tuy nhiên, cho đến nay, hầu như chưa có tác giả nào tiếp cận, nghiên cứu một cách có hệ
thống về sự thống nhất trong đa dạng của CTXH. Do đó, đây là vấn đề cần được quan tâm và việc
luận giải nó sẽ có ý nghĩa thiết thực đối với các nhà nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động thực tiễn
CTXH.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Thống nhất trong đa dạng về mục đích của công tác xã hội
Công tác xã hội có sự thống nhất về mục đích chung, khái quát nhưng mỗi phương pháp tác
nghiệp cơ bản lại có những mục tiêu cụ thể đặc thù và ngay trong mỗi phương pháp cũng có sự
thống nhất về mục đích nhưng với từng trường hợp, đối tượng, hoạt động cụ thể lại có những mục
tiêu cụ thể cần đạt được khác nhau, thể hiện sự đa dạng.
Công tác xã hội là hoạt động chuyên nghiệp được thực hiện dựa trên nền tảng khoa học
chuyên ngành nhằm hỗ trợ đối tượng có vấn đề xã hội (cá nhân, nhóm, gia đình và cộng động)
giải quyết vấn đề gặp phải, cải thiện hoàn cảnh, vươn lên hòa nhập xã hội theo hướng tích cực,
bền vững.
- Mục đích cơ bản của CTXH là nâng cao các chức năng xã hội của cá nhân, nhóm, gia
đình, cộng đồng, trước hết và trọng tâm là các cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng có hoàn cảnh
đặc biệt, có nan đề cuộc sống, rủi ro, thiệt thòi, yếu thế; Cải thiện, thay đổi tích cực môi trường xã
hội, tạo điều kiện, hỗ trợ cho các cá nhân, nhóm, gia đình, cộng đồng gắn kết và phát huy từ những
thay đổi đó; Góp phần thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội đối với tất cả mọi người, gia
đình, cộng đồng trên cơ sở quyền cơ bản của con người [4].
- Mục đích của CTXH cá nhân là hỗ trợ cá nhân có nhan đề cuộc sống, giúp cá nhân tự nhận
thức về vấn đề gặp phải, thúc đẩy, phát huy tiềm năng, kết hợp với sự hỗ trợ bên ngoài, tích cực
tham gia vào quá trình tương tác giải quyết vấn đề, cải thiện hoàn cảnh, vươn lên trong cuộc sống.
- Mục đích của CTXH nhóm là sử dụng tiến trình CTXH nhóm tạo dựng và phát huy sự
tương tác, chia sẻ kinh nghiệm, nguồn lực giữa các thành viên, giúp củng cố, tăng cường chức
năng xã hội và khả năng giải quyết vấn đề, thỏa mãn nhu cầu của nhóm.
- Mục đích của phát triển cộng đồng là thông qua tiến trình hỗ trợ làm chuyển biến cộng
đồng nghèo, có vấn đề, có nhu cầu thành cộng đồng tự lực và giải quyết các vấn đề đặt ra thông qua
việc tác động, hỗ trợ cộng đồng, nhận thức vấn đề, nhu cầu, huy động nguồn lực cho các chương
trình, dự án nhằm đạt được các mục tiêu xác định.
Đối tượng tác nghiệp trợ giúp của CTXH là rất đa dạng và có thể có những khác biệt về vấn
đề gặp phải, về hoàn cảnh, về địa bàn sinh sống, về trình độ văn hóa, nhận thức, về dân tộc, tôn
22
Sự thống nhất trong đa dạng của công tác xã hội qua các phương pháp tác nghiệp cơ bản
giáo. . . Trong quá trình tác nghiệp trợ giúp, vừa phải hướng đến mục đích chung, đồng thời cần
phải đạt được mục đích với những mục tiêu cụ thể đối với từng đối tượng trợ giúp. Thực hiện quá
trình trợ giúp đạt được các mục đích, mục tiêu cụ thể đối với từng đối tượng trợ giúp chính là góp
phần và khẳng định thực hiện mục đích chung của CTXH.
2.2. Thống nhất trong đa dạng về nguyên tắc tác nghiệp công tác xã hội
Trong quá trình tác nghiệp trợ giúp đối tượng, CTXH có các nguyên tắc tác nghiệp chung và
các nguyên tắc tác nghiệp đặc thù của từng phương pháp tác nghiệp. Hoạt động chuyên môn và tác
nghiệp trợ giúp đối tượng, người làm CTXH cần phải quán triệt các nguyên tắc chung và nguyên
tắc đặc thù. Đây chính là sự thể hiện tính thống nhất trong đa dạng về nguyên tắc tác nghiệp của
CTXH. Các nguyên tắc tác nghiệp chung của CTXH bao gồm: (1) Chấp nhận đối tượng - sự sẵn
sàng tác nghiệp trợ giúp đối tượng; (2) Cá biệt hóa hay sự khác biệt, tính đặc thù về hoàn cảnh; (3)
Đối tượng cùng tham gia giải quyết vấn đề; (4) Tôn trọng quyền tự quyết của đối tượng; (5) Người
làm CTXH tự ý thức về bản thân và sứ mệnh của CTXH. Đối với các phương pháp CTXH cá nhân,
CTXH nhóm, Tổ chức và phát triển cộng đồng, có những nguyên tắc đặc thù. Đó là, trong CTXH
cá nhân, có các nguyên tắc đăch thù: (1) chấp nhận thân chủ, (2) cá biệt hóa thân chủ, (3) thân chủ
cùng tham gia giải quyết vấn đề, (4) tôn trọng quyền tự quyết của thân chủ, (5) giữ bí mật thông
tin liên quan đến thân chủ; Trong CTXH nhóm là các nguyên tắc đặc thù: (1) đảm bảo và thể hiện
sự tương đồng trải nghiệm, (2) học tập từ sự tương tác; Trong Tổ chức và phát triển cộng đồng, có
các nguyên tắc đặc thù: (1) các hoạt động phát triển cộng đồng phải dựa trên nhu cầu thiết yếu của
cộng đồng, (2) phát triển cộng đồng phải dựa trên cơ sở và hướng tới thực hiện công bằng, bình
đẳng, dân chủ, (3) các hoạt động phát triển cộng đồng là một tiến trình có sự hợp tác và sự liên kết
chặt chẽ, (4) phát huy vai trò của cá nhân có uy tín trong cộng đồng.
- Các nguyên tắc chung của CTXH
+ Nguyên tắc thứ nhất: Chấp nhận đối tượng - sự sẵn sàng tác nghiệp trợ giúp đối tượng.
Người làm CTXH, tác nghiệp trợ giúp không định kiến, phê phán hay lựa chọn, từ chối đối tượng.
Cho dù đối tượng là ai, là người như thế nào về hoàn cảnh và hành vi thì đối với CTXH họ vẫn là
người có phẩm giá, là đối tượng tác nghiệp, đối tượng cần sự can thiệp, trợ giúp, giải quyết vấn đề,
vượt quan hoàn cảnh.
+ Nguyên tắc thứ hai: Cá biệt hóa hay sự khác biệt, tính đặc thù về hoàn cảnh. Mỗi con
người luôn tồn tại và hoạt động trong những nhóm xã hội, cộng đồng nhất định, nhưng trước hết
mỗi con người là con người - cá nhân. Bởi vậy có những sự khác biệt nhất định giữa mỗi con người
- cá nhân. Sự khác biệt nhất định về nhu cầu, điều kiện bên trong, môi trường sống và các vấn đề
liên quan giữa các cá nhân cũng chính là những yếu tố quy định sự khác nhau nhất định giữa các
nhóm xã hội hay cộng đồng. Nguyên tắc này đòi hỏi người làm CTXH phải linh hoạt trong đánh
giá và ứng dụng thực hành biện pháp can thiệp, trợ giúp đối tượng.
+ Nguyên tắc thứ ba: Đối tượng cùng tham gia giải quyết vấn đề. Sự trợ giúp nhằm hướng
tới khả năng tự giúp là phương châm hành động và nội dung cốt lõi của CTXH. Hoàn cảnh gặp
phải, vấn đề của đối tượng chỉ có thể được giải quyết một cách hiệu quả, bền vững khi có sự tham
gia tích cực, tự giác của đối tượng. Người làm CTXH tác nghiệp, trợ giúp không làm thay đối
tượng mà cần chú ý đến việc khơi dậy, phát huy và nâng cao tiềm năng của đối tượng - nguồn lực
bên trong của hoạt động trợ giúp.
+ Nguyên tắc thứ tư: Tôn trọng quyền tự quyết của đối tượng. Đối tượng trải nghiệm vấn
đề của chính mình và do đó thông qua sự trợ giúp của nhân viên xã hội, đối tượng dần dần trở
23
Nguyễn Duy Nhiên
thành "chuyên gia" trong việc giải quyết vấn đề đó. Người làm CTXH tác nghiệp trợ giúp cùng với
đối tượng đưa ra các phương án, giải pháp, định hướng hành động và đánh giá về ưu thế, hạn chế,
thuận lợi, khó khăn của chúng từ đó có sự lựa chọn phương án, giải pháp được xác định là tối ưu.
Việc lựa chọn giải pháp thuộc về đối tượng, người tác nghiệp trợ giúp phải tôn trọng quyết định
của đối tượng.
+ Nguyên tắc thứ năm: Nhân viên xã hội tự ý thức về bản thân và sứ mệnh của Công tác xã
hội. Tự ý thức về bản thân và sứ mệnh nghề nghiệp là nguyên tắc đồng thời là yêu cầu bắt buộc đối
với nhân viên xã hội. Nhân viên xã hội phải luôn chứng tỏ được năng lực, phẩm chất nghề nghiệp
trong mọi tình huống, thể hiện rõ vai trò, nhiệm vụ của mình và giữ gìn nhân cách, đạo đức nghề
nghiệp đồng thời ý thức về giới hạn quyền hạn của mình, không ngừng học tập, rèn luyện, trau dồi,
nâng cao trình độ, năng lực tác nghiệp đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp và nhu cầu xã hội.
- Các nguyên tắc đặc thù của CTXH cá nhân: (1) chấp nhận thân chủ, (2) cá biệt hóa thân
chủ, (3) thân chủ cùng tham gia giải quyết vấn đề, (4) tôn trọng quyền tự quyết của thân chủ, (5)
giữ bí mật thông tin liên quan đến thân chủ là các nguyên tắc đặc thù của CTXH cá nhân. Trong
đó, nguyên tắc giữ bí mật thông tin cần đặc biệt coi trọng. Nếu như trong các nguyên tắc chung
của CTXH, các nguyên tắc 1, 2, 3, 4 là đối tượng tác nghiệp nói chung thì trong CTXH cá nhân,
đối tượng trợ giúp chính là các thân chủ có nan đề cuộc sống hoặc gặp phải vấn đề xã hội. Do đó,
các nguyên tắc này được quán triệt trong quá trình tác nghiệp trợ giúp đối với từng thân chủ.
Đối với nguyên tắc đặc thù thứ 5, giữ bí mật thông tin liên quan đến thân chủ cần được lưu
ý là vì, sự tin tưởng của thân chủ vào người trợ giúp có thể thân chủ sẽ "tiết lộ" những thông tin bí
mật về đời tư, về các mối quan hệ và cả những điều hết sức quan trọng, liên quan đến "sinh mệnh"
của bản thân hoặc của người khác. Một người làm CTXH chuyên nghiệp phải biết lắng nghe, lựa
chọn và phân tích, đánh giá tính xác thực, độ tin cậy của thông tin. Và cũng trên cơ sở phân tích,
sàng lọc đó, người trợ giúp sẽ có quyết định "áp dụng nguyên tắc giữ bí mật" như thế nào là phù
hợp. Điều quan trọng nhất là những thông tin của thân chủ không được tiết lộ cho người thứ ba
biết, nếu đó là một yêu cầu thiết yếu. Tuy nhiên, trong những trường hợp cụ thể, người trợ giúp
phải đảm bảo vừa giữ được bí mật nhưng đồng thời có giải pháp ngăn chặn những hành vi tiêu cực
có thể xảy ra đối với thân chủ hoặc từ phía thân chủ. Sự "vi phạm" nguyên tắc giữ bí mật trong
điều kiện được chấp nhận.
- Các nguyên tắc đặc thù của phương pháp CTXH nhóm:
+ Nguyên tắc đảm bảo và thể hiện sự tương đồng trải nghiệm: Trước khi đến với nhóm, mỗi
nhóm viên có thể có những hoàn cảnh khiến họ bị thất bại hay tổn thương về vật chất, sức khỏe,
tinh thần. Chính những tổn thương này làm cho họ có suy nghĩ rằng trên đời này họ là những người
đau khổ nhất, bất hạnh nhất. Tìm thấy sự tương đồng trong trải nghiệm sẽ giúp các thành viên bớt
cảm thấy đơn độc và duy nhất. Vì vậy, trong công tác xã hội nhóm, môi trường, bầu không khí
nhóm và thông qua các kĩ năng chuyên nghiệp, nhân viên xã hội cần tạo điều kiện để cá nhân thể
hiện sự trải nghiệm bản thân, chia sẻ cùng nhóm.
+ Nguyên tắc học tập từ sự tương tác: Nhóm khuyến khích thành viên thể hiện hiểu biết
hơn về bản thân mình, về những suy nghĩ, cảm xúc và hiểu biết người khác bằng việc phát triển
khả năng tiếp cận với các mối tương tác cá nhân một cách khách quan. Vì vậy, trong công tác xã
hội nhóm cần đảm bảo nguyên tắc phát huy sự học tập từ sự tương tác nhóm, tạo môi trường thân
thiện, cởi mở để thành viên được thể hiện và tăng cường tương tác với nhau.
- Các nguyên tắc đặc thù của phương pháp tổ chức và phát triển cộng đồng
24
Sự thống nhất trong đa dạng của công tác xã hội qua các phương pháp tác nghiệp cơ bản
+ Các hoạt động phát triển cộng đồng phải dựa trên nhu cầu thiết yếu của cộng đồng. Tác
viên phát triển cộng đồng không làm thay, áp đặt chương trình phát triển từ trên hoặc từ bên ngoài
vào mà phải được xuất phát từ bên trong cộng đồng. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu, quyết
định đến động lực, sự tham gia - điều kiện thành công của chương trình/dự án phát triển cộng đồng.
+ Phát triển cộng đồng phải dựa trên cơ sở và hướng tới thực hiện công bằng, bình đẳng,
dân chủ. Nguyên tắc này đòi hỏi công bằng, bình đẳng, dân chủ về thông tin, về quyền tham gia,
về mối quan hệ giữa lợi ích cộng đồng với lợi ích cá nhân và về hưởng thành quả từ trước, trong và
sau quá trình triển khai thực hiện chương trình/dự án phát triển cộng đồng.
+ Các hoạt động phát triển cộng đồng là một tiến trình có sự hợp tác và sự liên kết chặt
chẽ: bắt đầu từ những hoạt động nhỏ để đạt được những thành công nhỏ. Các hoạt động phát triển
cộng đồng là một tiến trình có sự hợp tác và sự liên kết, nó đòi hỏi phát triển phải được coi như là
một tiến trình, trong đó có các bước đi thích hợp từ thấp đến cao, từ chỗ nhận diện, đánh giá nhu
cầu đến những hành động dựa trên việc khai thác, sử dụng, phát huy nguồn lực, chuyển biến cộng
đồng ở tình trạng yếu kém, chưa thức tỉnh tiến lên cộng đồng thức tỉnh, tự lực và phát triển. Trong
toàn bộ tiến trình, sự chia sẻ về kinh nghiệm, chia sẻ về phương pháp, kĩ thuật và các sáng kiến...
từ đó có thể tránh được những mâu thuẫn, những xung đột xảy ra làm tổn hại đến sự phát triển
cộng đồng là hết sức quan trọng.
+ Phát huy vai trò của cá nhân có uy tín trong cộng đồng. Nguyên tắc này đòi hỏi phải nắm
vững mối quan hệ giữa vai trò của cá nhân với quần chúng. Phát triển của cộng đồng là trách nhiệm
chung của cộng đồng, nhưng trong đó vai trò của cá nhân có ý nghĩa rất lớn, nhiều khi có ý nghĩa
quyết định. Bởi vậy cần phải nhận diện, khích lệ, trao đổi ý kiến với cá nhân có uy tín trong cộng
đồng như già làng, trưởng bản, thầy giáo cao tuổi, nhà khoa học, nhà quản lí, người có phẩm chất
đạo đức, lối sống tốt đẹp, mẫu mực được nhiều người quý mến, nể trọng...
Như vậy, khi trợ giúp đối tượng, người làm CTXH sử dụng phương pháp tác nghiệp nào
cũng đều phải quán triệt, vận dụng các nguyên tắc tác nghiệp chung và các nguyên tắc tác nghiệp
đặc thù. Tính thống nhất trong đa dạng về nguyên tắc tác nghiệp của CTXH là cơ sở, phương châm
hành động để người làm CTXH không mắc phải các sai lầm, bởi vì vi phạm bất kỳ nguyên tắc nào
cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình trợ giúp và có thể là thất bại.
2.3. Thống nhất trong đa dạng về tiến trình công tác xã hội
Một quá trình trợ giúp, giải quyết vấn đề theo phương pháp tác nghiệp của CTXH phải được
thực hiện theo một tiến trình với các bước nhất định. Tiến trình CTXH là tổng hợp các hoạt động
tương tác theo một trật tự lô gíc giữa người làm CTXH với đối tượng và các yếu tố khác nhằm tạo
ra sự thay đổi tích cực vấn đề, hoàn cảnh của đối tượng hướng tới mục đích giúp đỡ. Như vậy, thực
chất của tiến trình CTXH là các bước tiến hành của người làm CTXH trong quá trình giúp đỡ, giải
quyết vấn đề của đối tượng nhằm đạt được mục tiêu, mang lại hiệu quả của sự giúp đỡ đối tượng.
Tuy nhiên với các đối tượng, trường hợp cụ thể sẽ có sự linh hoạt về các bước thực hiện, thậm chí
có thể thay đổi thứ tự mà không nhất thiết phải theo trình tự cứng nhắc.
Tiến trình CTXH bao gồm 4 bước:
+ Bước 1: Nhận diện hay xác định vấn đề là bước đầu tiên có ý nghĩa định hướng cho cả
tiến trình giải quyết vấn đề, trợ giúp đối tượng. Trong bước này, người làm CTXH cần phải xác
định đối tượng cần sự trợ giúp là ai: cá nhân, gia đình, nhóm hay cộng đồng? Vấn đề của đối tượng
là gì: vấn đề kinh tế, tâm lí, tình cảm, pháp luật, sức khỏe hay vấn đề nảy sinh trong các mối quan
25
Nguyễn Duy Nhiên
hệ gia đình, bạn bè, cơ quan, đồng nghiệp, lãnh đạo, môi trường sinh hoạt, lao động, công tác. . . ?
Nguyên nhân làm nảy sinh vấn đề, thời điểm, lịch sử và diễn biến của vấn đề như thế nào?...
+ Bước 2 - Lập kế hoạch giải quyết vấn đề. Lập kế hoạch giải quyết vấn đề khâu then chốt
của toàn bộ tiến trình CTXH, nó quyết định đến sự thành công hay thất bại của quá trình trợ giúp,
giải quyết vấn đề. Việc xây dựng kế hoạch thể hiện năng lực của người trợ giúp và sự tương tác
giữa người làm CTXH với đối tượng được trợ giúp. Theo kế hoạch đã xác định, từng hoạt động
được triển khai theo một lộ trình nhất định, tuy nhiên không cứng nhắc mà uyển chuyển, linh hoạt.
+ Bước 3: Tổ chức thực hiện kế hoạch. Tổ chức thực hiện các hoạt động, các nhiệm vụ trong
tiến trình trợ giúp vừa là việc hiện thực hóa kế hoạch đã xây dựng, đồng thời là sự kiểm tra, đánh
giá tính khả thi của kế hoạch. Trong quá trình tiến hành các hoạt động can thiệp hỗ trợ cụ thể, có
những hoạt động diễn ra theo đúng kế hoạch và đạt được mục tiêu đề ra, cũng có thể có những
vấn đề nảy sinh không như dự định. Tùy thuộc vào đặc điểm, nhu cầu, điều kiện giải quyết và phát
sinh vấn đề mà đi đến quyết định điều chỉnh hay không điều chỉnh kế hoạch với mức độ, hình thức
và biện pháp như thế nào. Vì vậy, trong suốt quá trình thực thi kế hoạch, giải quyết vấn đề, người
làm CTXH phải luôn quan tâm, theo dõi, bám sát các hoạt động, đánh giá kịp thời sự thay đổi tiến
bộ hay trở ngại để từ đó có những quyết định phù hợp trên cơ sở tương tác, trao đổi ý kiến với
đối tượng.
+ Bước 4: Lượng giá kết quả đạt được. Đánh giá hay lượng giá là là việc đo lường kết quả
đạt được của tiến trình trợ giúp. Lượng giá được thực hiện một cách thường xuyên theo từng giai
đoạn với những mục tiêu cụ thể và thực hiện ở khâu cuối cùng nhằm xác định mức độ thành công
của toàn bộ quá trình trợ giúp, giải quyết vấn đề của đối tượng. Kết